Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Phát triển du lịch tỉnh Bình Định theo hướng bền vững.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 107 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Du lịch là ngành công nghiệp không khói mang lại thu nhập đáng kể
cho một số quốc gia có nền kinh tế du lịch phát triển. Việt Nam cũng là điểm
lựa chọn đối với du khách với môi trường an toàn, tài nguyên du lịch phong phú,
con người thân thiện, mến khách, nhưng doanh thu từ du lịch không đáng kể.
Bình Định là một trong các tỉnh duyên hải miền Trung được thiên
nhiên ưu đãi ban tặng cho đường bờ biển dài, núi liền biển, khí hậu hài hòa,
con người giản dị, hiếu khách. Bình Định có chiều dài dọc theo quốc lộ 1A,
thuận tiện cho việc lưu thông hàng hóa, vận tải, du lịch...Là một tỉnh miền
biển nhưng du lịch Bình Định không phát triển như Nha Trang, Đà Nẵng…
Có du khách đến thăm Bình Định, lặng nhìn cảnh vật nơi đây thốt lên rằng
Bình Định là “người đẹp ngủ quên”. Là nơi lưu giữ nhiều dấu tích của kiến
trúc Chămpa cổ nhưng Bình Định “không được biết đến” như thánh địa Mỹ
Sơn. Với những lợi thế về du lịch biển, du lịch văn hóa -lịch sử, Bình Định là
tỉnh có đầy đủ các tài nguyên du lịch khác như sinh thái-nghỉ dưỡng, làng
nghề truyền thống, lễ hội, ẩm thực...Đây là yếu tố tiền đề cho việc phát triển
du lịch tổng hợp trên cơ sở khai thác các loại tài nguyên dẫn đến tăng hệ
thống sản phẩm du lịch cho các cụm, điểm, tour du lịch trong nội tỉnh và mở
rộng các tuyến, điểm du lịch theo vùng, miền, quốc gia và quốc tế.
Tuy nhiên, Bình Định nằm cách xa trung tâm kinh tế văn hóa và du lịch
lớn của cả nước (Hà Nội, TP Hồ Chí Minh), điều kiện vận chuyển bằng
đường hàng không chưa được nhà nước tăng cường đáp ứng yêu cầu của tỉnh.
Nhận thức của các cấp, các ngành về phát triển du lịch chưa thật đúng
mức, đầy đủ và nhất quán; chưa thật sự xem du lịch là ngành kinh tế quan
trọng của tỉnh; trách nhiệm của các cấp trong việc tổ chức quán triệt chương


2



trình hành động thực hiện Nghị quyết của tỉnh ủy chưa sâu, chương trình còn
thiếu tính khả thi, đi vào thực tiễn có phần còn nhiều hạn chế. UBND tỉnh chỉ
đạo Chương trình phát triển du lịch còn lúng túng, hiệu quả chưa cao.
Nguồn vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển cơ sở vật chất
kỹ thuật, huy động nguồn vốn từ các thành phần kinh tế còn hạn chế. Công
tác tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến, kêu gọi đầu tư, kinh doanh du lịch vào
tỉnh chưa thật sự mạnh mẽ, chưa thu hút các nhà đầu tư có năng lực cao, các
tập đoàn kinh tế mạnh trong nước cũng như quốc tế để phát triển du lịch.
Các sản phẩm du lịch còn đơn điệu, còn thiếu các khu vui chơi giải trí
hiện đại, quy mô lớn, hoạt động du lịch phần lớn còn khai thác tự nhiên, chưa
tạo ra được các sản phẩm du lịch mới, độc đáo để thu hút khách, có nơi còn
làm nghèo đi sản phẩm du lịch tự nhiên. Tình trạng đầu tư xây dựng các công
trình, san lấp mặt bằng đã dẫn đến thu hẹp diện tích cây xanh và biến đổi cảnh
quan đã làm giảm thiểu về nguồn khách.
Môi trường sinh thái bị ô nhiễm đáng kể do nước xả, rác thải từ các khu
công nghiệp, rác thải sinh hoạt, y tế, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và các hóa
chất khác trong nông nghiệp… Việc đô thị hóa nhanh, sự tập trung dân cư vào
những vùng có tiềm năng phát triển công nghiệp và du lịch ngày càng ảnh
hưởng xấu đến toàn bộ hệ sinh thái và cảnh quan tự nhiên trong tỉnh. Tình
trạng nhân dân khai thác tự nhiên như săn bắt chim, thú, côn trùng, hải sản,
khai thác cây cảnh tự nhiên, cây làm thuốc và các sản vật khác để bán cho du
khách một cách tự phát đã làm tổn hại đến môi trường và đa dạng sinh học.
Phát triển du lịch chưa thực sự đem lại lợi ích cho cộng đồng dân cư địa
phương vốn nhiều khó khăn.
Những vấn đề trên đã và đang ảnh hưởng tiêu cực đến tính bền vững
của hoạt động phát triển du lịch. Trong bối cảnh đó việc nghiên cứu, gắn lý
luận với thực tiễn để đưa các giải pháp cho phát triển du lịch theo hướng bền



3

vững ở tỉnh Bình Định là rất cần thiết phù hợp với xu thế hiện nay có ý nghĩa
quan trọng đối với phát triển du lịch của tỉnh trở thành ngành kinh tế quan
trọng, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm và nâng cao
thu nhập của nhân dân.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Phát triển du lịch tỉnh Bình
Định theo hướng bền vững” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tình hình nghiên cứu trên thế giới: Trong xu thế toàn cầu hóa, hội
nhập kinh tế diễn ra mạnh mẽ, du lịch đang phát triển không ngừng. Du lịch
được xem là một trong những ngành quan trọng đem lại nguồn thu chính của
nhiều quốc gia. Vì thế nhiều nước trên thế giới tập trung cho phát triển du lịch
bằng mọi giá, điều này dẫn đến sự cạnh tranh lớn trong lĩnh vực du lịch toàn
cầu. Hơn thế nữa việc chỉ quan tâm tới lợi ích do du lịch mang lại đã dẫn tới
nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến chính sự phát triển của ngành du lịch: ô nhiễm
môi trường tại khu du lịch, sự phân hóa giàu nghèo tăng cao, lợi ích của cộng
đồng địa phương không được đảm bảo...và kết qủa là lượng khách du lịch bị
suy giảm, những chi phí cho việc khắc phục các hậu qủa về môi trường là rất
lớn. Chính vì vậy, hoạt động du lịch được rất nhiều chuyên gia, nhà khoa học
và các nhà quản lý quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, cho đến những năm 80
của thế kỷ XX, khái niệm “phát triển bền vững” mới xuất hiện. Phát triển du
lịch bền vững là một phạm trù còn mới trong chiến lược phát triển du lịch trên
toàn thế giới trong đó việc nghiên cứu và xác định các “yếu tố chỉ thị” đáp
ứng yêu cầu của sự phát triển này là vô cùng quan trọng. Kể từ đó, vấn đề
phát triển du lịch bền vững đã được nhiều nước nghiên cứu và triển khai thực
hiện, với các cách tiếp cận và tổ chức thực hiện khác nhau. Một số quốc gia
bắt đầu từ việc xây dựng thí điểm các mô hình phát triển du lịch bền vững cụ
thể để đúc kết, rút kinh nghiệm và xây dựng chính sách; một số khác thực



4

hiện việc nghiên cứu tổng thể, đề ra các chính sách về phát triển bền vững rồi
triển khai xây dựng mô hình. Các nghiên cứu về “du lịch bền vững” cho thấy
hiện nay, du lịch bền vững không chỉ còn là hiện tượng “mốt” nhất thời, mà là
xu thế của thời đại, là mục tiêu đặt ra cho phát triển và có ý nghĩa quan trọng
không chỉ về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển bền
vững của xã hội, của cộng đồng dưới quan điểm khai thác tài nguyên và môi
trường (bao gồm cả tự nhiên và nhân văn) trên phạm vi toàn cầu. Phát triển du
lịch bền vững là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia, vùng lãnh thổ trên
thế giới hiện nay.
- Ở Việt nam: Việc nghiên cứu phát triển du lịch bền vững vẫn còn hạn
chế và được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau. Nổi bậc nhất là các công trình
sau:
+ Đặng Huy Huỳnh (1998), Vai trò đa dạng sinh học trong phát triển du
lịch sinh thái ở Việt Nam, Hội thảo “Du lịch sinh thái với phát triển du lịch
bền vững ở Việt Nam”, Hà Nội.
+ Phạm Trung Lương (2002), Cơ sở khoa học và các giải pháp phát
triển du lịch bền vững ở Việt Nam, Đề tài khoa học cấp nhà nước, Hà Nội.
+ Phạm Trung Lương (2005), phát triển du lịch bền vững, Tài liệu tập
huấn nhà nước về du lịch, Tổng cục du lịch, Hà Nội.
+ Nguyễn Văn Mạnh (2007), Để du lịch Việt Nam phát triển nhanh và
bền vững sau khi ra nhập WTO, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
Qua đó, thấy được các công trình nghiên cứu về du lịch bền vững ở
Việt Nam là chưa nhiều. Đặc biệt là nghiên cứu đưa ra các giải pháp phát
triển du lịch bền vững trên địa bàn tỉnh Bình Định còn quá ít. Vì thế việc
nghiên cứu phát triển du lịch Bình Định theo hướng bền vững sẽ góp phần
đưa du lịch Bình Định phát triển nhanh và bền vững.



5

3. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận liên quan đến phát triển du lịch.
- Đánh giá thực trạng phát triển du lịch Bình Định từ năm 2001 đến
2010 trên quan điểm và yêu cầu về phát triển du lịch bền vững. Từ đó rút ra
những bài học kinh nghiệm phát triển du lịch tỉnh Bình Định theo hướng bền
vững.
- Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển du lịch theo hướng bền vững của
một số địa phương khác trong những năm qua.
- Nghiên cứu đưa ra các giải pháp cụ thể cho phát triển du lịch theo
hướng bền vững ở tỉnh Bình Định, nhằm khai thác có hiệu quả lợi thế tiềm
năng du lịch vốn có của tỉnh đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a) Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng của đề tài là phát triển du lịch theo hướng bền vững trên địa
bàn tỉnh Bình Định. Lý do tác giả lựa chọn mục tiêu nghiên cứu như vậy là vì,
việc phát triển du lịch bền vững theo tiêu chí đã được ban hành trong Quyết
định số 153/QĐ TTg của Thủ tướng Chính phủ năm 2004 về “Chương trình
phát triển bền vững” đòi hỏi một quá trình lâu dài. Tuy nhiên, trong khuôn
khổ phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tác giả chỉ đặt ra mục tiêu phát triển
cho 05 năm, do đó các hành động chủ yếu trong giai đoạn này là hướng việc
phát triển các hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Bình Định vào việc thực
hiện từng bước các mục tiêu phát triển bền vững trong tương lai.
b) Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các giải pháp cơ bản về phát triển du lịch
tỉnh Bình Định theo hướng bền vững.
Không gian: Nghiên cứu tiến hành trên các yếu tố liên quan đến hoạt
động du lịch trên địa bàn tỉnh Bình Định.



6

Thời gian: Các dữ liệu dùng trong phân tích đánh giá thực trạng phát
triển du lịch Bình Định được thu thập trong khoảng thời gian từ năm 2001
đến năm 2010. Tầm xa của các giải pháp đề xuất đến năm 2015 và tầm nhìn
2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở nhận thức phát triển bền vững nói chung và phát triển du
lịch bền vững nói riêng, luận văn sẽ vận dụng chủ yếu các phương pháp sau:
- Luận văn dựa trên phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
để nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra, thống kê, phân tích, tổng hợp;
- Phương pháp hệ thống, đánh giá, chuyên gia.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển du lịch bền vững
Chương 2: Thực trạng phát triển du lịch bền vững ở tỉnh Bình Định
Chương 3: Giải pháp phát triển du lịch tỉnh Bình Định
theo hướng bền vững


7

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN PHÁT TRIỂN DU
LỊCH BỀN VỮNG

1.1.1. Khái niệm phát triển du lịch
1.1.1.1. Tăng trưởng và phát triển
Nếu xét ở góc độ tổng thể của nền kinh tế, “Tăng trưởng kinh tế” là sự
gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc gia
(GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người (PCI)
trong một thời gian nhất định.
Còn “Phát triển kinh tế” được hiểu là quá trình lớn lên, tăng tiến mọi
mặt của nền kinh tế. Nó bao gồm sự tăng trưởng kinh tế và đồng thời có sự
hoàn chỉnh về mặt cơ cấu, thể chế kinh tế, chất lượng cuộc sống[1].
Nếu xét ở góc độ ngành kinh tế, phát triển được hiểu là sự gia tăng tổng
sản lượng hoặc giá trị sản lượng sản xuất của ngành hoặc gia tăng mức độ
đóng góp giá trị sản lượng của ngành cho nền kinh tế đồng thời có sự hoàn
thiện về mặt cơ cấu, thể chế và chất lượng kinh doanh của ngành.
1.1.1.2. Phát triển du lịch
Du lịch là ngành dịch vụ hoạt động trong nền kinh tế nhằm thỏa mãn
những nhu cầu vui chơi giải trí, tìm hiểu thiên nhiên, các nét đẹp văn
hóa…của dân cư các miền khác nhau trên thế giới để thu được lợi nhuận.
Vì vậy, việc đẩy mạnh phát triển du lịch thường được các quốc gia trên
thế giới quan tâm đề cao vì tính hiệu quả của nó, đôi khi nó còn được gọi là
“nền công nghiệp không khói”. Trên cơ sở khái niệm tăng trưởng và phát
triển đã được giới thiệu ở trên, ta có thể đi đến việc xác lập nội hàm của phát
[1]

Samuelson Paul A., Nordhalls William D, Kinh tế học, NXB Tài chính (2007).


8

triển du lịch như sau: Đó là sự gia tăng sản lượng và doanh thu cùng mức độ
đóng góp của ngành du lịch cho nền kinh tế, đồng thời có sự hoàn thiện về

mặt cơ cấu kinh doanh, thể chế và chất lượng kinh doanh của ngành du lịch.
Khách du lịch: Là người khởi hành rời khỏi nơi cư trú thường xuyên
của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một
khoảng thời gian nhất định ở nơi cư trú. Theo khoản 2 Điều 4 Luật Du lịch
của nước ta, khách du lịch là người đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc
hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến. Điều 34 Luật Du lịch quy định
khách du lịch gồm khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế. Khách du
lịch nội địa là công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam
đi du lịch trong lãnh thổ Việt Nam. Khách du lịch quốc tế là người nước
ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch; công dân
Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch.
Sản phẩm du lịch: là một loại sản phẩm đặc biệt do nhiều yếu tố hợp
thành, cung cấp cho thị trường chủ yếu ở các mặt: nhà ở, giao thông du lịch,
cung cấp ăn uống, du ngoạn tham quan, hạng mục vui chơi giải trí, dịch vụ
mua sắm, tuyến du lịch, sắp xếp chương trình và các dịch vụ chuyên môn
khác. Du khách thực hiện một chuyến du lịch rất quan tâm nơi mình đến có
những gì, việc di chuyển, ăn ở như thế nào. Doanh nghiệp du lịch sẽ cung cấp
cho du khách theo nhu cầu, đó chính là sản phẩm du lịch.
Sản phẩm du lịch có các đặc điểm sau:
Bộ phận dịch vụ chiếm tỷ trọng cao trong sản phẩm du lịch như vận
chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi, giải trí. Hoạt động du lịch của du khách
trước tiên phải thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu ăn, uống, đi lại. Do vậy
trong sản phẩm du lịch, các dịch vụ trên tất yếu chiếm tỷ trọng cao.
Sản phẩm du lịch do nhiều nhà cung ứng cùng tham gia tạo ra. Đặc
điểm của kinh tế du lịch là tính đa ngành như giao thông, ngân hàng, văn


9

hóa... Do vậy, du khách được cung cấp nhiều dịch vụ bởi nhiều nhà cung ứng

khác nhau. Sản phẩm du lịch thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng đặc biệt, nhu cầu
thứ yếu, cao cấp của du khách. Du khách mong muốn nghỉ ngơi, giải trí, thư
giãn trong chuyến đi, do vậy các dịch vụ của doanh nghiệp du lịch mang lại
phải thỏa mãn tối đa về mặt tinh thần cho du khách.
Sản phẩm du lịch về cơ bản là không cụ thể nên không thể đặt ra vấn đề
nhãn hiệu như hàng hóa thông thường. Và đồng thời sản phẩm du lịch rất dễ
bị bắt chước, dễ dàng bị sao chép. Do tính chất không cụ thể mà khách hàng
không thể kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi mua và gây khó khăn cho
du khách khi lựa chọn sản phẩm, vì vậy kênh quảng bá thương hiệu của sản
phẩm du lịch có vị trí quan trọng là sự lan truyền từ người tiêu dùng trước,
cũng như vấn đề quảng cáo.
Sản phẩm du lịch có tính tổng hợp, được biểu hiện ở chỗ sản phẩm du
lịch hoàn chỉnh không chỉ là sự kết hợp các loại dịch vụ, hàng hóa của nhà
cung ứng du lịch mà còn liên quan tới rất nhiều ngành nghề khác và các nhà
cung cấp dịch vụ công. Việc kết hợp một cách hữu cơ các sản phẩm đơn lẻ
mới có thể tạo ra sản phẩm du lịch phù hợp với tính tổng hợp của nhu cầu
trong quá trình du lịch của khách.
Thị trường du lịch: Thị trường du lịch được quan niệm là tổng thể các
hành vi và quan hệ kinh tế thể hiện ra trong quá trình trao đổi sản phẩm du
lịch. Dựa trên các tiêu chí khác nhau và vì mục đích nghiên cứu khác nhau mà
du lịch thường được phân chia thành các loại hình như:
Căn cứ theo sở thích nhu cầu làm nảy sinh chuyến đi du lịch có loại
hình du lịch nghỉ ngơi giải trí, chữa bệnh, hành hương tôn giáo, sinh thái, văn
hóa, tìm hiểu lịch sử, thể thao, ...
Căn cứ vào nơi tham quan có du lịch nghỉ biển, nghỉ núi, tham quan
danh thắng, di tích.


10


Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ của chuyến đi có loại hình du lịch nội địa,
loại hình du lịch quốc tế
1.1.1.3. Tiêu chí đánh giá trình độ phát triển du lịch
Trình độ phát triển du lịch thường được biểu thị thông qua các tiêu chí
sau đây:
a) Các tiêu chí đánh giá quy mô phát triển:
+ Quy mô buồng phòng: Sự phát triển của kinh tế du lịch cũng được thể
hiện khách quan qua số lượng các doanh nghiệp kinh doanh du lịch. Vì kinh
tế du lịch phát triển, nguồn cầu cao đòi hỏi phải có lượng cung tương ứng.
Các doanh nghiệp kinh doanh du lịch với những yếu tố bên trong như là nơi
đến mới và thú vị, nơi đến có giá cả phù hợp, đảm bảo sự an toàn, có dịch vụ
tiện nghi, có bản sắc văn hóa bảo đảm nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch,
thu hút được du khách và phát triển du lịch.
+ Số lượng khách du lịch: Số lượng du khách gia tăng tại điểm đến

phản ánh rằng đó là điểm đến an toàn, sản phẩm du lịch đa dạng thú vị, thỏa
mãn nhu cầu của du khách. Đây chính là sự thể hiện du lịch phát triển
Thị trường du khách đa dạng cho thấy sự quảng bá hình ảnh, xúc tiến
các hoạt động du lịch được rộng rãi, mở rộng thị trường ra nhiều khu vực,
mang hình ảnh của nơi du lịch đến với rộng rãi du khách. Để đạt được điều
này, đòi hỏi sự đầu tư rất cao cho công tác, quảng bá, xúc tiến du lịch.
+ Số ngày khách lưu trú: Du khách lưu trú bao lâu ở điểm đến cho biết

mức độ hấp dẫn, lôi kéo của nơi du lịch. Thông thường những nơi đến đáp
ứng được sự đa dạng, phong phú, tiện nghi của sản phẩm du lịch sẽ kéo dài sự
lưu trú của du khách, tăng nguồn thu cho hoạt động kinh doanh du lịch. Số
ngày lưu trú của khách tăng, khách chi tiêu nhiều hơn và sự cung ứng các
dịch vụ càng phải tốt hơn.



11

+ Doanh thu du lịch: Doanh thu du lịch được tổng hợp từ nhiều nguồn

thu gồm doanh thu lưu trú, doanh thu ăn uống, doanh thu bán hàng và dịch vụ,
doanh thu lữ hành và vận chuyển. Doanh thu du lịch phản ảnh sự phát triển của
du lịch không chỉ thể hiện ở số lượng như tỷ trọng thu nhập của ngành so với
GDP mà còn phải thể hiện tỷ lệ trên một du khách và cơ cấu của doanh thu.
Doanh thu/khách du lịch tăng cho thấy việc tăng chi tiêu của du khách
do thỏa mãn nhu cầu của mình về các dịch vụ, điều này có được do doanh
nghiệp có sự đầu tư, quan tâm đến hoạt động kinh doanh. Nhìn tổng thể
ngành, đây là thể hiện sự phát triển du lịch.
b) Các chỉ tiêu đánh giá về chất lượng phát triển:
+ Chất lượng cơ sở vật chất kinh doanh: Phát triển du lịch còn được thể
hiện qua chỉ tiêu tăng cường chất lượng cơ sở vật chất kinh doanh du lịch.
Tiêu chí này thường được thể hiện tổng hợp qua việc xếp hạng “sao“ trong du
lịch. Tuy nhiên, hoạt động du lịch không chỉ dừng lại ở hoạt động lưu trú,
nghỉ ngơi mà còn được thể hiện tthông qua nhiều hoạt động phong phú khác.
Do đó khi đánh giá chất lượng cơ sở vật chất cho kinh doanh du lịch cũng
phải quan tâm đến các cơ sở vật chất khác nữa. Thường việc đánh giá này
được tiến hành thông qua các tiêu chí quy định của ngành hoặc của các tổ
chức du lịch quốc tế. Ngoài ra, cũng có thể đánh giá thông qua khảo sát ý kiến
của khách du lịch và các đối tượng hữu quan.
+ Chất lượng nguồn nhân lực: Trong những năm gần đây, chất lượng
của đội ngũ lao động trong ngành du lịch của Bình Định đã có sự cải thiện và
tiến bộ. Đã phối hợp các trường nghiệp vụ du lịch tổ chức và đào tạo các lớp
nghiệp vụ hướng dẫn, khách sạn: buồng, bàn, bar... cho lao động trong ngành.
Số cán bộ có trình độ đại học, nhất là đại học chuyên ngành du lịch tăng đều
trong những năm gần đây.



12

+ Tính đa dạng của sản phẩm du lịch: Sản phẩm du lịch phong phú, đa
dạng phản ánh sự tìm tòi, nỗ lực phát triển ngành du lịch, tạo nhiều điểm đến,
thực sự thu lợi nhiều nhất khi tiếp đón du khách đến tham quan du lịch. Thông
qua số lượng sản phẩm du lịch có được, nó phản ánh sự đầu tư thiết thực vào
ngành du lịch, phản ánh nhu cầu có thể đáp ứng được để phát triển du lịch.
+ Số lần quay trở lại của du khách: Khách du lịch là yếu tố quyết định
trong việc hình thành nên “cầu“ du lịch là một trong những tiêu chí quan trọng
nhất để đánh giá sự phát triển du lịch của một đểm du lịch cụ thể. Các chỉ tiêu về
khách có thể cho biết rất nhiều thông tin, cụ thể là thước đo sự phát triển du lịch,
của sự nổi tiếng cả điểm du lịch. Sự quay trở lại của du khách là sự đánh giá
quan trọng của phát triển du lịch về mặt chất lượng.
+ Hiệu quả vốn đầu tư: Hiệu quả vốn đầu tư được biểu hiện có thể là
lợi nhuận/vốn đầu tư hoặc lợi nhuận /doanh thu, nếu con số thu được tăng thì
cho thấy hoạt động kinh doanh hiệu quả, đồng thời đây cũng là sự biểu hiện
của hoạt động kinh doanh du lịch hiệu quả. Thông thường đây là chỉ tiêu để
nhìn nhận về năng lực kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng xét về tổng thể
cho thấy sự phản ánh du lịch phát triển. Hiệu quả vốn đầu tư cao thể hiện
doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, với những doanh nghiệp có hiệu quả kinh
doanh tốt thì càng tăng cường khả năng cạnh tranh, loại bỏ sự yếu kém, đóng
góp chung vào sự phát triển kinh tế du lịch.
c) Nhóm các chỉ tiêu đánh gía về mức độ chuyển dịch cơ cấu:
+ Cơ cấu loại hình dịch vụ: Đa dạng hóa loại hình dịch vụ trên cơ sở
phân tích, đánh giá từng loại hình dịch vụ nhằm phát triển loại hình dịch vụ
có thế mạnh. Phải đánh giá được sự phát triển của mỗi loại hình du lịch thông
qua số lượng, mức độ đa dạng của các sản phẩm thuộc mỗi loại hình, tính hấp
dẫn của sản phẩm và mức độ hài lòng của du khách đối với những sản phẩm
đó. Từ đó có định hướng phát triển cơ cấu loại hình dịch vụ một cách hợp lý.



13

+ Cơ cấu khách du lịch: Khách du lịch thường được chia thành khách
nội địa và khách quốc tế. Giữa khách du lịch quốc tế và khách du lịch trong
nước không những khác nhau về khả năng chi tiêu cho du lịch mà còn khác
nhau về đặc điểm tiêu dùng và các mối quan tâm trong chuyến đi. Chính vì
vậy mà ngành du lịch cần phải xác định và phân tích để có hướng thu hút
khách nhằm tăng nguồn thu cho du lịch. Ngoài ra, cơ cấu khách du lịch còn
được chi theo mục đích du lịch như khách du lịch nghỉ dưỡng; khách du lịch
khám phá mạo hiểm; khách du lịch hội thảo, hội nghị...
+ Cơ cấu chất lượng phục vụ: Chất lượng dịch vụ du lịch cũng được tăng
lên đáng kể, đã có nhiều hơn các dịch vụ phục vụ nhu cầu thiết yếu của du
khách, nhờ có sự phối hợp đa ngành trong lĩnh vực du lịch của các doanh nghiệp
du lịch, do vậy du lịch tỉnh đã đáp ứng được nhu cầu du lịch của du khách.
1.1.2. Khái niệm phát triển du lịch bền vững
1.1.2.1. Phát triển bền vững
Trong quá trình phát triển, con người cũng nhận thức được rằng nguồn
tài nguyên của trái đất không phải là vô hạn do đó không thể tùy tiện khai
thác. Quá trình phát triển nếu không kiểm soát được sẽ dẫn đến hậu quả
không chỉ làm cạn kiệt tài nguyên mà còn làm ảnh hưởng tiêu cực đến môi
trường sinh thái.
Theo Gro Harlem Brundtlan – Chủ tịch ủy ban Quốc tế về Môi trường
và Phát triển (WCED): “Phát triển bền vững được hiểu là sự phát triển đáp
ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương khả năng của các thế
hệ tương lai trong việc thỏa mãn nhu cầu của chính họ”[*].
Nội dung bền vững ở khái niệm này còn mang tính trừu tượng, chủ yếu
đề cập đến vấn đề phát triển kinh tế. Trong đó khẳng định mối liên quan chặt
chẽ giữa sự phát triển và môi trường.

[*]

Bài giảng “Phát triển bền vững” của Đại học Quốc gia Hà Nội


14

Trong cuốn sách “Hãy cứu lấy Trái Đất”[*] định nghĩa PTBV là “sự
nâng cao chất lượng đời sống con người trong lúc đang tồn tại, trong khuôn
khổ đảm bảo của các hệ sinh thái”, còn tính bền vững là “một đặc điểm đặc
trưng của một quá trình hoặc một trạng thái có thể duy trì mãi mãi”.
Quan niệm về phát triển bền vững được các nhà khoa học tái khẳng
định Tại Hội nghị về Môi trường toàn cầu được tổ chức Rio de janeiro (1992)
và được bổ sung hoàn chỉnh tại Hội nghị Johannesburg (2002): “PTBV là quá
trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa ba mặt của sự
phát triển. Đó là: Phát triển kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”
Theo quan niệm này phát triển bền vững được hiểu là kết quả tương tác
qua lại và phụ thuộc lẫn nhau giữa ba mặt của sự phát triển nói trên, đồng thời
cần nhận thức rằng phát triển bền vững không cho phép con người vì sự ưu tiên
cho phát triển mặt nào mà gây sự suy thoái và tàn phá đối với các mặt khác.
Ở Việt Nam, quan điểm phát triển bền vững được khẳng định trong chỉ
thị 36-CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính trị về tăng cường
công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, trong đó nhấn mạnh: bảo vệ môi trường là nội dung cơ bản không thể
tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của
tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng đảm bảo phát triển bền vững,
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Quan điểm phát triển bền vững được tái khẳng định trong văn kiện của
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng Sản Việt nam và trong
chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2001-2010 là: Phát triển nhanh, hiệu quả

và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội và bảo vệ môi trường” và “sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ

[*]

IUCN, UNDP, WWF, năm 1991


15

và cải thiện môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, coi đây là nội dung chiến
lược, quy hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế xã hội”[04, tr.15]
1.1.2.2. Phát triển du lịch bền vững
Phát triển du lịch bền vững là việc đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du
khách và vùng du lịch mà vẫn bảo đảm những khả năng đáp ứng nhu cầu cho
thế hệ tương lai. Du lịch bền vững đòi hỏi phải quản lý tất cả các dạng tài
nguyên để có thể đáp ứng các nhu cầu kinh tế, xã hội và thẩm mỹ trong khi
vẫn duy trì được bản sắc văn hóa, quá trình sinh thái cơ bản, đa dạng sinh học
và các hệ đảm bảo sự sống.
Phát triển du lịch luôn gắn với môi trường trong mối liên hệ qua lại lẫn
nhau. Bản thân sự phát triển du lịch đòi hỏi phải có sự phát triển bền vững và
ngược lại. Phát triển du lịch bền vững đòi hỏi phải có sự nỗ lực chung và đồng
bộ của toàn xã hội. Phát triển du lịch bền vững hướng tới các mục tiêu cơ bản
sau:
+ Gia tăng hiệu quả kinh tế: Đảm bảo tính hiệu quả kinh tế và tính
cạnh tranh để các doanh nghiệp và các điểm du lịch có khả năng tiếp tục phát
triển phồn thịnh và đạt lợi nhuận lâu dài.
+ Sự phồn thịnh cho địa phương: Tăng tối đa đóng góp của du lịch đối
với sự phát triển thịnh vượng của nền kinh tế địa phương tại các điểm du lịch,
bao gồm phần tiêu dùng của khách du lịch được giữ lại tại địa phương.

+ Chất lượng việc làm: Tăng cường số lượng và chất lượng việc làm tại
địa phương do ngành du lịch tạo ra và được ngành du lịch hỗ trợ, bao gồm
mức thu nhập, điều kiện và khả năng dịch vụ, không có sự phân biệt đối xử về
giới, chủng tộc, bệnh tật và các mặt khác.
+ Công bằng xã hội: Cần có sự phân phối lợi ích kinh tế và xã hội thu
được từ hoạt động du lịch một cách công bằng và rộng rãi cho tất cả những


16

người trong cộng đồng đáng được hưởng, kể cả những cơ hội cải thiện cuộc
sống, nâng mức thu nhập và cung cấp dịch vụ cho người nghèo.
+ Tăng sự thỏa mãn của khách du lịch: Cần cung cấp những dịch vụ an
toàn, thỏa mãn đầy đủ những yêu cầu của khách du lịch, không phân biệt đối
xử về giới, chủng tộc, bệnh tật và các mặt khác.
+ Khả năng kiểm soát của địa phương: Thu hút và trao quyền cho các
cộng đồng địa phương trong việc xây dựng kế hoạch và đề ra quyết định về
quản lý du lịch và phát triển du lịch trong tương lai tại địa phương, có sự tham
khảo tư vấn của các thành phần hữu quan khác.
+ An sinh cộng đồng: Duy trì và tăng cường chất lượng cuộc sống của
người dân địa phương, bao gồm cơ cấu tổ chức xã hội và cách tiếp cận các
nguồn tài nguyên, hệ thống hỗ trợ đời sống, tránh làm suy thoái và khai thác
quá mức môi trường cũng như xã hội dưới mọi hình thức.
+ Đa dạng văn hóa: Tôn trọng duy trì giá trị các di sản lịch sử, bản sắc văn
hóa, truyền thống và những bản sắc đặc biệt của cộng đồng tại các điểm du lịch.
+ Thống nhất về tự nhiên: Duy trì và nâng cao chất lượng của cảnh vật,
kể cả ở nông thôn cũng như ở thành thị, tránh để môi trường xuống cấp về
thực thể và về nhãn quan.
+ Đa dạng sinh học: Hỗ trợ cho việc bảo tồn khu vực tự nhiên, môi
trường sống, sinh vật hoang dã và giảm thiểu thiệt hại đối với các yếu tố này.

+ Hiệu quả của nguồn lực: Giảm thiểu mức sử dụng những nguồn tài
nguyên quý hiếm và không thể tái tạo được trong việc phát triển và triển khai
các cơ sở, phương tiện và dịch vụ du lịch.
+ Môi trường trong lành: Để giảm thiểu ô nhiễm không khí, nước, đất,
và rác thải từ du khách và các hãng du lịch.
Tất cả các mục tiêu trên chứa đựng sự kết hợp các yếu tố và ảnh hưởng
của môi trường, kinh tế và xã hội.


17

1.1.2.3. Phát triển du lịch theo hướng bền vững
Theo tác giả, phát triển du lịch theo hướng bền vững thực chất cũng là
phát triển du lịch bền vững nhưng sự bền vững chỉ lên định hướng của sự phát
triển du lịch, có thể xem là mục tiêu trong sự phát triển du lịch.
1.1.3. Ý NGHĨA CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH THEO
HƯỚNG BỀN VỮNG
- Giúp cho ngành du lịch có cơ hội phát triển lâu dài và trở thành ngành
kinh tế trọng điểm của nhiều địa phương, thậm chí của cả ngành kinh tế.
- Thông qua tốc độ tăng trưởng GDP, góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, tăng thu nhập cho doanh nghiệp và dân cư, hiệu quả ngành du lịch
được nâng cao, mức đóng góp của ngành cho nền kinh tế ngày càng tăng.
- Nhờ phát triển du lịch theo hướng bền vững góp phần tạo việc làm,
xóa đói giảm nghèo, phát triển những vùng đồng bào dân tộc, miền núi, thay
đổi tư duy tập quán của dân cư, khôi phục, tôn tạo, bảo tồn văn hóa bản địa.
- Nhờ phát triển theo hướng bền vững nên nâng cao hiệu quả sử dụng
tài nguyên, giảm phá rừng và tài nguyên khác, khôi phục, tôn tạo, gìn giữ
danh lam thắng cảnh, tài nguyên thiên nhiên.
1.1.4. Yêu cầu đặt ra cho phát triển du lịch bền vững
Phát triển du lịch bền vững đòi hỏi phải tiếp cận một cách toàn diện và

hài hòa các yêu cầu cơ bản của tự nhiên, xã hội. Phát triển du lịch bền vững
thực chất là phát triển du lịch nhưng phải đồng thời đáp ứng các yêu cầu đặt
ra như sau:
1.1.4.1. Phát triển phải gắn với bảo tồn và tái tạo tài nguyên du lịch
Đây là nguyên tắc hàng đầu đảm bảo khả năng tái tạo tài nguyên du lịch
được diễn ra một cách tự nhiên hoặc thuận lợi hơn do có sự tác động của con
người thông qua hoạt động đầu tư, tôn tạo, bảo tồn đáp ứng nhu cầu phát triển
du lịch của nhiều thế hệ. Việc sử dụng một cách hợp lý, và bền vững các nguồn


18

tài nguyên du lịch đòi hỏi cần có sự nghiên cứu, thống kê, đánh giá những tác
động của hoạt động du lịch đối với nguồn tài nguyên. Ngày nay, việc sử dụng,
bảo tồn và bảo vệ các nguồn lực một cách bền vững cho phát triển du lịch được
xem là vấn đề sống còn đối với việc quản lý mang tính toàn cầu.
1.1.4.2. Phát triển phải gắn với kiểm soát ô nhiễm môi trường
Việc khai thác sử dụng quá mức tài nguyên cho hoạt động du lịch mà
không kiểm soát được lượng chất thải của chính các hoạt động đó sẽ dẫn tới
sự suy thoái môi trường mà hậu quả của nó là không thể phát triển kinh doanh
du lịch một cách lâu dài. Giảm sự tiêu thụ qúa mức và giảm chất thải sẽ tránh
được những chi phí tốn kém cho việc phục hồi tổn hại cho môi trường và làm
tăng chất lượng của du lịch.
1.1.4.3. Phát triển du lịch phải đảm bảo duy trì được tính đa dạng
Tính đa dạng về tự nhiên, xã hội và văn hóa là nhân tố đặc biệt tạo nên
sự hấp dẫn của các sản phẩm du lịch, thỏa mãn nhu cầu của khách, tăng khả
năng cạnh tranh, thu hút khách du lịch, đảm bảo cho sự phát triển bền vững.
Việc đẩy mạnh phát triển dịch vụ du lịch thiếu sự kiểm soát có thể dẫn đến
tình trạng làm suy thoái tính đa dạng của môi trường du lịch, làm tổn hại đến
lợi ích lâu dài cho tương lai. Vì vậy, phát triển du lịch bền vững đặt ra yêu cầu

phải đảm bảo sự phát triển không làm tổn hại đến sự đa dạng này.
1.1.4.4. Phát triển du lịch phải quan tâm đến lợi ích cộng đồng
Phát triển du lịch cần quan tâm chia sẽ lợi ích với cộng đồng địa
phương. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi mục tiêu của du lịch là cải thiện
chất lượng cuộc sống của cộng đồng bản địa. Việc tham gia của cộng đồng
dân cư địa phương vào các hoạt động du lịch vừa giúp họ có nguồn thu nhập,
cải thiện và nâng cao đời sống vừa làm cho họ có trách nhiệm hơn trong việc
duy trì nguồn tài nguyên du lịch của chính địa phương mình.


19

1.1.4.5. Phát triển du lịch phải phù hợp với quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế xã hội
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp mang tính liên ngành, liên vùng.
Nguồn tài nguyên phục vụ cho phát triển du lịch đồng thời cũng phục vụ cho
các ngành khác như công nghiệp, nông nghiệp, vật liệu xây dựng, thương
mại... Do đó mọi phương án khai thác tài nguyên để phát triển du lịch phải
phù hợp với quy hoạch ngành, quốc gia và vùng lãnh thổ. Mặt khác cần có sự
liên kết chặt chẽ với các địa phương lân cận trong việc phối hợp xây dựng
phát triển, kinh doanh sản phẩm du lịch, khu du lịch, điểm du lịch và tuyến du
lịch. Bên cạnh đó quy hoạch phát triển du lịch cần phải tính đến việc điều hòa
về lợi ích giữa cộng đồng địa phương, nhà nước, du khách, các doanh nghiệp.
1.1.4.6. Phát triển du lịch phải gắn với đào tạo phát triển nguồn nhân
lực
Lao động là một nhân tố không thể thiếu được trong quá trình phát triển
du lịch. Chất lượng của đội ngũ lao động trong du lịch đánh giá mức độ phát
triển của hoạt động du lịch. Do đặc điểm của ngành du lịch chủ yếu là hoạt
động dịch vụ nên nó phụ thuộc rất lớn vào chất lượng phục vụ của lực lượng
lao động trong du lịch.

Thời gian qua, các doanh nghiệp trong ngành du lịch bước đầu đã có cố
gắng trong việc huy động tiềm năng và các nguồn lực để tập trung cho công
tác đào tạo và bồi dưỡng nguồn lao động của mình để con người ở đây được
đánh giá theo các tiêu chuẩn: sự hiểu biết về lý luận và kỹ năng làm việc mà
họ có được, phẩm chất đạo đức và sức khỏe của họ.
1.1.4.7. Quảng bá du lịch có trách nhiệm
Hoạt động xúc tiến, quảng bá đóng vai trò rất quan trọng trong phát
triển du lịch. Nâng cao nhận thức xã hội về du lịch, tạo mội trường du lịch
văn minh, lành mạnh an toàn, phát huy truyền thống mến khách của dân tộc.


20

Trong điều kiện Việt nam vừa mới hội nhập kinh tế thế giới. Việc quảng bá
xây dựng hình ảnh Việt nam một điểm đến an toàn và thân thiện với nhiều sản
phẩm du lịch mang tính đặc trưng độc đáo của mỗi vùng miền có tác động
tích cực đến tính bền vững trong phát triển du lịch.
1.2. NỘI DUNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG
Nội dung phát triển du lịch bền vững thể hiện rõ nét ở sự chuyển biến
mạnh mẽ của các cơ sở kinh doanh du lịch ngày càng tăng, sự đa dạng của các
loại hình du lịch, quy mô nguồn lực, nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch, cơ
sở vật chất kỹ thuật và khoa học công nghệ du lịch.
1.2.1. Xây dựng chiến lược phát triển du lịch bền vững
Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thức về vai trò
quan trọng của nhà nước đối với tăng trưởng và phát triển du lịch bền vững. Vì
vậy, phát triển du lịch bền vững trước hết phải được thể hiện qua các chính
sách của Nhà nước, thường bao gồm:
+ Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch và chính sách
phát triển du lịch.
+ Nâng cao nhận thức xã hội về du lịch và phát triển du lịch bền vững,

quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực; nghiên cứu ứng dụng
khoa học công nghệ.
+ Tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế về du lịch; hoạt động xúc tiến du
lịch trong và ngoài nước.
+ Tổ chức điều tra, đánh giá tài nguyên du lịch để xây dựng quy hoạch
phát triển du lịch, xác định khu du lịch, điểm, tuyến, đô thị du lịch.
+ Xây dựng bộ máy quản lý nhà nước về du lịch phù hợp, đáp ứng yêu
cầu của một ngành kinh tế.
+ Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm
pháp luật về du lịch.


21

1.2.2. Phát triển các cơ sở kinh doanh du lịch
Biểu hiện đầu tiên của phát triển du lịch là phát triển các cơ sở kinh
doanh du lịch. Đó là sự phát triển từng cơ sở kinh doanh du lịch, phục vụ
trong lĩnh vực du lịch và sự gia tăng của số lượng các cơ sở kinh doanh du
lịch. Cơ sở kinh doanh du lịch là nơi sản xuất và cung cấp phần lớn sản phẩm,
dịch vụ cho khách du lịch, tạo ra lợi nhuận cho đơn vị, đóng góp nguồn thu
cho ngân sách. Vì vậy, phát triển cơ sở kinh doanh du lịch vừa là biểu hiện,
vừa đóng vai trò quan trọng vào sự phát triển ngành du lịch của một địa
phương. Phát triển cơ sở kinh doanh du lịch được hiểu là phát triển bản thân
từng cơ sở kinh doanh du lịch, phục vụ trong lĩnh vực du lịch. Điều đó có
nghĩa là từng cơ sở kinh doanh phải cố gắng tích tụ, tập trung các yếu tố
nguồn lực để tự lớn lên, tự đứng vững trong điều kiện cạnh tranh. Đặc biệt,
trong điều kiện hiện nay, biểu hiện của nội dung này là sự gia tăng của các
yếu tố nguồn lực như: số lượng lao động, số vốn đầu tư, số lượng sản phẩm
và trên phạm vi xã hội thì đó là sự gia tăng quy mô bình quân của các cơ sở
kinh doanh phục vụ trong lĩnh vự du lịch. Để phân tích sự phát triển du lịch

của mỗi địa phương, cần phân tích sự biến động số lượng cơ sở kinh doanh du
lịch (doanh nghiệp), sự tăng trưởng số lượng doanh nghiệp phân theo các
nhóm ngành dịch vụ như vận chuyển, lưu trú, nhà hàng... theo các loại hình sở
hữu như doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài.
1.2.3. Nâng cao số lượng, chất lượng các nguồn lực cho ngành du
lịch
- Tài nguyên: Việc bảo tồn và sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên
thiên nhiên, nhân văn là rất cần thiết, nó bảo đảm cho hoạt động kinh doanh
du lịch phát triển lâu dài. Phát triển bền vững ủng hộ việc lưu lại cho các thế


22

hệ tương lai một nguồn tài nguyên du lịch không kém hơn so với cái mà thế
hệ trước được hưởng.
Trên cơ sở quy hoạch phát triển du lịch cần phải có những giải pháp sử
dụng một cách tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên du lịch. Nếu các nguồn tài
nguyên bị xuống cấp hay bị hủy hoại thì các điểm du lịch sẽ không thu hút
được khách, dân cư địa phương sẽ phải hứng chịu các tác động xấu của môi
trường và những vấn đề tiêu cực về xã hội do hoạt động du lịch gây ra.
Sử dụng tổng hợp các nguồn lực cho phát triển bền vững trong đó cần
quan tâm đến cộng đồng địa phương gắn với địa bàn sinh sống của họ. Trong
chiến lược phát triển du lịch cần quan tâm đến ảnh hưởng của du lịch đối với
các di sản văn hóa và các yếu tố truyền thống, các hoạt động và động lực của
từng cộng đồng địa phương.
- Nâng cao chất lượng lao động: Lao động là một nhân tố không thể
thiếu trong quá trình phát triển du lịch. Chất lượng của đội ngũ lao động trong
du lịch đánh giá mức độ phát triển của hoạt động du lịch. Do đặc điểm của
sản phẩm du lịch chủ yếu là hoạt động dịch vụ nên nó phụ thuộc rất lớn vào

chất lượng phục vụ của lực lượng lao động trong du lịch.
Sự phát triển lao động du lịch thể hiện ở số lượng, cơ cấu, trình độ, kỹ
năng ứng xử của đội ngũ lao động trong các doanh nghiệp thuộc ngành. Phát
triển du lịch thể hiện ở số lượng lao động phải đảm bảo đầy đủ phục vụ nhu cầu
của du khách, đồng thời, cơ cấu phải hợp lý tùy theo mức độ phục vụ du khách
và các loại nhu cầu của du khách. Nguồn nhân lực ngành du lịch, có thể phân
thành 02 loại: bộ phận (gián tiếp) có chức năng quản lý chung của doanh nghiệp
du lịch, bộ phận (trực tiếp) có chức năng trực tiếp cung cấp dịch vụ cho khách.
Đối với ngành du lịch, các bộ phận lao động có vai trò rất quan trọng.
Do du lịch là ngành kinh doanh có tính chất tổng hợp cao nên lao động quản lý
có vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu tổng hợp các ngành kinh tế, xã hội,


23

đề ra các chính sách về phát triển ngành. Bộ phận lao động đảm bảo hoạt động
kinh doanh du lịch lại phải nhanh nhạy, kịp thời, giải quyết tốt mọi công việc
hàng ngày cũng như đột xuất. Lao động trực tiếp cung cấp dịch vụ cho khách
ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng phục vụ, tạo ra sự hài lòng cho khách.
Về trình độ, chất lượng lao động, lao động trong du lịch cần có sự
chuẩn bị đầy đủ những kiến thức văn hóa chung như hiểu biết về lịch sử,
phong tục tập quán của từng địa phương và có khả năng giao tiếp tốt để phục
vụ tất cả các du khách và chiếm được sự cảm tình của họ.
- Mở rộng nguồn vốn đầu tư phát triển du lịch: Để tạo ra sản phẩm du
lịch phục vụ du khách ngày càng tốt hơn, ngành du lịch phải đảm bảo được
nguồn vốn kinh doanh du lịch. Sự phát triển thể hiện ở khả năng đảm bảo
nguồn vốn để đầu tư cho du lịch và đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn. Nguồn
vốn kinh doanh du lịch bao gồm nhiều nguồn: Vốn nhà nước, vốn tự có của
đơn vị, vốn vay tín dụng từ các ngân hàng, cộng đồng dân cư. Nguồn vốn đầu
tư cho du lịch bao gồm cả vốn trong và ngoài nước, trong đó vốn đầu tư nước

ngoài là nguồn vốn có tiềm năng lớn. Để đảm bảo nguồn vốn đầu tư cho các
mục tiêu phát triển ngành du lịch ở một địa phương, cần có giải pháp tăng
cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Do nguồn vốn của nhà nước còn hạn hẹp so với yêu cầu đầu tư để phát
triển nên cần phải có sự kết hợp hài hòa giữa nhà nước trong quá trình đầu tư
vốn, vừa đảm bảo thực hiện mục đích của nhà nước, vừa đảm bảo mục tiêu
của ngành du lịch. Để mở rộng quy mô kinh doanh, đáp ứng nhu cầu tăng
nhanh của du khách (đặc biệt trong mùa trọng điểm du lịch), các doanh
nghiệp phải tự tìm kiếm và huy động vốn bằng nhiều con đường khác nhau
(vay ngân hàng, phát hành cổ phiếu, huy động từ cán bộ công nhân viên...) để
kịp thời có vốn kinh doanh và tận dụng cơ hội thị trường.


24

Đồng thời, nguồn vốn đầu tư cho du lịch cần có cơ cấu hợp lý để đảm
bảo hiệu quả đầu tư. Trong đó, doanh nghiệp xác định được hướng đầu tư
đem lại hiệu quả cao nhất, xác định được cơ cấu nguồn vốn đầu tư phát triển
hạ tầng kỹ thuật phục vụ du lịch, đầu tư phát triển cơ sở lưu trú, nhà hàng, các
khu vực dịch vụ bổ sung, vui chơi, giải trí phục vụ giao thông vận tải, đầu tư
phát triển nguồn nhân lực phục vụ hoạt động du lịch...
- Tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch: Theo nghĩa rộng, cơ sở
vật chất kỹ thuật du lịch là toàn bộ các phương tiện vật chất kỹ thuật được huy
động tham gia vào việc khai thác các tài nguyên du lịch nhằm tạo ra và thực
hiện các dịch vụ và sản phẩm du lịch thỏa mãn nhu cầu của khách trong chuyến
tham quan của họ. Nó bao gồm các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng xã hội như hệ
thống đường sá, cầu cống, điện nước, các công trình xây dựng...Đây là những
yếu tố cơ sở hạ tầng xã hội, đảm bảo điều kiện chung cho phát triển du lịch.
Theo nghĩa hẹp, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được biểu hiện là toàn
bộ các phương tiện vật chất do các tổ chức du lịch tạo ra để khai thác các tiềm

năng du lịch, tạo ra các sản phẩm và hàng hóa cung cấp và làm thỏa mãn nhu
cầu du khách. Chúng bao gồm: hệ thống các khách sạn, nhà hàng các khu vui
chơi, giải trí, phương tiện vận chuyển, hệ thống thông tin liên lạc trong nội bộ
các cơ sở du lịch và với bên ngoài..., các công trình kiến trúc bổ trợ như các
khu vực giặt là, cắt tóc, vật lý trị liệu...Đây chính là những yếu tố đặc trưng
trong hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành du lịch. Nếu thiếu những yếu
tố này thì nhu cầu của khách du lịch không được thỏa mãn.
Việc tạo ra sản phẩm du lịch thỏa mãn nhu cầu của khách phụ thuộc
vào sự phát triển hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, được quyết định bởi
năng lực và tính tiện ích của nó. Ngành du lịch muốn phát triển gia tăng và
bền vững đòi hỏi phải có một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tốt. Do đó,
trình độ phát triển của ngành du lịch một địa phương còn được đánh giá ở sự


25

phát triển, tính đa dạng, phong phú, hiện đại, hấp dẫn của cơ sở vật chất- kỹ
thuật du lịch ở địa phương đó.
Tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ du lịch: Trong thời kỳ hội
nhập, sự phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia, các địa phương gắn liền
với sự phát triển của hoạt động nghiên cứu và ứng dụng khoa học vào thực
tiễn. Do đó, phát triển các nguồn lực ngành du lịch cũng là nói đến sự phát
triển của hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao công nghệ
thông tin tiên tiến trong lĩnh vực du lịch.
Khoa học công nghệ có vai trò quan trọng trong phát triển du lịch.
Những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại là những yếu tố làm
giảm chi phí, nâng cao hiệu suất công việc và hiệu quả của quá trình sản xuất
kinh doanh. Việc ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiến tiến như
điện tử tin học, vô tuyến viễn thông, tự động hóa, công nghệ sinh học... góp
phần hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, tạo ra những sản phẩm du

lịch ngày càng mới lạ, hấp dẫn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách.
Vì vậy, sự phát triển của ngành du lịch còn được thể hiện ở mức độ ứng
dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào hoạt động của ngành du lịch, hiệu
quả ứng dụng các nghiên cứu khoa học vào thực tiễn.
1.2.4. Nâng cao năng lực và tạo lập sự liên kết chặt chẽ giữa các chủ
thể tham gia hoạt động du lịch
Khi hoạt động du lịch đã phát triển mạnh mẽ hơn, các doanh nghiệp kinh
doanh du lịch đã chủ động hợp tác bằng những hợp đồng liên kết. Liên kết kinh
tế trong phát triển kinh tế du lịch chính là thực hiện liên kết trong cung ứng các
dịch vụ du lịch, trao đổi thông tin, học tập kinh nghiệm, đào tạo nhân lực, trong
việc hình thành các sản phẩm du lịch, tour, tuyến du lịch chung, trong quảng
bá, xúc tiến phát triển du lịch và trong liên kết với các cơ quan ban ngành.


×