Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.86 MB, 104 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo Tổng Cục Thống kê năm 2009, nước ta có khoảng 256.000 doanh
nghiệp đang hoạt động, trong đó DNNVV chiếm tỷ lệ khoảng 97% (DNNVV
ngành công nghiệp chiếm 19,4%). Điều đó cho thấy vai trò của DNNVV ngày
càng chiếm một vị trí quan trọng và là bộ phận không thể thiếu trong nền kinh
tế quốc dân, góp phần thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa hiện
đại hóa đất nước. Do đó, việc hỗ trợ phát triển loại hình doanh nghiệp này
đang là mối quan tâm hàng đầu của Chính phủ và các Bộ, Ngành trong cả
nước. Chính phủ đã ban hành Nghị định 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, khuyến khích thành lập hiệp hội, câu lạc bộ, tổ
chức xã hội nghề nghiệp hỗ trợ doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong thực tế các
DNNVV nói chung, DNNVV ngành công nghiệp nói riêng chưa thực sự phát
huy hết các nguồn lực, tiềm năng và đang gặp rất nhiều khó khăn. Khó khăn
lớn nhất là vốn, do thiếu vốn nên các doanh nghiệp khó có thể đổi mới công
nghệ, đầu tư máy móc thiết bị hiện đại, đào tạo công nhân lành nghề, nâng
cao năng lực quản lý nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh để tồn tại và phát
triển. Tháo gỡ được khó khăn này sẽ tạo điều kiện cho DNNVV ngành công
nghiệp phát triển, đủ sức cạnh tranh trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, góp
phần phát triển kinh tế đất nước.
Ở tỉnh Bình Định, các DNNVV nói chung, DNNVV ngành công
nghiệp nói riêng cũng đang gặp nhiều khó khăn và thách thức trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, việc nghiên cứu, phân tích đánh giá đúng
thực trạng và tính đặc thù của DNNVV ngành công nghiệp ở tỉnh Bình Định,
trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp, chính sách để hỗ trợ thúc đẩy DNNVV


2



ngành công nghiệp của Tỉnh phát triển trong quá trình hội nhập quốc tế là vấn
đề cấp bách hiện nay.
Ý thức được tầm quan trọng và bức thiết của vấn đề này, tôi đã chọn đề
tài “Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ngành công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Bình Định” làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về phát triển DNNVV ngành công
nghiệp để làm khung lý luận nghiên cứu đề tài.
- Phân tích thực trạng phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong
ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Định, chỉ ra những mặt thành công,
những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy phát triển DNNVV
trong ngành công nghiệp ở Bình Định trong thời gian đến.
3. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu
- Cách tiếp cận: Nghiên cứu thực chứng và chuẩn tắc, sử dụng phương
pháp duy vật biện chứng kết hợp với duy vật lịch sử.
- Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng các phương pháp: thống kê, điều tra khảo sát, phân tích,
so sánh, tổng hợp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề
kinh tế và quản lý về phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong ngành công
nghiệp.
- Phạm vi nghiên cứu: Các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong ngành
công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Định.


3


5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Làm rõ thực trạng phát triển DNNVV ngành công nghiệp tỉnh Bình
Định, nhằm tìm ra những giải pháp tiếp tục phát triển các doanh nghiệp này
cho phù hợp với điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá và phát triển kinh tế thị
trường.
- Đề xuất các giải pháp cụ thể để thực hiện các giải pháp đó đối với
phát triển DNNVV ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Định.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được trình bày thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển DNNVV ngành công nghiệp
Chương 2: Thực trạng phát triển DNNVV ngành công nghiệp trên địa
bàn tỉnh Bịnh Định
Chương 3: Một số giải pháp đẩy mạnh phát triển DNNVV ngành công
nghiệp tại tỉnh Bình Định trong thời gian đến


4

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DNNVV NGÀNH CÔNG NGHIỆP

1.1. Những vấn đề chung về DNNVV ngành công nghiệp
1.1.1. Khái niệm DNNVV ngành công nghiệp
Trong lịch sử kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, có rất
nhiều khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của
từng quốc gia; tùy thuộc vào từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế đất
nước hay khu vực mà các nhà kinh tế, các chính phủ đưa ra các khái niệm
khác nhau về doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Ở Việt Nam, từ năm 1998 đến nay, Chính phủ đã đưa ra ba khái niệm

doanh nghiệp nhỏ và vừa :
Theo quy định tạm thời của Chính phủ trong Công văn số 618/CP –
KTN ngày 20/6/1998, doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam là các doanh
nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ VND hoặc số lao động bình quân hàng năm
dưới 200 người.
Theo nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Thủ tướng Chính
phủ về việc trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, Chính phủ đưa ra
định nghĩa về doanh nghiệp vừa và nhỏ như sau : “Doanh nghiệp vừa và nhỏ
là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật
hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình
hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội cụ thể
của ngành, của địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương
trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao
động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên” [9].
Theo nghị định 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Thủ tướng Chính
phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Doanh nghiệp nhỏ và vừa


5

là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia
thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn
vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của
doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu
tiên). Theo nghị định này có quy định rõ cho từng ngành, lĩnh vực cụ thể, đối
với ngành công nghiệp, doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp chỉ có 10 lao
động trở xuống; doanh nghiệp nhỏ có từ trên 10 lao động đến 200 lao động
hoặc vốn hoạt động từ 20 tỉ đồng trở xuống; tương tự, doanh nghiệp vừa có từ
trên 200 lao động đến 300 lao động hoặc vốn từ trên 20 tỉ đồng đến 100 tỉ
đồng [10].

1.1.2. Tiêu chí xác định DNNVV ngành công nghiệp
Do những đặc thù được quy định bởi quy mô doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường nên các doanh nghiệp có quy mô nhỏ là đối tượng của các
chính sách hỗ trợ đặc biệt từ phía Chính phủ, để xác định rõ đối tượng của các
chính sách hỗ trợ này cần có những tiêu chí cụ thể, người ta gọi đó là các tiêu
chí về DNNVV. DNNVV ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đều tập trung ở
khu vực tư nhân là chính. Đó cũng là hợp lý với quy luật tự nhiên, các nhà
doanh nghiệp tư nhân thường khởi sự công việc kinh doanh của mình từ nhỏ
đến lớn. Họ có thể đăng ký thành lập rất nhiều, nhưng cũng bị phá sản không
ít trên bước đường phấn đấu để trở thành những doanh nghiệp lớn
Tại các nền kinh tế khác nhau, ở từng giai đoạn phát triển kinh tế thì
định nghĩa DNNVV thay đổi.
Tại HongKong [15, tr 1], các doanh nghiệp sản xuất nói chung có số
nhân viên dưới 100 lao động được xem là DNNVV.
Bên cạnh đó, từ góc độ là bên cung cấp dịch vụ, các ngân hàng tại
HongKong còn đưa ra định nghĩa DNNVV thông qua việc sử dụng các thông


6

số sau: Doanh thu hàng năm, mức độ tập trung tư bản, số lượng nhân viên,
năng lực tín dụng.
Tại Thái Lan, khái niệm các DNNVV lĩnh vực sản xuất được đưa ra
một cách chi tiết và cụ thể hơn với sự tách biệt rõ ràng giữa các doanh nghiệp
vừa và doanh nghiệp nhỏ. Hai thông số quan trọng được sử dụng là số lượng
nhân công và tài sản cố định.
Bảng 1.1. Định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Thái Lan ngành sản xuất
Doanh nghiệp nhỏ

Sản xuất


Doanh nghiệp vừa

Số lượng

Tài sản

Số lượng

Tài sản

nhân công

(không tính

nhân công

(không tính

dưới 50

đất)

đất)

(triệu bạt)

(triệu bạt)

Dưới 50


51-200

50-200

Nguồn: Kỷ yếu hội thảo (2006), Tăng cường hỗ trợ và hợp tác vì sự phát triển
các doanh nghiệp vừa và nhỏ APEC, Hà Nội.
Tại Đài Loan [15, tr 2], tùy thuộc vào bản chất của từng ngành kinh
doanh các cơ quan chính phủ có thể đưa ra định nghĩa về DNNVV dựa trên số
lượng nhân viên thường xuyên, trường hợp các doanh nghiệp được phân loại
trong ngành sản xuất, ngành xây dựng hoặc ngành khai thác mỏ, số lượng
nhân viên thường xuyên dưới 200 người.
Bên cạnh đó, theo Bộ Kinh tế Đài Loan, DNNVV được định nghĩa là
những doanh nghiệp đăng ký với Bộ Kinh tế và đáp ứng các yêu cầu về vốn,
trường hợp doanh nghiệp trong ngành sản xuất, ngành xây dựng, hoặc ngành
khai thác mỏ có vốn góp không quá 80 triệu Nhân dân tệ.


7

Theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới (World Bank) [14, tr 12 – 13]
thì DNNVV được quy định như sau:
- Doanh nghiệp vô cùng nhỏ là các DN có đến 10 lao động, tổng tài sản
trị giá không quá 100.000 USD và tổng doanh thu hàng năm không quá
100.000 USD.
- Doanh nghiệp nhỏ là các doanh nghiệp không quá 50 lao động, tổng
tài sản trị giá không quá 3 triệu USD và tổng doanh thu hàng năm không quá
3 triệu USD.
- Doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp không quá 300 lao động, tổng tài
sản trị giá không quá 15 triệu USD và tổng doanh thu hàng năm không quá 15

triệu USD.
Việc xác định quy mô DNNVV ngành sản xuất tại các nước trên thế
giới và của Worldbank chỉ mang tính tương đối vì nó chịu tác động của một
loạt các yếu tố như trình độ phát triển của một nước, tính chất ngành nghề,
điều kiện phát triển của vùng lãnh thổ, tương quan mặt bằng giá lao động, giá
thiết bị hay mục đích phân loại doanh nghiệp trong thời kỳ nhất định. Nhưng
nhìn chung các nước trên thế giới sử dụng 2 nhóm tiêu chí là định tính và định
lượng để định nghĩa DNNVV ngành sản xuất [14, tr 14].
Tiêu chí định tính dựa trên đặc trưng cơ bản như chuyên môn hóa, đầu
mối quản lý, mức độ phức tạp của quản lý...các tiêu chí này có ưu thế là phản
ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng thường khó xác định trên thực tế. Do
đó, nhóm tiêu thức này thường chỉ được dùng làm cơ sở tham khảo, ít được
sử dụng làm cơ sở để xác định quy mô doanh nghiệp.
Tiêu chí định lượng thường bao gồm các nhóm chỉ tiêu về số lượng, lao
động, số vốn, doanh thu. Trong đó vốn và số lao động được áp dụng nhiều
nhất làm tiêu chí xác định doanh nghiệp. Tại những thời điểm khác nhau thì
các tiêu chí này cũng khác nhau giữa các nước.


8

Các cách xác định trên có nhiều điểm khác nhau, không thể rập khuôn
theo kinh nghiệm nước ngoài hoặc tiêu chuẩn cứng nhắc, máy móc trong việc
phân loại DNNVV ngành công nghiệp, nhất là trong nền kinh tế thị trường sơ
khai và chưa vững chắc đang trong giai đoạn phát triển ở nước ta hiện nay.
Khi đưa ra các tiêu chuẩn chung để phân loại quy mô doanh nghiệp phải dựa
vào tiêu chuẩn chung của các nước trong khu vực và thế giới, đồng thời phải
xem xét trong điều kiên cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn phát triển
nền kinh tế và nhất là tiêu chuẩn về vốn và lao động thường xuyên phải được
hiểu là đồng thời mới xác định chính xác quy mô DNNVV ngành công

nghiệp.
So với tiêu chuẩn Ngân hàng thế giới thì tiêu chuẩn DNNVV ngành
công nghiệp của Việt Nam có số lao động gần tương đương nhưng số vốn của
DNNVV ngành công nghiệpViệt Nam quá nhỏ (100 tỷ đồng chỉ tương đương
5 triệu USD).
Tóm lại, tại các nền kinh tế trên thế giới việc định nghĩa doanh nghiệp
ở quy mô nào được coi là DNNVV được xem xét trên góc độ của từng ngành
và lĩnh vực khác nhau, với mục đích chung là tạo ra sự đồng đều tương đối.
Qua đó tránh tình trạng các doanh nghiệp có cùng chỉ số (ví dụ như lao động)
nhưng trên thực tế lại khác nhau quá lớn về phương thức quản lý và điều hành
doanh nghiệp. Như vậy, việc xác định DNNVV ngành công nghiệp của Việt
Nam theo nghị định 56/2009/NĐ-CP là phù hợp với hoàn cảnh kinh tế của
Việt Nam cũng như của Bình Định trong hiện tại và tương lai gần. Nhưng đến
khi nền kinh tế Việt Nam phát triển cao hơn thì tiêu chí trên cần xem xét lại
chỉ tiêu về vốn.


9

1.1.3. Đặc điểm của DNNVV ngành công nghiệp trong nền kinh tế Việt
Nam
1.1.3.1. Đặc điểm loại hình kinh doanh
Các DNNVV ngành công nghiệp được phân loại thông qua quy mô, tuy
nhiên bản thân điều này cũng tạo nên các đặc điểm của DNNVV ngành công
nghiệp. Trong các điều kiện và các hoàn cảnh khác nhau thì đây có thể là
điểm mạnh hoặc điểm yếu của các doanh nghiệp này [15, tr 6 – 8].
Thứ nhất phải kể đến tính dễ khởi sự. Luật Doanh nghiệp hiện nay áp
dụng đối với các ngành nghề kinh doanh không có điều kiện cũng không quy
định mức vốn pháp định bắt buộc khi khởi sự doanh nghiệp. Luật cũng không
quy định số lượng lao động tối thiểu khi cấp giấy phép thành lập doanh

nghiệp. Cùng với môi trường kinh doanh đang được cải thiện thì số lượng các
DNNVV ngành công nghiệp đăng ký mới gia tăng nhanh chóng. Trong một
chừng mực nhất định, khi việc thực thi các quy định về phá sản và giải thể
doanh nghiệp chưa thuận lợi nên một số DNNVV ngành công nghiệp thay vì
rút lui khỏi thị trường một cách chính thức thì chọn phương án đơn giản là
tạm ngừng hoạt động. Cũng chính vì lý do đó nên việc thống kê số lượng các
DNNVV ngành công nghiệp nói riêng và DNNVV nói chung đang hoạt động
trên thị trường gặp nhiều khó khăn và khó đưa ra con số chính xác.
Thứ hai là tính linh hoạt cao. Đây là đặc điểm gắn liền với các
DNNVV. Do quy mô không lớn nên đầu tư của các DNNVV ngành công
nghiệp vào các dây chuyền và máy móc công nghệ không nhiều, chính vì lẽ
đó nên sau một thời gian hoạt động nếu nhận thấy một ngành, hay một mặt
hàng kinh doanh nào đó không có lời thì lập tức các DNNVV ngành công
nghiệp sẽ chuyển hướng sang các mặt hàng hiệu quả hơn. Một số DNNVV
ngành công nghiệp sau một thời gian khẳng định được uy tín và thương hiệu
đã tiến hành các biện pháp tích luỹ vốn và mở rộng quy mô để trở thành các


10

doanh nghiệp lớn. Tuy nhiên nhiều chủ DNNVV ngành công nghiệp bằng
lòng với quy mô của doanh nghiệp mình và thể hiện tính linh hoạt cao để
khẳng định vị trí trên thương trường. Nếu như các doanh nghiệp lớn chuyên
sản xuất kinh doanh một số sản phẩm nhất định thì khi gặp suy thoái hoặc các
tác động bất lợi từ bên ngoài thì sẽ rất khó xoay xở.
Thứ ba là tính linh hoạt trong cạnh tranh. Với xuất phát điểm là khả
năng dễ tham gia vào thị trường cũng như rút khỏi thị trường. Trong các
chuỗi giá trị ngành hàng thì các DNNVV ngành công nghiệp có thể khá dễ
dàng tìm cho mình phân khúc phù hợp trong hợp tác với các doanh nghiệp
lớn.

Bên cạnh đó, chúng ta cũng có thể kể đến hàng loạt các điểm yếu của
các DNNVV ngành công nghiệp, mà khởi đầu là thiếu các nguồn lực phát
triển, đặc biệt là các nguồn lực về tài chính và con người. Đối với một số
ngành hàng thì các DNNVV ngành công nghiệp không tận dụng được các lợi
thế về quy mô. Còn một điểm nữa đó là sự hình thành và phát triển của các
DNNVV ngành công nghiệp phụ thuộc nhiều vào chủ doanh nghiệp nên khó
thu hút trí tuệ tập thể trong các quyết định dài hạn và chiến lược của doanh
nghiệp. Điều này thể hiện qua cách thức đưa ra các quyết định quan trọng
mang tính chiến lược của doanh nghiệp. Tại các doanh nghiệp lớn các quyết
định mang tính chiến lược được thực hiện theo quy trình và có hệ thống, tuy
nhiên tại các DNNVV ngành công nghiệp thì các quyết định này trong nhiều
trường hợp mang nặng ý kiến chủ quan của chủ doanh nghiệp.
1.1.3.2. Đặc điểm về tổ chức quản lý các DNNVV ngành công nghiệp
Tổ chức quản lý DNNVV ngành công nghiệp cũng như DNNVV ở
nước ta có những đặc thù riêng. Số lượng rất nhiều, nhưng quy mô nhỏ, phân
tán, khả năng tổ chức liên kết với nhau và với các doanh nghiệp lớn rất kém.
Việc tổ chức phối hợp giữa các doanh nghiệp mang tính tự phát.


11

Các cơ quan quản lý Nhà nước đại diện cho DNNVV đã được thiết lập
nhưng chủ yếu quản lý ở khu vực ngoài quốc doanh. Trong khi đó một bộ
phận lớn các DNNVV thuộc khu vực kinh tế Nhà nước lại thuộc sự quản lý
của nhiều bộ phận khác nên khả năng liên kết kém hiệu quả. Chức năng,
nhiệm vụ của cơ quan quản lý Nhà nước của DNNVV được quy định cụ thể
nhưng khả năng hoạt động hạn chế, kém hiệu quả. Vai trò chưa thể hiện được
như những tổ chức hỗ trợ đắc lực cho phát triển của DNNVV mà chủ yếu là
cơ quan quản lý cấp trên. Những chức năng về cung cấp thông tin, định
hướng đầu tư, tư vấn giúp đỡ chưa thật sự phát huy tác dụng nên sự tin tưởng

vào tổ chức này còn thấp.
Hệ thống các tổ chức tín dụng, tín dụng ngân hàng phát triển chưa cao,
trình độ tổ chức, phục vụ còn hạn chế. Các DNNVV chưa tiếp cận được với
nguồn tín dụng của ngân hàng. Phần lớn nguồn tín dụng chỉ dành cho các
DNNVV thuộc khu vực Nhà nước, có sự ngăn cách về cơ cấu tổ chức giữa
DNNN với các thành phần kinh tế khác. Mối quan hệ giữa hệ thống ngân
hàng tín dụng với các DNNVV chưa chặt chẽ. Các doanh nghiệp không đáp
ứng được các yêu cầu về thủ tục vay thế chấp của ngân hàng đưa ra, mặt khác
bản thân các DNNVV hoạt động theo hướng tự huy động vốn nhàn rỗi trong
dân chúng từ các mối quan hệ họ hàng, thân quen là chủ yếu. Quy mô doanh
nghiệp nhỏ, vốn hoạt động không nhiều, địa bàn và phạm vi hoạt động của
doanh nghiệp còn hạn chế chủ yếu sản xuất và tiêu thụ trong vùng tại địa
phương. Đây là nguyên nhân làm cho quan hệ trao đổi, giao dịch tài chính ít
thông qua hệ thống ngân hàng [14, tr 22 – 23].
1.1.4. Vai trò của DNNVV ngành công nghiệp trong phát triển kinh tế - xã
hội
Việt Nam là nước đang phát triển với hơn 70% dân số sống ở nông
thôn, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, mức thu nhập thấp, lao động nhàn rỗi


12

và nhiều lại đang trong qua trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì phát huy
tiềm lực của các DNNVV là rất cần thiết. Theo số liệu thống kê, tính đến cuối
năm 2009 Việt Nam có khoảng 256.000 doanh nghiệp đang hoạt động sản
xuất kinh doanh theo Luật doanh nghiệp. Trong số này khoảng 97% là các
DNNVV với số lượng là 248.000 doanh nghiệp (DNNVV ngành công nghiệp
chiếm 19,4%). DNNVV ngành công nghiệp đóng vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc phát triển bền vững nền kinh tế như: đóng góp vào tổng sản phẩm
xã hội, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, thúc đẩy chuyển dịch cơ

cấu kinh tế theo hướng hiện đại,…Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu gay gắt
như hiện nay, các nước luôn chú trọng hỗ trợ các DNNVV, đặc biệt DNNVV
ngành công nghiệp nhằm huy động tối đa các nguồn lực, tăng sức cạnh tranh
cho sản phẩm.
Về mặt lý luận và thực tế cho thấy DNNVV ngành công nghiệp có vị
trí khá quan trọng, bởi vai trò vị trí DNNVV ngành công nghiệp góp phần
quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội sau [6, tr 20 - 22]:
 Đóng góp đáng kể vào sự phát triển và sự ổn định kinh tế của mỗi
nước, việc phát triển DNNVV ngành công nghiệp góp phần quan trọng vào
tăng trưởng nền kinh tế nhất là những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn
thấp như Việt Nam.
 Cung cấp cho xã hội khối lượng hàng hóa đáng kể.
 Thu hút nhiều lao động, tạo ra nhiều việc làm với chi phí đầu tư
thấp, giảm thất nghiệp. Do vậy các DNNVV ngành công nghiệp là nơi có khả
năng tiếp nhận phần lớn số lao động mới hàng năm và số lao động dư thừa sa
thải của doanh nghiệp lớn và do sắp xếp lại DNNN hay cải cách hành chính.
 Tạo nguồn thu nhập ổn định góp phần giảm bớt chênh lệch về thu
nhập cho bộ phận dân cư, tạo ra sự phát triển tương đối đồng đều giữa các


13

vùng của đất nước và cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác
nhau.
 Hình thành phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng động. Cùng
với việc phát triển các DNNVV ngành công nghiệp là sự xuất hiện ngày càng
nhiều hơn các nhà kinh doanh sáng lập.
 Tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy sản xuất kinh doanh có hiệu
quả. Sự tham gia của nhiều các DNNVV ngành công nghiệp vào sản xuất làm
cho số lượng và chủng loại sản phẩm sản xuất tăng nhanh, kết quả làm tăng

tính chất cạnh tranh trên thị trường, tạo ra sức ép lớn đòi hỏi các doanh nghiệp
lớn phải thường xuyên đổi mới, giảm chí phí, nâng cao chất lượng để thích
ứng với môi trường kinh doanh mới. Những yếu tố đó có tác dụng lớn làm
cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn.
 Huy động các nguồn vốn và sức mạnh của xã hội trong sản xuất,
kinh doanh.
 Đóng góp quan trọng vào chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá và hiện đại hóa.
 Góp phần giải quyết các vấn đề xã hội.
 Đóng góp cho ngân sách Nhà nước.
Các vai trò kể trên có thể gộp thành hai nhóm chính - phát triển kinh tế
và xã hội. Các DNNVV ngành công nghiệp luôn là kênh huy động quan trọng
nguồn vốn của xã hội phục vụ cho sản xuất. Điều này có được nhờ đặc tính dễ
hình thành của các DNNVV. Đặc tính linh hoạt, dễ chuyển đổi và thay đổi
định hướng kinh doanh đã giúp các DNNVV ngành công nghiệp cùng với các
doanh nghiệp lớn tạo ra các mối liên kết hiệu quả trong các chuỗi giá trị. Các
DNNVV ngành công nghiệp cũng đóng vai trò quan trọng trong các ngành
công nghiệp phụ trợ cho các doanh nghiệp lớn. Tạo công ăn việc làm và nâng


14

cao thu nhập cho người lao động là vai trò quan trọng của các DNNVV ngành
công nghiệp trong phát triển xã hội.
Tính dễ khởi sự đã tạo điều kiện cho việc thành lập các DNNVV ngành
công nghiệp trở nên dễ dàng, do đó góp phần tích cực vào việc tạo việc làm.
Số lượng đông đảo các DNNVV ngành công nghiệp đã tạo điều kiện cho việc
thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư phục vụ cho mục đích sản xuất kinh
doanh và đầu tư. Với một môi trường kinh doanh thuận lợi thì rào cản tham
gia vào thị trường là tương đối thấp, góp phần khuyến khích các cá nhân có

tinh thần doanh nghiệp tham gia sản xuất kinh doanh và thành lập doanh
nghiệp. Việc luân chuyển hàng hoá và lao động của các DNNVV ngành công
nghiệp góp phần tích cực vào phát triển đồng đều giữa các vùng. Cọ xát và
tích luỹ kinh nghiệm trên thương trường góp phần đào tạo các cán bộ quản lý
cho các doanh nghiệp lớn cũng như tạo điều kiện cho các DNNVV ngành
công nghiệp hội nhập hiệu quả hơn vào nền kinh tế thế giới. Tại nhiều quốc
gia và nền kinh tế trên thế giới, chiến lược phát triển DNNVV gắn liền với
chiến lược phát triển doanh nghiệp của toàn bộ nền kinh tế mà trong đó mục
tiêu ban đầu là tạo mối liên kết với các doanh nghiệp lớn trong các chuỗi giá
trị và hệ thống công nghiệp phụ trợ. Tính linh hoạt và năng động tạo điều kiện
cho các DNNVV công nghiệp đóng vai trò quan trọng trong chuyển đổi cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hóa.
Tóm lại, trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế và tự do hóa thương mại
như hiện nay việc phát triển DNNVV ngành công nghiệp có nhiều lợi thế như:
 Khả năng linh hoạt cao, dễ thích ứng với sự thay đổi của nhu cầu thị
trường thể hiện qua khả năng chuyển đổi đa dạng hóa sản phẩm nhanh.
 Cần ít diện tích sản xuất tập trung, có khả năng sản xuất phân tán,
khả năng này phát huy được lợi thế về giảm đầu tư ban đầu cho cơ sở vật


15

chất, tận dụng các nguồn lực phân tán, đồng thời cũng tạo ra tính linh hoạt
cao trong tổ chức sản xuất.
Tuy nhiên, các DNNVV ngành công nghiệp cũng có những hạn chế
nhất định như:
 Khả năng cạnh tranh thấp do tiềm lực tài chính ít.
 Vị thế trên thị trường thấp.
 Ít có khả năng huy động vốn để đầu tư đổi mới công nghệ giá trị cao.
 Khả năng trong việc đào tạo công nhân, đầu tư cho nghiên cứu, thiết

kế cải tiến công nghệ, đổi mới sản phẩm.
 Trong nhiều trường hợp thường bị động vì phụ thuộc vào hướng phát
triển của các doanh nghiệp lớn và tồn tại như một bộ phận của doanh nghiệp
lớn.
1.2. Nội dung phát triển DNNVV ngành công nghiệp
Phát triển DNNVV ngành công nghiệp là sự tăng trưởng cả về mặt
lượng và mặt chất của các DNNVV.
Về mặt lượng, phát triển DNNVV ngành công nghiệp được thực hiện
thông qua sự gia tăng số lượng DNNVV; gia tăng quy mô của DNNVV bằng
việc gia tăng các yếu tố nguồn lực như lao động, vốn, kỹ thuật công nghệ…;
từ đó làm gia tăng kết quả đầu ra như gia tăng sản lượng hàng hóa, gia tăng
giá trị sản xuất, mở rộng thị trường,…
Về mặt chất, phát triển DNNVV ngành công nghiệp được thể hiện ở sự
gia tăng hiệu quả sản xuất của bản thân các DNNVV, nâng cao chất lượng sản
phẩm; gia tăng tích lũy cho DN; gia tăng sự đóng góp cho xã hội của các
DNNVV ngành công nghiệp như đóng góp vào GDP, thúc đẩy sự phát triển
của ngành công nghiệp, đóng góp cho ngân sách, tạo việc làm, nâng cao thu
nhập cho người dân,...


16

Sự phát triển của DNNVV ngành công nghiệp được thể hiện qua các
nội dung sau:
1.2.1. Phát triển số lượng DNNVV ngành công nghiệp
Phát triển số lượng DNNVV ngành công nghiệp là sự gia tăng về số
lượng các đơn vị hoạt động trong ngành công nghiệp. Số lượng DNNVV
ngành công nghiệp gia tăng hàng năm chứng tỏ DNNVV ngành công nghiệp
ngày càng phát triển.
Phát triển số lượng DNNVV ngành công nghiệp phải được tiến hành

cùng với việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi vì các
doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh mới đứng vững được trong điều
kiện cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế. Năng lực cạnh tranh của các
DNNVV ngành công nghiệp ngày càng được nâng cao mới đánh giá thực chất
sự phát triển DNNVV ngành công nghiệp [18, tr 11].
1.2.2. Mở rộng quy mô DNNVV ngành công nghiệp
- Mở rộng quy mô doanh nghiệp là quá trình tăng năng lực sản xuất của
từng doanh nghiệp, là tiêu chí phản ánh tổng hợp sự kết hợp một cách có hiệu
quả các yếu tố nguồn lực [18, tr 12].
- Mở rộng quy mô doanh nghiệp được thực hiện bằng cách gia tăng các
các nguồn lực của từng doanh nghiệp. Các nguồn lực theo nghĩa rộng, gồm
các yếu tố về tổ chức, kỹ thuật, nhân sự, cơ sở vật chất, tài chính doanh
nghiệp.
Các nguồn lực có thể chia thành hai loại: nguồn lực hữu hình và nguồn
lực vô hình.
● Phát triển các nguồn lực hữu hình:
+ Nguồn lực lao động: nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn của
chủ doanh nghiệp và khả năng, trình độ tay nghề của người lao động, xây


17

dựng các thói quen làm việc hữu hiệu của người lao động cho hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
+ Nguồn lực về tài chính: nâng cao khả năng huy động vốn và khả năng
tự tài trợ của doanh nghiệp. Khả năng huy động vốn và khả năng tự tài trợ ảnh
hưởng rất lớn đến khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh.
+ Các điều kiện vật chất: nâng cao khả năng tiếp cận nguồn nguyên vật
liệu và phân phối hợp lý các nhà xưởng, máy móc, mặt bằng sản xuất kinh
doanh.

+ Nâng cao trình độ công nghệ, trang thiết bị máy móc; nâng cao năng
lực sử dụng công nghệ thông tin và dịch vụ hỗ trợ công nghệ thông tin trong
sản xuất kinh doanh.
Sự phát triển của khoa học và công nghệ và đặt biệt là công nghệ thông
tin đã mở ra khả năng rộng lớn cho sự phát triển của các DNNVV ngành công
nghiệp. Một mặt nó tạo điều kiện và khả năng cho các doanh nghiệp có thể
trang bị kỹ thuật hiện đại hơn, năng động hơn, linh hoat hơn trong công việc
lựa chọn đưa vào ứng dụng và khai thác công nghệ mới.
Quy mô nhỏ nhưng khả năng sản xuất cao hơn, nhanh hơn, rẻ hơn nhờ
công nghệ mới ứng dụng trong DNNVV ngành công nghiệp. Mặt khác nó còn
đào tạo khả năng liên kết chặt chẽ với nhau hơn, đặc biệt là khả năng nắm bắt
thông tin và khả năng điều hanh từ xa từ một trung tâm tới các DNNVV
ngành công nghiệp. Sự phát triển công nghệ thông tin đã ảnh hưởng lớn đến
xu hướng phát triển của các DNNVV ngành công nghiệp, đến sự thay đổi về
tổ chức sản xuất và phương pháp điều hành trong các doanh nghiệp lớn.
Trình độ và khả năng ứng dụng công nghệ hiện đại của các DNNVV
ngành công nghiệp ở nước ta có nhiều hạn chế là một trong những nhân tố
quan trọng ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng và hiệu quả của chúng. Khó
khăn về vốn nên chậm đổi mới trong các DNNVV ngành công nghiệp và do


18

chưa quan tâm đúng mức tới phát triển công nghệ, thiếu thông tin về công
nghệ, trình độ tiếp nhận, khai thác công nghệ mới của đội ngũ lao động còn
hạn chế.
● Phát triển nguồn lực vô hình
+ Xây dựng, phát triển thương hiệu và danh tiếng của doanh nghiệp với
khách hàng và các nhà cung cấp.
+ Phát triển văn hóa doanh nghiệp: năng lực cạnh tranh của doanh

nghiệp có thể được nâng cao một cách nhanh chóng nếu tạo được môi trường
văn hóa tích cực, lành mạnh, dân chủ để phát huy được năng lực của đội ngũ
lao động trong doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp luôn gắn liền với thương
hiệu và danh tiếng của doanh nghiệp.
1.2.3. Nâng cao chất lượng sản phẩm
Nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp là sự nâng cao chất
lượng sản phẩm thông qua mức độ hài lòng và thỏa mãn của khách hàng,
cũng như sự trung thành của khách hàng với sản phẩm và sự tiến bộ về hành
vi, thái độ phục vụ của các doanh nghiệp [18, tr 12].
Trước nhu cầu sử dụng ngày càng nhiều sản phẩm của doanh nghiệp
với những tiện ích cao và tính năng hiện đại. Đòi hỏi doanh nghiệp không
ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, hoàn thiện công nghệ và hệ thống kênh
phân phối, nâng cao phong cách phục vụ và khả năng giao tiếp của đội ngũ
nhân viên với khách hàng.
Để nâng cao chất lượng sản phẩm DNNVV ngành công nghiệp có thể
thực hiện các hình thức sau:
- Phát triển sản phẩm mới hoàn toàn.
- Cải tiến, hoàn thiện sản phẩm, thay thế sản phẩm hiện có:
+ Cải tiến về chất lượng, tạo ra nhiều loại sản phẩm với chất lượng
khác nhau.


19

+ Thay đổi tính năng của sản phẩm đảm bảo việc sử dụng thuận tiện và
an toàn hơn.
Chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp là yếu tố quan trọng nhất để thu
hút được khách hàng đến với doanh nghiệp. Do đó, nâng cao chất lượng sản
phẩm trước hết phải được phản ánh qua các chỉ tiêu:
- Độ thỏa mãn của khách hàng: phát triển sản phẩm doanh nghiệp cần

chú ý đến nhu cầu khách hàng cũng như sự tiện ích và giá cả hợp lý nhằm
thõa mãn nhu cầu của khách hàng mới được xem là sản phẩm có chất lượng
và hiệu quả.
- Độ an toàn: việc chấp nhận áp dụng các phương tiện trong phân phối
sản phẩm doanh nghiệp mang lại nhiều lợi ích cho các bên tham gia.
1.2.4. Mở rộng thị trường
- Mở rộng thị trường là các doanh nghiệp tìm cách gia tăng doanh số
qua việc đưa ra các sản phẩm vào thị trường mới [4].
- Làm cho các yếu tố thị trường, thị phần ngày càng tăng.
- Mở rộng thị trường làm cho từng doanh nghiệp phải tăng khả năng
sản xuất hàng hóa, khả năng cung cấp sản phẩm cho thị trường, cho xã hội, là
sự biết vững chắc, rõ ràng về các loại thị trường trong và ngoài nước, về cơ
hội và thách thức tự hội nhập kinh tế quốc tế và trong khu vực, mở rộng thị
trường, có thêm thị trường mới để đạt được thị phần ngày càng lớn. Có như
vậy DNNVV ngành công nghiệp mới tự khẳng định được, mới có vai trò
trong thị trường và ngoài xã hội.
- Mở rộng thị trường DNNVV ngành công nghiệp có thể bao gồm cả
nội dung sau:
+ Mở rộng thị trường về khách hàng là nhằm vào nhu cầu khách hàng
để sắp xếp tiềm lực và mọi cố gắng của doanh nghiệp để tìm ra sự thỏa mãn
cho khách hàng.


20

+ Mở rộng thị trường về địa lý là nhằm vào nhu cầu của khách hàng
trong vùng xác định, một môi trường xác định.
Như vậy, sự mở rộng thị trường của các DNNVV ngành công nghiệp
không chỉ là tăng khả năng sản phẩm cung ứng ra thị trường mà còn mở rộng
thị trường về khách hàng và về địa lý.

1.2.5. Đẩy mạnh liên kết giữa các doanh nghiệp
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, sự cạnh tranh luôn là
yếu tố kích thích sự phát triển, nhưng cạnh tranh cũng làm cho doanh nghiệp
yếu thế luôn đứng bên bờ vực phá sản, chính vì vậy mà hiện nay khái niệm
liên kết doanh nghiệp ngày càng trở nên quen thuộc. Liên kết doanh nghiệp là
quan hệ bình đẳng giữa các doanh nghiệp và dựa trên nguyên tắc tự nguyện
nhằm khai thác hết tiềm năng của mỗi doanh nghiệp.
Thực tế trong thời gian qua, các DNNVV ngành công nghiệp chưa thực
sự quan tâm đến việc liên kết và lâu nây họ quan niệm rằng, việc liên kết chỉ
diễn ra giữa các doanh nghiệp lớn với nhau. Nhưng các chuyên gia thương
mại cho rằng, sự liên kết phải là sự bình đẳng và dựa trên nguyên tắc tự
nguyện mới có thể khai thác hết tiềm năng của mỗi doanh nghiệp. Đối với các
doanh nghiệp lớn có khả năng về tài chính, công nghệ, quản lý,…; còn các
DNNVV ngành công nghiệp đóng vai trò là gia công. Nói tóm lại, sự liên kết
giữa các doanh nghiệp mạnh và yếu vì mục tiêu cùng phát triển chứ không
phải lợi ích cho một bên doanh nghiệp nào [18, tr 15 - 16].
Nói chung, liên kết doanh nghiệp mang lại những lợi ích cơ bản sau:
- Tạo điều kiện tiết kiệm về quy mô, chi phí;
- Giúp DNNVV ngành công nghiệp làm chủ tốt hơn tính phức tạp của
thị trường trong điều kiện toàn cầu hóa;
- Giúp DNNVV ngành công nghiệp phản ứng nhanh nhạy hơn với
những thay đổi của môi trường kinh doanh;


21

- Tạo điều kiện tăng khả năng linh hoạt của DNNVV ngành công
nghiệp vì các doanh nghiệp có thể giảm thiểu cơ cấu theo cấp bậc. Do đó, sẽ
dễ dàng hơn trong việc thay đổi, tập trung hơn cho một lĩnh vực thế mạnh của
DNNVV ngành công nghiệp;

- Giúp DNNVV ngành công nghiệp nhanh chóng tiếp cận công nghệ
mới. Các bên tham gia liên kết có thể chuyển giao công nghệ cho nhau, với
những chi phí hợp lý và thời gian nhanh chóng, do sự tin cậy lẫn nhau;
- Giúp giảm thiểu các rủi ro. Khi tham gia liên kết, rủi ro các bên tham
gia cùng chịu chứ không phải chỉ tập trung vào một chủ thể, khi đó khả năng
vượt qua khó khăn sẽ cao hơn;
- Giúp DNNVV ngành công nghiệp dễ dàng chinh phục những thị
trường do tận dụng lợi thế chi phí thấp;
- Tạo điều kiện giảm nhẹ cơ cấu bên trong doanh nghiệp, thông qua việc
chuyên môn hóa trong các công đoạn sản xuất.
Phát triển DNNVV ngành công nghiệp cũng chính là mở rộng mối
quan hệ giữa các DNNVV ngành công nghiệp với các doanh nghiệp thuộc
mọi ngành nghề khác nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh doanh và sức
cạnh tranh của doanh nghiệp. Việc phát triển các hiệp hội giúp doanh nghiệp
giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, các quyết định cấm, dừng nhập khẩu của
phía nhập khẩu, do doanh nghiệp ít am hiểu pháp luật thương mại quốc tế để
kiểm soát các giao dịch, tránh bị thua thiệt áp thuế chống phá giá,…Đặc biệt
trong quá trình toàn cầu hóa, các quy định pháp lý của WTO với nội dung rất
phức tạp thì các doanh nghiệp đơn độc trong thương trường là bất lợi lớn cần
khắc phục.
1.2.6. Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và đóng góp cho xã hội
Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển, điều cốt yếu là phải nâng cao
hiệu quả kinh doanh, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một phạm trù


22

kinh tế được biểu hiện bằng các chỉ tiêu đặc trưng kinh tế kỹ thuật phản ánh
bằng các các chỉ tiêu tình hình kinh doanh lãi hay lỗ của doanh nghiệp, tỷ suất
lợi nhuận, năng suất lao động,… Nó phản ảnh trình độ sử dụng nguồn lực

nhằm đạt được mục tiêu kinh tế - xã hội.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là vấn đề cấp bách và
cần thiết nhằm thúc đẩy tăng trưởng chung cho toàn bộ nền kinh tế nước ta
hiện nay.
Song song với việc nâng cao hiệu quả doanh nghiệp, với nỗ lực tăng
sức sản xuất không thể không tính đến việc nâng cao thu nhập người lao
động, một trong những yếu tố thu hút lao động có trình độ chuyên môn cao và
cũng là việc phát huy sức lao động ở mức tốt nhất, đồng thời để phát triển
kinh tế - xã hội doanh nghiệp phải có nghĩa vụ đóng góp vào Ngân sách Nhà
nước.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển DNNVV ngành công
nghiệp
1.3.1. Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên đem lại lợi thế so sánh không nhỏ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc tận dụng tốt vị trí, điều kiện tự nhiên
sẽ giúp doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào, đầu ra, chi phí sản xuất kinh
doanh,… nâng cao năng lực cạnh tranh.
1.3.2. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội [6, tr 32]
Trình độ phát triển kinh tế càng cao thì tiêu thức phân loại DNNVV
ngành công nghiệp càng được nâng cao. Các nước trình độ phát triển thấp thì
tiêu chuẩn, giới hạn sẽ thấp hơn. Trình độ phát triển kinh tế càng cao thì phát
triển của doanh nghiệp lớn càng nhiều, tính cạnh tranh càng gay gắt nhưng có
thuận lợi là mối quan hệ giữa các loại hình doanh nghiệp càng chặt chẽ, sự hỗ
trợ của các doanh nghiệp lớn đối với các DNNVV công nghiệp càng nhiều.


23

Mối quan hệ tác động qua lại giúp cho cả DNNVV công nghiệp phát triển
trong mối quan hệ thống nhất, ràng buộc với nhau, khắc phục những hạn chế,

phát huy tính tích cực của từng loại hình.
Trình độ phát triển kinh tế xã hội càng cao sẽ tạo điều kiện cho sự phát
triển của các DNNVV ngành công nghiệp ổn định hơn, có phương hướng rõ
ràng hơn, vững bền hơn.
1.3.3. Môi trường kinh doanh
Môi trường kinh doanh bao gồm các yếu tố như: Cơ sở hạ tầng, nguồn
nhân lực, thủ tục hành chính, tính minh bạch, chi phí gia nhập thị trường, dịch
vụ hỗ trợ,...
Môi trường kinh doanh đem lại lợi thế cho phát triển doanh nghiệp nói
chung và DNNVV ngành công nghiệp. Môi trường kinh doanh thuận lợi, đảm
bảo bình đẳng, minh bạch, công khai thì khả năng tiếp cận thông tin của
DNNVV ngành công nghiệp sẽ dễ dàng hơn, các DNNVV ngành công
nghiệp sẽ lạc quan triển khai và duy trì các kế hoạch chiến lược kinh
doanh của những năm tiếp theo.
Kết luận chương 1
Hiện nay, DNNVV đang thu hút sự quan tâm của các nhà kinh tế, các
địa phương, của Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới, bởi vì các
DNNVV giữ vị trí quan trọng và đóng góp đáng kể sự tăng trưởng kinh tế và
phát triển xã hội. Qua thực tế nhiều năm cho thấy các DNNVV nói chung và
DNNVV ngành công nghiệp nhạy bén và linh hoạt trong sản xuất cũng như
tìm hiểu nhu cầu khách hàng. Sau một thời gian thành lập và hoạt động các
hoạt động sản xuất kinh doanh thuận lợi đều có xu hướng phát triển bằng cách
nâng cao năng lực sản xuất, tìm hiểu thị trường đáp ứng nhu cầu tiêu dùng.
Các DNNVV ngành công nghiệp trong những điều kiện nhất định có thể từ
sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn và tận dụng máy móc thiết bị cũ sửa chữa


24

lại tiến tới đổi mới trang thiết bị cải tiến hệ thống dây chuyền sản xuất, đào

tạo lại nguồn nhân lực nhằm nâng cao tay nghề, nâng cao năng lực trình độ
quản lý. Việc phát triển DNNVV ngành công nghiệp cũng dẫn đến việc tổ
chức lại sản xuất, hợp lý hóa sựu phân công hợp tác xã hội.
Trong thời đại mà thông tin chiếm giữ phần quan trọng chính yếu,
DNNVV ngành công nghiệp thường linh hoạt, sáng tạo, gần gũi với khách
hàng và nhạy bén với thị trường hơn so với những công ty lớn.
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về DNNVV ngành công nghiệp trên
sẽ giúp có cơ sở nghiên cứu thu thập dữ liệu, số liệu liên quan đến hoạt động
của các DNNVV ngành công nghiệp tại tỉnh Bình Định, để từ đó đánh giá
đúng mức vai trò, những điểm mạnh, điểm yếu của các DNNVV ngành công
nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.


25

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DNNVV NGÀNH CÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH ĐỊNH

2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của DNNVV ngành công
nghiệp tỉnh Bịnh Định
2.1.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên
Bình Định là tỉnh duyên hải Nam Trung bộ, nằm trong vùng kinh tế
trọng điểm miền Trung (vùng kinh tế trọng điểm miền Trung bao gồm các
tỉnh Thừa Thiên Huế; Thành phố Đà Nẵng; Quảng Nam; Quảng Ngãi và Bình
Định). Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ngãi, phía Nam giáp tỉnh Phú Yên, phía Tây
giáp tỉnh Gia Lai và phía Đông giáp biển Đông. Cách Hà Nội 1.065 km, cách
thành phố Hồ Chí Minh 649 km. Bình Định có vị trí địa lý quan trọng của các
tỉnh Tây Nguyên, Hạ Lào, Đông Bắc Campuchia và Thái Lan.
Bình Định có diện tích tự nhiên 6.050 km2, bằng 1,83% diện tích của

Việt Nam, dân số 1.489.700 người, mật độ dân số 246,2 người/km 2. Bình
Định có 11 đơn vị hành chính: thành phố Quy Nhơn là tỉnh lỵ, đô thị loại 1 và
10 huyện; 159 xã, phường, thị trấn.
Bình Định có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa thích hợp cho phát triển cây
trồng nhiệt đới. Nhiệt độ trung bình năm 260C - 280C. Lượng mưa trung bình
năm 1300 - 2700 mm. Có các sông lớn như sông Kôn, Lại Giang, La Tinh, Hà
Thanh cùng hệ thống sông suối thuận lợi cho phát triển thủy lợi, thủy điện và
cung cấp nước sinh hoạt. Có 11 nhóm đất với 30 loại đất khác nhau, trong đó
đất phù sa chiếm 71.000 ha. Hiện có gần 136.350 ha đất nông nghiệp,
249.310 ha đất lâm nghiệp có rừng, 62.870 ha đất phi nông nghiệp, hơn
150.000 ha đất chưa sử dụng có thể khai thác phát triển nông lâm nghiệp và
sử dụng khác. Bình Định có bờ biển dài 134 km, có 3 cửa lạch lớn Quy Nhơn,


×