Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Phát triển kinh tế tư nhân ở Tỉnh Bình Định giai đoạn 2010-2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 106 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Để phát triển kinh tế cần nhiều nguồn lực, nhiều thành phần, nhiều bộ
phận. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước chủ trương khai
thác mọi nguồn lực để phát triển kinh tế xã hội. Một trong những nguồn lực
thúc đẩy sự phát triển đó là kinh tế tư nhân.
Những năm gần đây, kinh tế tư nhân ở Bình Định đã có những bước
tiến vượt bậc và là một nguồn lực to lớn thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
Kinh nghiệm nhiều địa phương chỉ ra rằng, nơi nào chú ý phát triển kinh tế tư
nhân thì ở đó, đời sống người dân ngày càng được cải thiện, kinh tế, xã hội
phát triển.
Tuy vậy, kinh tế tư nhân Bình Định chưa thực sự phát huy hết các
nguồn lực, tiềm năng, lợi thế so sánh, đặc biệt trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay.
Do vậy việc nghiên cứu và phân tích thực trạng kinh tế tư nhân tại tỉnh
thời gian qua, đề ra các giải pháp nhằm phát huy tối đa nguồn lực to lớn này
là một đòi hỏi bức xúc. Với lí do đó, tác giả chọn “Giải pháp phát triển kinh
tế tư nhân ở tỉnh Bình Định giai đoạn 2010 – 2015” làm đề tài nghiên cứu
cho luận văn cao học của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận liên quan đến phát triển kinh tế tư
nhân và doanh nghiệp tư nhân nói riêng.
- Phân tích thực trạng việc phát triển kinh tế tư nhân, đặc biệt là doanh
nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân tại Bình Định thời gian qua.
- Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện việc phát triển kinh tế tư nhân ở
Bình Định thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu



2

Đối tượng nghiên cứu: là những vấn dề lý luận và thực tiễn liên quan
đến phát triển kinh tế tư nhân tại tỉnh Bình Định.
- Về nội dung: đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số nội dung cơ bản
của phát triển kinh tế tư nhân tại tỉnh Bình Định thông qua các loại hình
doanh nghiệp của nó gồm: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty cổ phần.
- Về không gian: đề tài chỉ tập trung nghiên cứu nội dung trên tại tỉnh
Bình Định.
- Về thời gian: các giải pháp đề xuất trong luận văn có ý nghĩa từ nay
đến năm 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên đề tài sử dụng các phương pháp sau đây:
- Phương pháp duy vật biện chứng
- Phương pháp duy vật lịch sử.
- Phương pháp phân tích thực chứng, phương pháp phân tích chuẩn tắc.
- Phương pháp điều tra, phân tích, so sánh.
- Các phương pháp nghiên cứu khác.
5. Bố cục của luận văn
Đề tài được chia làm 3 chương
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về phát triển kinh tế tư nhân
- Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân tại Bình Định thời
gian qua
- Chương 3: Giải pháp phát triển kinh tế tư nhân tại Bình Định thời gian
đến.


3


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TƯ NHÂN
1.1. TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
1.1.1. Một số khái niệm
Khái niệm về kinh tế tư nhân
Khái niệm kinh tế tư nhân hay khu vực kinh tế tư nhân hiện nay còn
nhiều ý kiến chưa đồng nhất. Ở nhiều nước, thuật ngữ kinh tế tư nhân được sử
dụng để phân biệt với kinh tế Nhà nước. Theo nghĩa rộng của nền kinh tế
được phân chia thành hai khu vực kinh tế chủ yếu là kinh tế Nhà nước và kinh
tế tư nhân. Hiện nay ở Việt Nam vẫn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về
kinh tế tư nhân.
Một số người coi kinh tế tư nhân gồm các doanh nghiệp tư nhân và các
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài dưới dạng liên doanh hay
100% vốn nước ngoài. Việc hiểu kinh tế tư nhân theo nghĩa rộng như vậy tạo
cơ sở để đánh giá hết tiềm năng của khu vực kinh tế này đối với sự phát triển
kinh tế Việt Nam, song lại gặp khó khăn trong thống kê, khi muốn tách bạch
được phần góp vốn của Nhà nước trong các công ty cổ phần, cũng như trong
các doanh nghiệp liên doanh hay 100% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hơn
nữa, theo cách phân biệt này, việc phân tích đôi khi sẽ có khó khăn, thực tế
không phải tất cả các bộ phận trong khu vực kinh tế tư nhân đều nhận được sự
hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước như nhau. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài nhìn chung luôn nhận được những điều kiện thuận lợi hơn các
doanh nghiệp tư nhân trong nước như công ty TNHH, hộ kinh doanh cá thể…
Thậm chí còn có quan điểm sai lầm, kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh. Cách nhìn này dựa trên việc chia nền kinh tế thành 3 khu


4


vực kinh tế: khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy, theo ý kiến này thì
kinh tế tập thể cũng thuộc kinh tế tư nhân. Mặt khác, thực tế cho thấy, việc
đưa khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ra khỏi kinh tế tư nhân
trong nước sẽ không đánh giá đúng tiềm năng cũng như vai trò của khu vực
kinh tế này cho sự phát triển của kinh tế Việt Nam, đặc biệt trong điều kiện
kinh tế mở, từng bước tiến tới hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay.
Quan niệm được nhiều người chấp nhận là khi nói đến kinh tế tư nhân
thực chất là nói đến khu vực kinh tế tư nhân, ở đó hoạt động sản xuất kinh
doanh được tiến hành dựa trên tư liệu sản xuất và lao động tư nhân. Luận văn
nhất trí với quan điểm này và coi đó là quan niệm chính thống để nghiên cứu
và xem xét về kinh tế tư nhân.
Kinh tế tư bản tư nhân, về hình thức sản xuất, hình thức doanh nghiệp,
bao gồm các công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ phần được
thành lập theo Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty.
Giới hạn vấn đề nghiên cứu, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số nội
dung cơ bản của phát triển kinh tế tư nhân tại tỉnh Bình Định thông qua các
loại hình doanh nghiệp của nó gồm:
Doanh nghiệp tư nhân: là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp. Chủ sở hữu duy nhất của một doanh nghiệp tư nhân là cá nhân.
Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân.
Chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, có toàn quyền quyết định việc sử dụng lợi
nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy
định của pháp luật. Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp hoặc thuê


5


người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh. Trường hợp thuê người
khác làm giám đốc quản lý doanh nghiệp, thì chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn
phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Do là chủ sở hữu duy nhất của doanh nghiệp nên doanh nghiệp tư nhân
hoàn toàn chủ động trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ doanh
nghiệp tư nhân tạo sự tin tưởng cho đối tác, khách hàng và giúp cho doanh
nghiệp ít chịu sự ràng buộc chặt chẽ bởi pháp luật như các loại hình doanh
nghiệp khác. Tuy nhiên, do không có tư cách pháp nhân nên mức độ rủi ro
của doanh nghiệp cao, chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của doanh nghiệp và của chủ doanh nghiệp chứ không giới hạn
số vốn mà chủ đầu tư đã đầu tư vào doanh nghiệp.
Như vậy, có thể thấy doanh nghiệp tư nhân sẽ là loại hình doanh nghiệp
ít được lựa chọn trong thời gian đến do những hạn chế và tính rủi ro của nó
không đáp ứng được xu hướng thay đổi của nền kinh tế trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Công ty trách nhiệm hữu hạn: là doanh nghiệp trong đó thành viên
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. Thành viên
công ty có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng thành viên tối thiểu là 2 và tối đa
không vượt quá năm mươi người. Công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách
pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tuy
nhiên, công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát hành cổ phiếu để
huy động vốn.
Công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên phải có Hội
đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc. Công ty trách
nhiệm hữu hạn có trên mười một thành viên phải có Ban kiểm soát.



6

Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình doanh nghiệp phổ biến nhất ở
Việt Nam hiện nay. Hoạt động kinh doanh dưới hình thức công ty trách nhiệm
hữu hạn đem lại cho nhà đầu tư nhiều lợi thế như:
- Do có tư cách pháp nhân nên các thành viên công ty chỉ chịu trách
nhiệm về các hoạt động của công ty trong phạm vi số vốn góp vào công ty
nên ít gây rủi ro cho người góp vốn.
- Số lượng thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn không nhiều và các
thành viên thường là người quen biết, tin cậy nhau, nên việc quản lý, điều
hành công ty không quá phức tạp.
- Chế độ chuyển nhượng vốn điều chỉnh chặt chẽ nên nhà đầu tư dễ
dàng kiểm soát được việc thay đổi các thành viên, hạn chế sự thâm nhập của
người lạ vào công ty. Tuy nhiên, hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn cũng
có những hạn chế nhất định như:
+ Do chế độ trách nhiệm hữu hạn nên uy tín của công ty trước đối tác,
bạn hàng cũng phần nào bị ảnh hưởng.
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của pháp
luật hơn là doanh nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh.
+ Việc huy động vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn bị hạn chế do
không có quyền phát hành cổ phiếu.
Công ty cổ phần: là doanh nghiệp, trong đó:
- Vốn điều lệ được chia làm nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người
khác, trừ trường hợp cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết.
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và
không hạn chế số lượng tối đa.



7

Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán
ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán.
Công ty cổ phần phải có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và
Giám đốc (Tổng giám đốc); đối với công ty cổ phần có trên mười một cổ
đông phải có Ban kiểm soát.
Do có những đặc thù như vậy công ty cổ phần có những lợi thế nhất
định, đó là:
- Chế độ trách nhiệm của công ty cổ phần là trách nhiệm hữu hạn, các
cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty
trong phạm vi vốn góp nên múc độ rủi ro của các cổ đông không cao.
- Khả năng hoạt động của công ty cổ phần rất rộng, trong hầu hết các
lĩnh vực, ngành nghề.
- Cơ cấu vốn của công ty cổ phần hết sức linh hoạt, tạo điều kiện nhiều
người cùng góp vốn vào công ty. Khả năng huy động vốn của công ty cổ phần
rất cao thông qua việc phát hành cổ phiếu ra công chúng, đây là đặc điểm
riêng của công ty cổ phần.
- Việc chuyển nhượng vốn trong công ty cổ phần là tương đối dễ dàng,
do phạm vi đối tượng được tham gia công ty cổ phần là rất rộng, ngay cả các
cán bộ công chức cũng có quyền mua cổ phiếu của công ty cổ phần.
Bên cạnh những lợi thế nêu trên, loại hình công ty cổ phần cũng có
những lợi thế nhất định như:
- Việc quản lý và điều hành công ty rất phức tạp do số lượng cổ đông
có thể rất lớn, có nhiều người không hề quen biết nhau và thậm chí có thể
phân hóa thành các nhóm cổ đông đối kháng nhau về lợi ích.



8

- Việc thành lập và quản lý công ty cổ phần cũng phức tạp hơn các loại
hình công ty khác do bị ràng buộc chặt chẽ bởi các quy định của pháp luật,
đặc biệt về chế độ tài chính, kế toán.
Như vậy, so với các loại hình doanh nghiệp khác, công ty cổ phần là
loại hinh doanh nghiệp có tính tổ chức và xã hội hóa cao cả về vốn cũng như
về hoạt động.
Việc lựa chọn hình thức doanh nghiệp trước khi bắt đầu kinh doanh là
rất quan trọng, nó ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Về cơ bản, những sự khác biệt tạo ra bởi loại hình doanh nghiệp là:
uy tín doanh nghiệp, khả năng huy động vốn, rủi ro đầu tư, tính phức tạp của
thủ tục và các chi phí thành lập doanh nghiệp, tổ chức quản lý doanh nghiệp.
Phát triển kinh tế tư nhân là một quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt
của các yếu tố, các bộ phận, các cơ sở, đặc biệt là các khu vực trong khu vực
kinh tế tư nhân. Chính sự phát triển của từng doanh nghiệp là yếu tố cơ bản
quyết định nhất trong việc thúc đẩy sự phát triển của cả khu vực kinh tế tư
nhân. Sự tăng trưởng của khu vực kinh tế tư nhân đồng thời có sự biến đổi sâu
sắc về mặt cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội theo chiều hướng tiến bộ.
Trong thời đại phát triển kinh tế thị trường, mục tiêu cuối cùng của sản
xuất kinh doanh không chỉ đơn giản là sinh tồn mà tạo ra giá trị thặng dư. Một
mô hình kinh doanh mới ra đời mô hình doanh nghiệp, trong điều kiện đó,
KTTN được biểu hiện ở một cách thức tổ chức sản xuất mới hình thức doanh
nghiệp.
1.1.2. Đặc điểm của kinh tế tư nhân
+ Kinh tế tư nhân gắn liền với lợi ích cá nhân, là một trong những động
lực thúc đẩy kinh tế phát triển.
+ Kinh tế tư nhân có tính tự phát cao.
+ Có tính đa dạng về quy mô và khả năng lựa chọn quy mô phù hợp.



9

+ Tự quyết định, về chiến lược, định hướng phát triển sản xuất kinh
doanh.
+ Phát triển kinh tế tư nhân sẽ dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo.
+ Kinh tế tư nhân sẵn sàng bỏ qua yếu tố tác động đến môi trường tự
nhiên, kinh tế- xã hội ( kể cả khi có hại) để đem lại phục vụ lợi ích cá nhân.
Các đặc điểm của kinh tế tư nhân này cũng chính là đặc điểm của các
doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân.
1.1.3. Lợi thế và hạn chế của kinh tế tư nhân
- Lợi thế của kinh tế tư nhân
Chủ doanh nghiệp là người trực tiếp sở hữu vốn, điều đó là động lực
mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển.
Mối quan hệ giữa quyền hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ, lợi ích gắn chặt
với nhau. Do vậy, các cơ sở KTTN có tính chủ động cao, năng động ứng xử
trước thị trường. Bộ máy quản lý doanh nghiệp thường gọn nhẹ chứ không
cồng kềnh như doanh nghiệp Nhà nước. Nhà nước không cần đầu tư lớn và
trực tiếp cho khu vực này mà chỉ cần có chính sách, chiến lược đúng đắn để
khuyến khích và hỗ trợ.
Mục tiêu hoạt động của KTTN là lợi nhuận tối đa, ít bị các mục tiêu xã
hội khác chi phối như đối với doanh nghiệp Nhà nước. Đây là cơ hội để
DNTN tối ưu cục bộ hiệu quả kinh tế.
Về hình thức tổ chức kinh doanh rất đa dạng, linh hoạt nên tạo ra sự
năng động, giảm bớt rủi ro cho nền kinh tế do tính thay thế lẫn nhau.
- Hạn chế của kinh tế tư nhân
Khu vực tư nhân thường không chú ý tới hiệu quả kinh tế xã hội toàn
diện
Các cơ sở thuộc KTTN thường không chú ý tới lợi ích cộng đồng nếu
không có lợi cho doanh nghiệp. Nhiều cơ sở tư nhân bất chấp cả pháp luật để



10

có được lợi nhuận cao. Họ tham gia vào các hoạt động phi pháp như: làm
hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng, buôn lậu, gian lận thương mại, gây
ô nhiễm môi trường trầm trọng…
Khả năng tài chính hạn hẹp, thường xuyên ở trong tình trạng thiếu vốn.
Điều đó, làm hạn chế khả năng tiếp cận các cơ hội kinh doanh của doanh
nghiệp. Khi gặp những biến động lớn của thị trường, các cơ sở KTTN dễ rơi
vào tình trạng phá sản do khả năng tài chính hạn hẹp. Mặc dù rất linh hoạt
nhưng các cơ sở KTTN được hình thành một cách tự phát nên dễ đổ vỡ và dễ
gây ra khủng hoảng cho nền kinh tế nếu nhà nước buông lỏng quản lý. Thứ tư,
thiếu thông tin và trình độ quản lý còn nhiều hạn chế. Khu vực KTTN thường
gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận thông tin thị trường, tiếp cận công
nghệ sản xuất và công nghệ quản lý tiên tiến.
Với quy mô sản xuất kinh doanh không lớn, khả năng tài chính hạn hẹp
mà các cơ sở thuộc KTTN khó có thể trả lương cao cho người lao động. Mặt
khác, do hoạt động của cơ sở trong khu vực tư nhân còn nhiều biến động và
bắt trắc, thiếu vững chắc nên rất khó trong việc thu hút được những người có
trình độ lao động cao trong sản xuất và quản lý vào làm việc.
1.2. NỘI DUNG CỦA PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
Phát triển kinh tế tư nhân là một quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt
của các hình thức kinh tế trong khu vực kinh tế tư nhân, bao gồm cả sự tăng
trưởng và sự hoàn chỉnh về cơ cấu tổ chức, năng lực hoạt động kinh doanh
của các đơn vị kinh tế tư nhân. Chính sự phát triển của từng doanh nghiệp là
yếu tố cơ bản quyết định nhất trong việc thúc đẩy sự phát triển của cả khu vực
kinh tế tư nhân.
1.2.1. Phát triển số lượng doanh nghiệp
Phát triển số lượng doanh nghiệp là một trong những tiêu chí quan

trọng để nghiên cứu đánh giá sự phát triển kinh tế tư nhân, phát triển kinh tế


11

tư nhân là phải có sự tăng trưởng nghĩa là sự gia tăng về số lượng, quy mô
doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân.
- Số luợng doanh nghiệp gia tăng hằng năm chứng tỏ doanh nghiệp khu
vực kinh tế tư nhân ngày càng phát triển. Tuy nhiên, gia tăng số luợng doanh
nghiệp không chỉ là tăng về số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh mà
phải được thể hiện bằng sự tăng lên về số lượng doanh nghiệp hoạt động thực
tế trên thị trường, có như vậy mới đánh giá đúng thực tế tình hình phát triển
số lượng doanh nghiệp khu vực KTTN.[8]
Nhìn chung sự phát triển số luợng doanh nghiệp phải phù hợp với tình
hình và xu huớng phát triển kinh tế - xã hội của khu vực, phù hợp với cơ cấu
ngành nghề trong khu vực, cũng như phù hợp với trình độ phát triển khoa học
công nghệ của đất nuớc.
Phát triển số luợng doanh nghiệp phải đuợc tiến hành cùng với việc
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi vì các doanh nghiệp
nâng cao được năng lực cạnh tranh mới đứng vững đuợc trong điều kiện cạnh
tranh và hội nhập với các yếu tố môi trường thường xuyên biến động như hiện
nay. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp khu vực KTTN ngày càng
đuợc nâng cao mới đánh giá thực chất sự phát triển đánh giá doanh nghiệp
khu vực KTTN của một khu vực, một quốc gia.
Sự phát triển về số lượng doanh nghiệp phải được kiểm chứng thông
qua cạnh tranh, uy tín, thương hiệu, nói cách khác chỉ tăng thêm số lượng
những doanh nghiệp đứng vững và phát triển trong điều kiện cạnh tranh, hội
nhập mới đánh giá đúng thực chất sự phát triển của kinh tế tư nhân.
1.2.2. Mở rộng quy mô doanh nghiệp
- Mở rộng quy mô doanh nghiệp là quá trình làm tăng năng lực sản

xuất của từng doanh nghiệp, là tiêu chí phản ánh tổng hợp sự kết hợp một
cách có hiệu quả các yếu tố nguồn lực.


12

- Mở rộng quy mô doanh nghiệp làm cho các yếu tố về vốn, lao động,
mặt bằng sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp lớn lên, phù hợp hơn.
Vốn, lao động là những yếu tố đầu vào cơ bản đối với sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp khu vực KTTN. Việc gia tăng về vốn, lao động thể hiện
được sự phát triển của doanh nghiệp.[9]
Trong các yếu tố về vốn, lao động thì yếu tố vốn có vai trò quan trọng
nhất đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Nếu vốn đầu tư dài hạn bình
quân của khu vực kinh tế tư nhân cao sẽ thể hiện được sự tăng truởng của khu
vực này trong tuơng lai.
Tuy nhiên, việc mở rộng quy mô doanh nghiệp chưa thể hiện được hiệu
quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn sự tăng lên về vốn
đầu tư dài hạn của mỗi doanh nghiệp phần nào thể hiện sự phát triển của
doanh nghiệp, nhưng để đánh giá sự phát triển cần phải xem xét hiệu quả
mang lại sự gia tăng luợng vốn đầu tư đó.
- Mở rộng quy mô doanh nghiệp làm cho giá trị sản phẩm hàng hóa của
kinh tế tư nhân tăng lên, mang lại lợi nhuận cho các doanh nghiệp.
- Kết hợp các yếu tố nguồn lực một cách phù hợp.
- Tạo ra sản phẩm, dịch vụ phù hợp với yêu cầu, mục tiêu kinh tế - xã hội,
với nhu cầu thị trường, đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Mở rộng quy mô doanh nghiệp phải phù hợp với cơ cấu ngành nghề.
1.2.3. Nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ
Nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp là sự nâng
cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ thông qua mức độ hài lòng và thỏa mãn của
khách hàng, cũng như sự trung thành của khách hàng với sản phẩm, dịch vụ

và sự tiến bộ về hành vi, thái độ phục vụ của các doanh nghiệp.[11]
Trước nhu cầu sử dụng ngày càng nhiều sản phẩm, dịch vụ của doanh
nghiệp với những tiện ích cao và tính năng hiện đại. Đòi hỏi doanh nghiệp


13

không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, hoàn thiện hệ thống
công nghệ và hệ thống phân phối, nâng cao phong cách phục vụ và trình độ
giao tiếp của đội ngũ nhân viên đối với khách hàng.
Để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ doanh nghiệp có thể thực
hiện các hình thức sau:
- Phát triển sản phẩm, dịch vụ mới hoàn toàn.
- Cải tiến, hoàn thiện sản phẩm, dịch vụ, thay thế sản phẩm, dịch vụ
hiện có, gồm:
+ Cải tiến về chất lượng, tạo ra nhiều loại sản phẩm, dịch vụ với chất
lượng khác nhau.
+ Thay đổi tính năng của sản phẩm, dịch vụ đảm bảo việc sử dụng
thuận tiện và an toàn hơn.
+ Đổi mới và hoàn thiện các sản phẩm, dịch vụ liên quan: rút gọn thời
gian, nâng cao tác phong phục vụ đội ngũ nhân viên các doanh nghiệp nhằm
thõa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Đây là hướng quan trọng để tạo ra
sự khác biệt so với sản phẩm, dịch vụ cùng loại của các doanh nghiệp khác
trên thị trường.
Chất lượng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp là yếu tố quan trọng
nhất để thu hút được khách hàng đến với doanh nghiệp. Do đó, nâng cao chất
lượng sản phẩm, dịch vụ doanh nghiệp trước hết phải được phản ánh qua các
chỉ tiêu, bao gồm:
- Độ thõa mãn của khách hàng: phát triển sản phẩm, dịch vụ doanh
nghiệp cần chú ý đến nhu cầu của khách hàng cũng như sự tiện ích và giá cả

hợp lý nhằm thõa mãn nhu cầu của khách hàng mới được xem là sản phẩm,
dịch vụ có chất lượng và hiệu quả.
- Độ an toàn: việc chấp nhận áp dụng các phương tiện trong phân phối
các sản phẩm, dịch vụ doanh nghiệp mang lại nhiều tiện ích cho các bên tham


14

gia. Tuy nhiên do tính chất phức tạp và tốc độ phát triển nhanh chống của
công nghệ doanh nghiệp mà mức độ rủi ro trong kinh doanh, chiến lược phát
triển.
1.2.4 Mở rộng thị trường
- Mở rộng thị trường là các doanh nghiệp tìm cách gia tăng doanh số
qua việc đưa ra các sản phẩm vào thị trường mới.[6]
- Làm cho các yếu tố thị trường, thị phần, khách hàng của nó ngày
càng tăng.
- Mở rộng thị trường làm từng doanh nghiệp phải tăng khả năng sản
xuất hàng hóa, dịch vụ, khả năng cung cấp sản phẩm cho thị trường, cho xã
hội, là sự biết vững chắc, rõ ràng về các loại thị trường trong và ngoài nước,
về cơ hội và thách thức tự hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, mở rộng thị
trường, có thêm thị trường mới để đạt được thị phần ngày càng lớn. Có như
vậy doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân mới tự khẳng định được, mới
có vai trò trong thị trường và xã hội.
- Mở rộng thị trường kinh tế tư nhân có thể thực hiện theo các nội dung
sau:
+ Mở rộng thị trường về khách hàng là nhằm vào nhu cầu khách hàng
để sắp xếp tiềm lực và mọi cố gắng của doanh nghiệp để tìm ra sự thỏa mãn
cho khách hàng. Thị trường của KTTN là tập hợp khách hàng rất đa dạng,
khác về lứa tuổi, giới tính, thu nhập, sở thích… Do đó, có thể phân chia thành
các nhóm khác nhau, mỗi nhóm có đặc trưng riêng, căn cứ vào hành vi sử

dụng, căn cứ vào phạm vi địa lý, căn cứ cào mối quan hệ của khách hàng với
doanh nghiệp.
+ Mở rộng thị trường về địa lý: nhu cầu khách hàng đối với mỗi hàng
hóa là tổng khối lượng sẽ sử dụng, được sử dụng bởi một nhóm khách hàng


15

đã xác định, trong một vùng xác định, một thời điểm, một môi trường xác
định.
Như vậy, sự mở rộng thị trường của các doanh nghiệp không chỉ là mở
rộng về sản phẩm, dịch vụ, về khách hàng mà cả về mặt địa lý.
1.2.5. Tăng cường liên kết doanh nghiệp
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, sự cạnh tranh luôn
là yếu tố kích thích sự phát triển, nhưng cạnh tranh cũng làm cho doanh
nghiệp yếu thế luôn đứng bên bờ vực phá sản, chính vì vậy mà hiện nay khái
niệm liên kết doanh nghiệp ngày càng trở nên quen thuộc. Liên kết doanh
nghiệp là quan hệ bình đẳng giữa các doanh nghiệp và dựa trên nguyên tắc tự
nguyện nhằm khai thác hết tiềm năng của mỗi doanh nghiệp. Do đó, nhiều tập
đoàn kinh tế mạnh trên thế giới đang từng bước xích lại gần nhau hơn qua
hình thức liên kết, sát nhập để trở thành các tập đoàn kinh tế lớn với công
nghệ và dây chuyền sản xuất khép kín. Theo các chuyên gia thương mại, sự
liên kết giữa các doanh nghiệp lại với nhau là điều cần thiết trong lúc các
doanh nghiệp của Việt Nam còn yếu về tiềm lực tài chính, cũng như năng lực
quản lý. Vì vậy, không còn cách nào khác là các doanh nghiệp phải liên kết
lại với nhau để nâng cao sức mạnh.[7]
Thực tế thì trong thời gian qua, các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư
nhân chưa quan tâm nhiều đến việc liên kết và lâu nay họ quan niệm rằng,
việc liên kết chỉ diễn ra giữa các doanh nghiệp lớn với nhau, hoặc các doanh
nghiệp vừa và nhỏ liên kết với nhau hay chỉ ít các doanh nghiệp lớn phải đóng

vai trò chủ chốt trong các mối liên kết giữa các doang nghiệp. Nhưng các
thương gia thương mại cho rằng, sự liên kết phải là sự bình đẳng và dựa trên
nguyên tắc tự nguyện mới có thể khai thác hết tiềm năng của mỗi doanh
nghiệp, đối với các doanh nghiệp lớn là khả năng về tài chính, công nghệ,
quản lý còn các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò là chuyên gia công với


16

giá cả hợp lý. Hay nói cách khác, thế mạnh của tất cả các doanh nghiệp sẽ
được khai thác tốt. Hơn thế nữa, sự liên kết đa dạng giữa các doanh nghiệp
mạnh và yếu vì mục tiêu cùng phát triển chứ không phải riêng cho doanh
nghiệp nào.
Liên kết doanh nghiệp mang lại những lợi ích cơ bản sau:
- Tạo điều kiện để tiết kiệm về quy mô, chi phí.
- Giúp doanh nghiệp làm chủ tốt hơn tính phức tạp của thị trường trong
điều kiện toàn cầu hóa thương mại.
- Giúp doanh nghiệp phản ứng nhanh nhạy hơn với những thay đổi của
môi trường kinh doanh.
- Tạo điều kiện tăng khả năng linh hoạt của doanh nghiệp vì các doanh
nghiệp có thể giảm thiểu cơ cấu theo cấp bậc và như vậy, sẽ dễ dàng hơn
trong việc thay đổi, tập trung hơn cho một lĩnh vực có thế mạnh của doanh
nghiệp.
- Giúp doanh nghiệp tiếp cận nhanh chóng hơn với các công nghệ mới.
Các bên tham gia liên kết có thể chuyển giao công nghệ cho nhau, với những
chi phí hợp lý và thời gian nhanh chóng, do sự tin cậy lẫn nhau.
- Giúp giảm thiểu các rủi ro. Khi tham gia liên kết, rủi ro sẽ được phân
bổ cho các đối tác tham gia, chứ không phải chỉ tập trung vào một chủ thể,
khi đó khả năng vượt qua khó khăn sẽ cao hơn.
- Giúp doanh nghiệp dễ dàng chinh phục những thị trường do khả năng

tài chính, tận dụng lợi thế chi phí thấp.
- Tạo điều kiện giảm nhẹ cơ cấu bên trong doanh nghiệp, thông qua
việc chuyên môn hóa trong các công đoạn sản xuất, doanh nghiệp.
Phát triển kinh tế tư nhân cũng chính là mở rộng mối quan hệ giữa các doanh
nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân, sự hợp tác giữa các doanh nghiệp với các
doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế khác nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả


17

kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Việc phát triển các hiệp hội
giúp doanh nghiệp giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, các quyết định cấm,
dừng nhập khẩu của phía nhập khẩu, do doanh nghiệp thiếu cán bộ thông thạo
ngoại ngữ, am hiểu pháp luật thương mại quốc tế để kiểm soát các giao dịch,
tránh bị thua thiệt áp thuế chống phá giá, theo đuổi các vụ kiện… Đặc biệt
trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế, các quy định pháp lý của WTO lên đến
hàng trăm ngàn trang với nội dung phức tạp thì việc các doanh nghiệp đơn
độc trong thương trường quốc tế là bất lợi lớn cần khắc phục.
1.2.6. Gia tăng các yếu tố nguồn lực
Các nguồn lực theo nghĩa rộng, gồm một loạt các yếu tố về tổ chức, kỹ
thuật, nhân sự, cơ sở vật chất, tài chính doanh nghiệp.
Các nguồn lực có thể chia làm hai loại: nguồn lực hữu hình và nguồn lực
vô hình.
Phát triển các nguồn lực hữu hình:
+ Nguồn nhân lực: nâng cao kiến thức và khả năng của người lao động,
xây dựng các thói quen làm việc hữu hiệu của người lao động cho hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
+ Nguồn lực tài chính: nâng cao khả năng vay nợ và khả năng tự tài trợ
của doanh nghiệp. Khả năng vay nợ và khả năng tự tài trợ ảnh hưởng rất lớn đến
khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

+ Các điều kiện vật chất: nâng cao khả năng tiếp cận nguồn nguyên vật
liệu và phân phối hợp lý các nhà xưởng, máy móc, mặt bằng sản xuất kinh
doanh.
+ Nâng cao trình độ công nghệ, máy móc thiết bị, nhãn hiệu thương mại,
bí quyết kinh doanh.
Phát triển nguồn lực vô hình:


18

+ Xây dựng, phát triển thương hiệu và danh tiếng của doanh nghiệp với
khách hàng và các nhà cung cấp.
+ Phát triển văn hóa doanh nghiệp: năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
có thể được nâng cao một cách nhanh chóng nếu tạo được môi trường văn hóa
tích cực, lành mạnh, dân chủ để phát huy được năng lực của đội ngũ lao động
trong doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp luôn gắn liền với thương hiệu và
danh tiếng của doanh nghiệp.
1.3. Ý NGHĨA CỦA PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
Phát triển khu vực kinh tế tư nhân có ý nghĩa quan trọng trong phát
triển nền kinh tế xã hội nói chung và kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa nói
riêng. Điều đó được thể hiện trên các khía cạnh chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, phát triển kinh tế tư nhân góp phần huy động khai thác tối đa
các nguồn lực trong dân cư để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập, nâng cao đời sống dân cư. Ở những nước
đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, khi tiềm lực kinh tế quốc
gia còn yếu, nguồn thu ngân sách Nhà nước còn hạn chế ảnh hưởng tới nguồn
vốn đầu tư từ ngân sách và khi hệ thống ngân hàng chưa làm tốt nhiệm vụ huy
động vốn nhàn rỗi trong dân thì phát triển kinh tế tư nhân là cách tốt nhất để
đưa nguồn vốn nhàn rỗi đó vào lưu thông trong nền kinh tế thông qua mối
quan hệ họ hàng quen biết của tư nhân.

Thứ hai, phát triển khu vực kinh tế tư nhân còn có khả năng đưa nguồn
vốn đầu tư vào những lĩnh vực hiệu quả nhất. Sỡ dĩ có được điều này là do sở
hữu tư nhân, trách nhiệm và lợi ích gắn bó chặt chẽ với nhau nên khu vực tư
nhân thường khai thác nguồn vốn với hiệu quả cao.
Thứ ba, phát triển kinh tế tư nhân góp phần đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước thông qua việc nâng cao tỷ lệ tích lũy và
đầu tư, phân phối và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực kinh tế, tăng sức cạnh


19

tranh trong nền kinh tế, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy tiến bộ khoa họccông nghệ để hội nhập vào nền kinh tế quốc tế.
Thứ tư, phát triển khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần đáng kể vào
việc giải quyết việc làm, góp phần ổn định xã hội. Các đơn vị thuộc tư nhân
thường dễ dàng được thành lập với số vốn không lớn và dễ thích ứng với
những thay đổi của thị trường. Vì vây, với một số lượng lớn các cơ sở kinh
doanh tư nhân trên thị trường đã tạo ra phần lớn công ăn, việc làm cho xã hội
mặc dù số lượng việc làm trên mỗi cơ sở là nhỏ.
Thứ năm, phát triển khu vực kinh tế tư nhân cung cấp một khối lượng
lớn hàng hóa dịch vụ, đóng góp quan trọng trong GDP và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Bên cạnh đó với đặc tính năng động và linh hoạt của mình,
kinh tế tư nhân với một mạng lưới phân bố các doanh nghiệp rộng khắp cả
nước đã tạo ra một khối lượng hàng hóa, dịch vụ rất lớn với cơ cấu, chủng
loại phong phú đa dạng và ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu
dùng.
Thứ sáu, phát triển khu vực kinh tế tư nhân góp phần quan trọng trong
việc tạo lập sự phát triển cân đối và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng,
lãnh thổ. Nó giúp cho vùng sâu, vùng xa, các vùng nông thôn có thể khai thác
được tiền năng, thế mạnh của mình để phát triển nhanh các ngành sản xuất
dịch vụ, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế rút ngắn khoảng cách chênh lệch

giữa các vùng.
Thứ bảy, phát triển khu vực kinh tế tư nhân góp phần làm gia tăng
nguồn hàng xuất khẩu và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Ngoài ra,
khu vực kinh tế tư nhân còn là nơi đào tạo, rèn luyện các chủ doanh nghiệp
lớn trong tương lai và đào tạo cơ sở kinh tế ban đầu phát triển các doanh
nghiệp lớn. Đội ngũ các nhà DNTN nhờ được rèn luyện trong cơ chế thị


20

trường đã trưởng thành, tỏ rõ bản lĩnh và tài năng, thích ứng khá kịp thời với
sự chuyển đổi của nền kinh tế.
Có thể nói, kinh tế tư nhân đang dần trở thành động lực chính cho sự
phát triển kinh tế nhanh và bền vững, tạo sự ổn định xã hội, là công cụ quan
trọng để tạo công ăn việc làm cho người lao động, cải tiến nền công nghiệp
lạc hậu, tiếp cận những thị trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu hút nguồn
vốn nhàn rỗi, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, tạo động lực cho cạnh
tranh và phát triển kinh tế. Hiện nay kinh tế tư nhân đang đảm nhiệm vai trò
ngày càng quan trọng hơn trong đời sống kinh tế xã hội của đất nước.
1.4. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TƯ NHÂN
Khu vực kinh tế tư nhân chỉ có thể tồn tại và phát triển khi có môi
trường kinh doanh thích hợp. Môi trường kinh doanh của khu vực kinh tế tư
nhân ở nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chũ nghĩa. Một số
nhân tố của môi trường kinh doanh ảnh hưởng đến sự phát triển của từng
doanh nghiệp nói riêng và khu vực kinh tế tư nhân nói chung.[5]
- Một là, nhân tố về thị trường
Một trong những nhân tố quyết định việc các doanh nghiệp tư nhân có
đầu tư vào một thị trường, một lĩnh vực nào đó hay không là khả năng tham
gia thị trường, nhất là trong điều kiện đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế. Khả

năng này tạo thành từ những nhân tố không chỉ do nội lực của bản thân doanh
nghiệp mà chủ yếu phụ thuộc rất nhiều vào môi trường thuận lợi từ phía Nhà
nước, xã hội là sự phát triển đồng bộ các loại thị trường như: thị trường hàng
hóa và dịch vụ, thị trường lao động, thị trường tài chính, thị trường khoa học
công nghệ, thị trường bất động sản… Cùng với việc thiết lập môi trường cạnh
tranh lành mạnh, công khai, minh bạch cũng như điều kiện, thủ tục thành lập
doanh nghiệp, yếu tố tâm lý xã hội…


21

Đặc biệt, trong giai đoạn phát triển, các doanh nghiệp thuộc tư nhân rất
cần sự hỗ trợ của Nhà nước về mặt như vốn, công nghệ, đào tạo lao động, tìm
kiếm thị trường nhất là tìm một môi trường xã hội, ở đó có sự thừa nhận, tôn
vinh khu vực kinh tế tư nhân.
Một trong những yếu tố làm tăng chi phí đầu vào của doanh nghiệp đặc
biệt là doanh nghiệp tư nhân là các doanh nghiệp ít có điều kiện tiếp cận vào
nguyên vật liệu đầu vào. Khi có các yếu tố đầu vào thuận lợi các doanh
nghiệp sẽ có nhiều cơ hội tăng cường đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh.
Với mục tiêu lợi nhuận, phát triển thị phần và đầu ra luôn là mục tiêu
của kinh tế tư nhân. Mặc dù đã có nhiều chuyển biến trong những năm gần
đây nhưng khả năng chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước của các doanh
nghiệp tư nhân vẫn chưa thực sự vững chắc ảnh hưởng đến sự phát triển bền
vững của doanh nghiệp.
- Hai là, về cơ sở hạ tầng kỹ thuật
Với trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng tiến bộ, quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ cơ sở hạ tầng là một trong những điều kiện
phát triển nền kinh tế. Ở đâu có cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại hoàn chỉnh
như: giao thông, cấp điện, cấp nước, thông tin liên lạc… thì ở đó sẽ tạo điều
kiện thuận lợi, kích thích được phát triển kinh tế, đặc biệt là đối với khu vực

kinh tế tư nhân với tính năng động và hiệu quả của mình.
Vai trò của cơ sở hạ tầng kỹ thuật là rất to lớn nếu thiếu sự quan tâm,
đầu tư đúng mức sẽ làm kiềm hãm sự phát triển nền kinh tế nói chung và kinh
tế tư nhân nói riêng.
- Ba là, nhân tố về thông tin: hoạt động trong nền kinh tế thị trường
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp muốn tăng cường
khả năng cạnh tranh, tận dụng cơ hội, thách thức giảm thiểu rủi ro, phát huy
tính năng động và hiệu quả buộc các doanh nghiệp phải có khả năng, các


22

quyền được tiếp cận và nắm bắt đầy đủ thông tin về môi trường kinh doanh
liên quan như: các thông tin về pháp luật, về chủ trương chính sách của Đảng
và Nhà nước, những biến động thị trường kinh tế khu vực, đất nước và trên
thế giới… Môi trường kinh doanh lành mạnh đảm bảo bình đẳng, minh bạch,
công khai khả năng tiếp cận thông tin của mọi doanh nghiệp trong các thành
phần kinh tế. Tăng cường khả năng tiếp cận thông tin chính là đem lại những
lợi thế cực lớn trong doanh nghiệp trong hoạch định chiến lược, xây dựng kế
hoạch sản xuất các chiến lược, xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh.
Vấn đề thiếu thông tin về thị trường và tình hình kinh tế nước ngoài đã
dẫn đến việc các đối tác và thị trường không đến được với nhau. Vì vậy thông
tin về thương mại điện tử có tác động rất quan trọng đối với nền kinh tế và
các doanh nghiệp: Thứ nhất, thông tin giúp các doanh nghiệp cập nhật các
thông tin về tình hình, nhu cầu của thị trường một cách đầy đủ nhất. Doanh
nghiệp không chỉ cần quảng bá được những thông tin về quá trình sản xuất
kinh doanh, sản phẩm và những mục đích khác ra bên ngoài, mà còn tìm kiếm
các nhu cầu trên thị trường cũng dễ dàng, thuận tiện.
Vì vậy, nếu biết sử dụng tốt về thông tin các doanh nghiệp sẽ thu thập
được những thông tin phong phú về kinh tế - thương mại (thông tin thị

trường); giảm chi phí cho sản xuất; giảm thấp chi phí bán hàng và chi phí tiếp
thị; tạo điều kiện cũng cố và thiết lập mối quan hệ với bán hàng.
- Bốn là, về quan hệ giữa Nhà nước với doanh nghiệp
Thực tế phát triển kinh tế ở nhiều nước trên thế giới cũng chỉ ra rằng,
khu vực kinh tế tư nhân khó có thể phát triển được nếu mối quan hệ giữa Nhà
nước với doanh nghiệp không được giải quyết tốt. Nói cách khác, quan hệ
giữa Nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân là một nhân tố cơ bản ảnh hưởng
đến phát triển kinh tế tư nhân.


23

Quan hệ này thực chất là quan hệ giữa cơ quan quản lý, điều tiết nhà
nước, các cấp chính quyền với các đơn vị sản xuất kinh tế thuộc khu vực kinh
tế tư nhân. Các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường luôn cần có sự quản
lý của Nhà nước, bởi vai trò điều tiết nền kinh tế nói chung và khu vực kinh tế
tư nhân nói riêng của Nhà nước là yếu tố tất yếu khách quan.
Quan hệ giữa Nhà nước với các doanh nghiệp thuận lợi thể hiện qua hệ
thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh và đồng bộ, trong đó đảm bảo quyền tự
do và bình đẳng trong đầu tư và kinh doanh, bảo hộ quyền sở hữu tài sản hợp
pháp của mọi công đân, các nhà đầu tư và kinh doanh. Mặt khác, đảm bảo
hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước minh bạch, công khai, thủ tục
hành chính đơn giản, thuận lợi, nhanh chóng, cũng như là đội ngũ cán bộ
công chức công tâm, thiện chí quan tâm giải quyết các yếu cầu và tháo gỡ
những khó khăn cho các doanh nghiệp là điều kiện hết sức quan trọng để kinh
tế tư nhân phát triển. Bên cạnh đó, quan hệ này còn biểu biện có sự hỗ trợ,
giúp đỡ, khuyến khích của Nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân trong
quá trình phát triển của mình và trên thực tế tất cả các doanh nghiệp nghiệp
hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều sự ủng hộ của Nhà nước. Điều có ý
nghĩa tâm lý quan trọng cho sự phát triển kinh tế tư nhân là sự động viên,

khen thưởng tôn vinh các doanh nghiệp tư nhân thành đạt, sản xuất kinh
doanh giỏi đóng góp nhiều cho cộng đồng, xã hội của khu vực kinh tế này.
- Năm là, về điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên đem lại lợi thế so sánh không nhỏ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, Việc tận dụng tốt vị trí, điều kiện tự nhiên
sẽ giúp doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào, đầu ra, chi phí sản xuất kinh
doanh,… nâng cao năng lực cạnh tranh. Ngày nay, vị trí địa lý và điều kiện tự
nhiên tuy không còn đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của khu vực
kinh tế tư nhân nhưng vẫn đóng một vai trò hết sức quan trọng.


24

1.5. KINH NGHIỆP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở CÁC NƯỚC
Kinh nghiệm của Cộng Hoà Liên bang Đức
- Về hỗ trợ tài chính đẩy mạnh xuất khẩu: như miễm thuế, trợ cấp xuất
khẩu…tạo điều kiện để doanh nghiệp tư nhân nhỏ có thể nhận gia công cho
các công ty nước ngoài, gia công hàng hóa xuất khẩu…
- Về dịch vụ tư vấn: Các phòng Thương mại giúp các doanh nghiệp nhỏ
tại Đức thuê chuyên gia tư vấn, những người này chủ yếu là do Chính phủ Đức
trả lương.
- Đào tạo: Chính phủ Đức tài trợ tới một phần ba chi phí của các khóa học
diễn ra tại cơ sở đào tạo của các phòng Thương mại dành cho doanh nghiệp vừa
và nhỏ.
- Về tài chính: Từ tháng 1 năm 1990, các doanh nghiệp nhỏ tại Đức
không phải đóng thuế doanh thu. Các ngân hàng bảo đảm tín dụng được thành
lập với các khoản cho vay công cộng nhằm tăng nguốn vốn cho doanh nghiệp để
họ có thể tăng thêm thu nhập và giải quyết việc làm cho nền kinh tế và cũng giúp
tổ chức tài chính tránh được mức độ rủi ro cao khi họ cho các doanh nghiệp nhỏ
vay tiền.[10]

Kinh tế của Trung Quốc
Ngay từ những năm 1970, Trung Quốc đã chủ trương mạnh dạn tiếp thụ
và học tập các thành quả văn minh mà xã hội loài người đã sáng tạo ra, tiếp
thu và học tập tất cả những phương thức kinh doanh, những phương thức
quản lý tiên tiến, phản ánh quy luật sản xuất hiện đại của các nước trên thế
giới, kể cả các nước tư bản chủ nghĩa.
Trong quá trình hoàn thiện nội dung và phương thức quản lý Nhà nước
đối với khu vực kinh tế tư nhân, Trung Quốc coi trọng việc điều chỉnh chính
sách mở cửa (nhất là thuế) theo hướng hổ trợ gia công xuất khẩu, bão bộ sản
xuất trong nước, song sẵn sàng nhượng bộ lợi ích trước mắt, miễn giảm thuế


25

và đưa ra nhiều chính sách ưu đãi hấp dẫn khác để thu hút tối đa nguồn vốn
nước ngoài.
Trung Quốc cũng coi trọng việc lập các quỹ tín dụng xuất khẩu, quỹ hỗ
trợ sản xuất chuyên ngành nhằm cấp tín dụng xuất khẩu, tín dụng cải tiến kỹ
thuật, tăng cường khả năng sản xuất gia công xuất khẩu và thưởng xuất khẩu
cho các mặt hàng chủ lực, phát triển các hình thức gia công lắp đặt với các đối
tác nước ngoài; sử dụng linh hoạt các hình thức mậu dịch bồi hoàn, thuê mua
tài chính… để hỗ trợ doanh nghiệp.
Cơ chế quản lý ngoại thương của Trung Quốc không ngừng được cải
cách theo hướng cởi mở hơn. Tình trạng độc quyền của Nhà nước ngày càng
thu hẹp, trước hết trong ngoại thương.
Từ năm 1990 đến nay, Trung Quốc chuyển mạnh sang vừa mở cửa
toàn diện, vừa xúc tiến điều chỉnh môi trường đầu ra và nâng cao năng lực thể
chế phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt là để tạo thuận lợi cho hoạt
động khu vực kinh tế tư nhân.
Trong việc điều chỉnh môi trường đầu tư, Trung Quốc ưu tiên tập trung

vào việc thống nhất và tạo môi trường bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong
nước và ngoài nước, từng bước hạ thấp thuế quan theo yêu cầu hội nhập và
duy trì mức bão hộ có thể đối với các ngành, sản phẩm sản xuất trong nước có
triển vọng thị trường và có ý nghĩa quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội.
Nhằm cải thiện cơ bản môi trường kinh doanh, Trung Quốc không chỉ
phát triển hạ tầng cơ sở mà còn từng bước áp dụng mức giá dịch vụ thống
nhất cho các doanh nghiệp và thương nhân nước ngoài theo giá dành cho
doanh nghiệp, thương nhân trong nước. Các thủ tục phê duyệt dự án đầu tư
được đơn giản hóa, những hạn chế đối với đầu tư nước ngoài được giảm tối
thiểu.


×