Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Quan niệm Hiếu trong nho giáo với việc xây dựng gia đình văn hóa tại Thành phố Đà Nẵng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (750.87 KB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

LƯU THỊ THU HẰNG

QUAN NIỆM “HIẾU” TRONG NHO GIÁO VỚI
VIỆC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA TẠI
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN HỒNG LƯU

Đà Nẵng - Năm 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Lưu Thị Thu Hằng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1


1. Tính cấp thiết của đề tài...................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 3
5. Bố cục đề tài........................................................................................ 4
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu ............................................................ 4
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA NHO GIÁO VỀ “HIẾU” ...................... 8
1.1. VỊ TRÍ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN VỀ “HIẾU” TRONG LỊCH SỬ NHO
GIÁO ................................................................................................................. 8
1.1.1. Vị trí của Hiếu trong xã hội .......................................................... 8
1.1.2. Quan niệm về Hiếu trong lịch sử phát triển của Nho giáo ......... 12
1.2. NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG QUAN ĐIỂM “HIẾU” CỦA NHO GIÁO17
1.2.1. Hiếu là gốc của Nhân, là nết đầu trong trăm nết ........................ 17
1.2.2. Hiếu là đạo đức cơ bản trong xã hội, phụng sự cha mẹ, tôn kính
cha mẹ là biểu hiện của đạo đức con người .................................................... 23
1.2.3. Hiếu là nguyên tắc cơ bản để duy trì trật tự trên dưới trong gia
đình ............................................................................................................... 30
1.2.4. Hiếu là khi làm bất cứ điều gì cũng phải nghĩ cho cha mẹ, không
làm cho cha mẹ buồn phiền............................................................................. 33
1.2.5. Hiếu trong Nho giáo luôn gắn liền với Trung ............................ 38
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1.................................................................................. 44
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ “HIẾU” TRONG XÂY DỰNG
GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở ĐÀ NẴNG HIỆN NAY ..................................... 45
2.1. QUÁ TRÌNH BIẾN ĐỔI VỀ “HIẾU” TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM .. 45
2.1.1. Sự việt hóa về tư tưởng Hiếu trong Nho giáo ở Việt Nam......... 45


2.1.2. Sự biến đổi của chữ Hiếu trong gia đình ở Đà Nẵng hiện nay... 52
2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ HIẾU TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN
HÓA Ở ĐÀ NẴNG HIỆN NAY..................................................................... 58

2.2.1. Gia đình văn hóa và các tiêu chí để xây dựng Gia đình văn hóa ở
Đà Nẵng........................................................................................................... 58
2.2.2. Một số kết quả đạt được trong quá trình xây dựng Gia đình văn
hóa ở Đà Nẵng thời gian qua........................................................................... 63
2.2.3. Chữ Hiếu trong xây dựng gia đình văn hóa ở Đà Nẵng
nay

hiện

............................................................................................................... 69

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2.................................................................................. 74
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM KẾ THỪA MẶT TÍCH
CỰC QUAN NIỆM “HIẾU” TRONG NHO GIÁO VÀO XÂY DỰNG
GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG HIỆN NAY............ 75
3.1. GIẢI PHÁP VỀ LÃNH ĐẠO, TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ .................... 75
3.1.1. Xây dựng kế hoạch về xây dựng gia đình văn hóa trong thời kỳ
mới gắn với việc bảo tồn, phát huy đạo Hiếu truyền thống của dân tộc ........ 75
3.1.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường vai trò của pháp luật
gắn với giáo dục đạo Hiếu trong xây dựng gia đình văn hóa ở Đà Nẵng....... 79
3.2. GIẢI PHÁP VỀ VĂN HÓA - XÃ HỘI ................................................... 83
3.2.1. Phát huy các giá trị truyền thống về Hiếu kết hợp với việc tiếp
thu có chọn lọc các giá trị tiên tiến của thời đại trong xây dựng Gia đình văn
hóa

............................................................................................................... 83
3.2.2. Kế thừa và phát huy mặt tích cực của quan niệm Hiếu trong Nho

giáo vào xây dựng Gia đình văn hóa ở Đà Nẵng hiện nay ............................. 86
3.2.3. Nâng cao nhận thức của thế hệ trẻ về vai trò của chữ Hiếu trong

xây dựng gia đình văn hóa hiện nay................................................................ 88
3.3. GIẢI PHÁP VỀ GIÁO DỤC ................................................................... 91


3.3.1. Giáo dục chữ Hiếu trong Nho giáo vào xây dựng Gia đình văn
hóa ở Đà Nẵng hiện nay.................................................................................. 91
3.3.2. Giáo dục lòng hiếu thảo cho con cháu thông qua ông bà,
cha mẹ ............................................................................................................. 94
3.3.3. Giáo dục văn hóa ứng xử cho các thành viên trong xây dựng Gia
đình văn hóa ở Đà Nẵng.................................................................................. 97
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3................................................................................ 100
KẾT LUẬN .................................................................................................. 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI (bản sao)


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức được giai cấp phong kiến
Trung Quốc lấy làm hệ tư tưởng thống trị. Khi du nhập vào Việt Nam, Nho
giáo cũng được giai cấp phong kiến Việt Nam sử dụng làm hệ tư tưởng thống
trị từ thế kỷ XV và có ảnh hưởng to lớn, lâu dài đến mọi mặt đời sống của dân
tộc ta. Trong đó, quan niệm của Nho giáo về Hiếu có ảnh hưởng sâu sắc đến
mọi mặt của đời sống xã hội ở nước ta qua nhiều thế kỷ. Hiếu có vai trò đặc
biệt quan trọng trong việc gìn giữ các mối quan hệ trong gia đình, đồng thời
những quan điểm về Hiếu của Nho giáo còn góp phần hình thành nên hệ
thống các quy tắc và các mối quan hệ trong gia đình; ràng buộc và quy định
trách nhiệm của các thành viên trong gia đình với nhau.

Gia đình truyền thống Việt Nam từ đời này sang đời khác đã kết tinh
những tinh hoa văn hóa dân tộc như hiếu thảo với ông bà, cha mẹ; hòa thuận
với anh, chị em... từ đó đã hình thành nên những chuẩn mực đạo đức và lối
sống trở thành gia phong, nề nếp của mỗi gia đình. Những chuẩn mực đạo
đức tích cực đó nếu được phát huy trong cuộc sống hôm nay sẽ góp phần
ngăn chặn sự xuống cấp về mặt đạo đức, lối sống; thể hiện được nét đẹp trong
các gia đình truyền thống ở Việt Nam. Các gia đình trong xã hội ta chủ yếu
được duy trì dựa trên nguyên tắc kính trên nhường dưới và lòng hiếu thảo của
con cháu đối với ông bà, cha mẹ đã được bao thế hệ gia đình gìn giữ và lưu
truyền. Ðây vừa là phép tắc ứng xử vừa là giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc. Giáo dục lòng kính trọng - một trong những phẩm chất quý báu của
con người, là thước đo cao nhất của đức Hiếu. Ðức hiếu kính của người làm
con đối với cha mẹ là cái gốc của tình yêu con người.
Đà Nẵng là một thành phố trẻ năng động, nằm ở khu vực miền Trung của
Việt Nam. Được coi là trung tâm kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học và công


2
nghệ lớn của khu vực miền Trung - Tây Nguyên, chính vì thế, Đà Nẵng hiện
nay đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực như kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Điều đó cũng thúc đẩy các gia đình trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng chuyển từ mô hình gia đình truyền thống sang mô hình
gia đình hiện đại. Những chuẩn mực của gia đình truyền thống đã bị mai một
và phần nào không còn phù hợp với xã hội hiện đại. Sự tác động mạnh mẽ của
cơ chế thị trường tới gia đình đã làm cho lối sống, nếp sống, các mối quan hệ
trong gia đình và đặc biệt việc thực hành đạo Hiếu của từng cá nhân trong
mỗi gia đình thay đổi theo nhiều hướng khác nhau. Những nét đẹp mới của
gia đình hiện đại như vai trò bình đẳng, tính chủ động, tích cực của các thành
viên trong gia đình, chức năng gia đình được xã hội hoá và nâng cao, góp
phần tích cực vào sự phát triển của xã hội… Bên cạnh đó, xuất hiện nhiều

hiện tượng suy thoái về đạo đức, văn hoá gia đình như: cha mẹ vô trách
nhiệm, đối xử tàn ác với con cái; con cái ngược đãi ông bà, cha mẹ; anh em
bất hoà; vợ chồng mâu thuẫn… khiến các giá trị gia đình bị xâm phạm nặng
nề, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển của mỗi cá nhân cũng như toàn
xã hội.
Vấn đề khôi phục và xây dựng gia đình theo đạo Hiếu truyền thống của
Nho giáo đang là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm vì gia
đình phát triển bền vững không chỉ là niềm hạnh phúc cho mỗi người, mỗi
nhà mà còn là nhân tố quan trọng góp phần giữ gìn sự phát triển lành mạnh,
an toàn của xã hội và sự ổn định dân số của quốc gia. Vì vậy, tại Đại hội XI
của Đảng, vấn đề vai trò của gia đình và xây dựng gia đình văn hóa trong thời
kỳ mới được Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh và làm sâu sắc hơn. Trên cơ sở đó,
tôi chọn đề tài: “Quan niệm “Hiếu” trong Nho giáo với việc xây dựng gia
đình văn hóa tại thành phố Đà Nẵng hiện nay” làm đề tài cho luận văn thạc sĩ
của mình.


3
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu nội dung tư tưởng về Hiếu trong Nho giáo và
ảnh hưởng của nó đối với đời sống văn hóa gia đình ở Đà Nẵng, từ đó đề xuất
các kiến nghị và giải pháp cơ bản để kế thừa những giá trị và loại bỏ mặt hạn
chế của tư tưởng Hiếu của Nho giáo trong quá trình xây dựng gia đình văn
hóa ở Đà Nẵng hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ
sau:
Thứ nhất, trình bày nội dung cơ bản của tư tưởng về Hiếu trong Nho
giáo và vai trò của tư tưởng đó đến xã hội.

Thứ hai, phân tích sự biến đổi quan niệm về Hiếu trong Nho giáo đối
với xã hội Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói riêng.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy ảnh hưởng tích
cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng Hiếu của Nho giáo trong quá
trình xây dựng gia đình văn hóa ở Đà Nẵng hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung làm rõ tư tưởng Hiếu trong Nho giáo và ảnh hưởng
của nó trong xây dựng gia đình văn hóa ở Đà Nẵng.
Trong phạm vi luận văn thạc sĩ, đề tài được giới hạn trong việc nghiên
cứu nội dung tư tưởng Hiếu của Nho giáo; sự biến đổi của tư tưởng Hiếu
trong Nho giáo ở Việt Nam và ảnh hưởng của nó trong quá trình xây dựng gia
đình văn hóa ở Đà Nẵng hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp với một số


4
phương pháp cụ thể như: lịch sử và logic, phân tích và tổng hợp, hệ thống, so
sánh, đối chiếu, quy nạp, diễn dịch, kết hợp lý luận với thực tiễn… để trình
bày những vấn đề đặt ra trong luận văn
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo; luận văn bao gồm 3
chương và 7 tiết.
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Trong xã hội phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng gia đình
luôn giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Gia đình là nền tảng, là hạt nhân, là tế
bào của sự phát triển xã hội. Nho giáo cho rằng phải chính tâm, tu thân, tề gia
sau đó mới trị quốc và bình thiên hạ. Muốn tề gia trước hết phải thực hiện đạo
Hiếu. Hiếu là một trong những nội dung cơ bản của Nho giáo, được hầu hết

các nhà nho quan tâm và giáo dục. Đặc biệt, Khổng Tử và Mạnh Tử cho rằng
Hiếu có vị trí quan trọng trong xã hội, là đạo đức cơ bản của người quân tử.
Hiếu được đề cập đến rất nhiều trong các sách kinh điển của Nho giáo như
Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử; đặc biệt cuốn Hiếu kinh được coi
như cuốn kinh về đạo Hiếu của Nho gia.
Ở Việt Nam, cũng có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu về vấn đề này,
và cũng có rất nhiều các công trình đã được công bố rộng rãi và nghiên cứu
trong các trường Đại học và Viện nghiên cứu như:
Công trình Chu dịch quốc âm dẫn giải và Khổng học đăng, nhà xuất
bản Văn hóa thông tin, Hà Nội, năm 1998 là những tác phẩm bàn về Nho giáo
của Phan Bội Châu, một đại diện lớn nhất cho thế hệ các nhà Nho yêu nước
đầu thế kỷ XX. Ở những tác phẩm này Phan Bội Châu đã từ vị trí một nhà
Nho có tư tưởng tiến bộ mà giải thích những kinh điển chủ yếu của Nho giáo.
Phan Bội Châu đã sớm nhận ra nhiều điểm hạn chế của đạo Hiếu trong Nho
giáo đã trói buộc bao thế hệ các thanh niên trong việc thực hiện “trung quân,


5
ái quốc”. Đặc biệt, trong Khổng học đăng ông đã giải thích rõ động cơ, mục
đích và cả phương pháp học tập đạo thánh hiền hướng theo tinh thần trung
quân, ái quốc, giải phóng con người khỏi những suy nghĩ và khuôn khổ hạn
hẹp của đạo Hiếu.
Cuốn Nho giáo của Trần Trọng Kim, Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh,
năm 1990 là một tác phẩm khá đồ sộ nghiên cứu một cách có hệ thống về
Nho giáo. Trong tác phẩm này đã phân tích rất kỹ các học thuyết trong tư
tưởng của Khổng Tử; đặc biệt là hai phần Hình nhi thượng học (là cái học về
phần huyền diệu) và Hình nhi hạ học (là cái học về phần đời) được Trần
Trọng Kim quan tâm làm rõ. Đồng thời trong tác phẩm này ông cũng khẳng
định học Nho giáo là phải hiểu cái tinh thần và nghĩa lý của Nho giáo, phải
theo thời mà biến đổi cho hợp thời.

Cuốn Nho giáo Trung Quốc của tác giả Nguyễn Tôn Nhan xuất bản
năm 2005 của Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội có thể được coi là bộ
Nho giáo lớn nhất Việt Nam cho đến thời điểm này (dày gấp bốn lần cuốn
Nho giáo của Trần Trọng Kim). Trong cuốn sách này tác giả chủ yếu đưa ra
những kiến giải về Nho giáo nghiêng về phần “giáo” (tông giáo và giáo hóa)
hơn là phần “học” như trong cuốn Nho giáo của tác giả Trần Trọng Kim.
Chính vì thế tác phẩm này đã nêu bật lên được “chân diện mục” tông giáo của
Nho giáo về phương diện tế lễ, nghi thức và lối sống của Nho giáo trong quá
trình lịch sử ở Trung Quốc (và Việt Nam). Ở bộ sách này, Nguyễn Tôn Nhan
cũng đã viết đến giai đoạn cuối cùng của Nho giáo khi Nho giáo chấm dứt
nhiệm vụ lịch sử của mình (chương “Nho giáo và thắng lợi của khoa học”).
Sách Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam của GS. Phan Đại Doãn,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1999, đề cập đến một số vấn đề
cơ bản của Nho giáo ở Việt Nam, trong đó GS phân tích ảnh hưởng của Nho
giáo đối với gia đình truyền thống Việt Nam tương đối sâu sắc.


6
Nho giáo và gia đình của GS. Vũ Khiêu, Nhà xuất bản Khoa học Xã
hội, Hà Nội, năm 1995, phân tích các tư liệu Nho giáo bàn về gia đình một
cách khá toàn diện và chi tiết.
Ngoài ra còn phải kể đến một số tác phẩm tiêu biểu khác như: Nguyễn
Đăng Duy với Nho giáo với văn hoá Việt Nam, Nxb Hà Nội,1998; Quang
Đạm với Nho giáo xưa và nay, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1999; Thanh
Lê với Xã hội học gia đình, Nxb Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, 2002;
Nguyễn Thế Long với Gia đình và dân tộc, Nxb Lao động, Hà Nội, 1999; Lê
Minh với Văn hóa gia đình Việt Nam và sự phát triển xã hội, Nxb Lao động,
Hà Nội, 1994; Nguyễn Thị Nga, Hồ Trọng Hoài với Quan niệm của Nho giáo
về giáo dục con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; Nguyễn Tài
Thư với Nho học và Nho học ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997… đã ít nhiều bàn sâu các góc cạnh của
chữ Hiếu.
Bên cạnh đó, nhiều luận án tiến sỹ cũng bàn về Nho giáo và gia đình ở
những khía cạnh khác nhau, tiêu biểu là: Quan niệm Nho giáo về các mối
quan hệ xã hội, ảnh hưởng và ý nghĩa của nó đối với xã hội ta ngày nay, Luận
án Tiến sỹ Triết học: 5.01.01/Nguyễn Văn Bình - H, 2001 (Thư viện quốc
gia); Quan niệm Nho giáo về giáo dục con người và ý nghĩa của nó với việc
giáo dục con người ở Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
Luận án Tiến sỹ Triết học: 5.01.02/Nguyễn Thị Nga - H, 1999 (Thư viện quốc
gia)…
Ngoài ra, rất nhiều các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học cũng đề
cập đến vấn đề này như: Nguyễn Tài Thư với Nho giáo, những tranh luận và
vấn đề đặt ra, Tạp chí Triết học, số 1 năm 1982; Nguyễn Tài Thư với Truyền
thống Nho học và việc xây dựng con người trong giai đoạn mới, Tạp chí Cộng
sản, số 2 năm 1998; Nguyễn Thị Thọ với Từ đạo hiếu truyền thống, nghĩ về


7
đạo hiếu ngày nay, Tạp chí Triết học, số 6 năm 2007; Triệu Quang Minh,
Trần Thị Lan Hương với Giá trị nhân văn trong quan niệm về hiếu đạo của
Nho giáo nguyên thủy, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5 năm 2010;
Nguyễn Thế Kiệt với Tìm hiểu tư tưởng đức trị trong Nho giáo, Tạp chí
Nghiên cứu lý luận, số 10 năm 1999; Phan Mạnh Toàn với Lễ giáo Nho gia
phong kiến với vấn đề xây dựng gia đình ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết
học, số 3 năm 2011; Nguyễn Thị Thủy với Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo
đối với đạo đức mới Việt Nam, Tạp chí Triết học, số 1 năm 2012; Hoàng Thu
Trang với Quan niệm của Nho giáo về “Hiếu” và ảnh hưởng của quan niệm
đó trong đời sống gia đình ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Khoa học xã hội
Việt Nam, số 9 năm 2013.
Các công trình nêu trên đã góp phần bàn đến các khía cạnh khác nhau

của vấn đề cần nghiên cứu. Những thành tựu nghiên cứu và những gợi ý của
các tác giả nói trên là những tài liệu tham khảo quý báu để công trình này
được hoàn thành.


8
CHƯƠNG 1

QUAN ĐIỂM CỦA NHO GIÁO VỀ “HIẾU”
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức ra đời trong thời Xuân
Thu chiến quốc, là giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội Trung Hoa cổ
đại trong quá trình chuyển biến sang xã hội phong kiến, kéo dài từ thế kỷ thứ
VII trước Công nguyên đến thế kỷ thứ III trước Công nguyên. Trong Sử ký,
Tư Mã Thiên miêu tả thời kỳ này là thời đại “vương đạo suy vi”, “bá đạo”
cường thịnh, lấn át “vương đạo”, chế độ tông pháp của nhà Chu bị đảo lộn,
đạo lý nhân luân suy đồi “vua không phải đạo vua, tôi không phải đạo tôi, cha
không phải đạo cha, con không phải đạo con” (quân bất quân, thần bất thần,
phụ bất phụ, tử bất tử) [Dẫn theo: 78, tr.28]. Trước bối cảnh xã hội như vậy,
các nhà tư tưởng có tâm huyết đua nhau tìm kiếm nguyên nhân và đưa ra các
giải pháp nhằm ổn định trật tự xã hội. Đây là thời kỳ tư tưởng Triết học Trung
Quốc phát triển nở rộ, nhiều triết thuyết xuất hiện như: Nho gia, Pháp gia,
Mặc gia, Đạo gia… Người ta gọi đó là thời kỳ “bách hoa đề phóng, bách gia
tranh minh” (trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng). Trong số đó Nho giáo là
một trong những học thuyết có sức sống lâu dài nhất. Các triều đại phong kiến
Trung Quốc đều xem Khổng Tử là người thầy của muôn đời “Vạn thế sư
biểu”. Khổng Tử cho rằng: xã hội loạn lạc là bởi con người “vô đạo”, cho nên
cần phải đưa con người trở về “hữu đạo” bằng con đường giáo hóa. “Đạo
hiếu” là một trong những phạm trù đạo đức cơ bản của Nho giáo để giáo hóa
con người góp phần ổn định trật tự xã hội.
1.1. VỊ TRÍ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN VỀ “HIẾU” TRONG LỊCH SỬ NHO

GIÁO
1.1.1. Vị trí của Hiếu trong xã hội
Nho giáo là học thuyết chính trị, đạo đức chủ trương dùng lễ trị, đức trị


9
để quản lý xã hội. Trong Nho giáo, gia đình có một sức mạnh và vai trò rất
lớn đối với mỗi con người, nó chế định những sợi dây ràng buộc con người
một cách chặt chẽ. Coi vấn đề tề gia là gốc của nước và thiên hạ, muốn trị
nước trước hết phải giữ yên được nhà nên Nho giáo luôn cố gắng tìm cách
xây dựng gia đình, gia tộc thành những bức tường mạnh mẽ. Lễ giáo Nho
giáo quy định một cách chặt chẽ các mối quan hệ giữa người với người, trong
đó những quan hệ cơ bản nhất là tam cương và ngũ luân (Vua - tôi, cha - con,
vợ - chồng, anh - em, bạn - bè), trong các mối quan hệ đó thì đã có ba mối
quan hệ trong gia đình.
Hiếu là một phạm trù đạo đức cơ bản ở trong xã hội, là tiêu chuẩn để
đánh giá nhân cách của mỗi cá nhân con người bên cạnh Nhân, Lễ, Trung,
Tín… Trong học thuyết Nho giáo, Hiếu không chỉ là trách nhiệm mà còn là
phẩm chất lớn nhất của đạo làm con, làm người. Trong đạo đức Nho giáo, có
thể nói, không có một triết lý đạo đức nào có sức ảnh hưởng rộng lớn như chữ
Hiếu. Nó không chỉ có ý nghĩa về mặt luân lý, là tiêu chí chuẩn mực của đạo
đức xã hội mà còn có ý nghĩa về mặt chính trị và quy phạm pháp luật. Nho
gia rất coi trọng chữ Hiếu, vì vậy sách Luận Ngữ có viết: “Kẻ đệ tử khi vào
thì hiếu với cha mẹ; khi ra thì kính anh chị và người lớn tuổi” [6, tr.7]. Điều
đó có nghĩa là các nhà nho rất coi trọng lễ tiết, các chuẩn mực đạo đức của
mỗi cá nhân trong mối quan hệ với gia đình và với xã hội. Theo truyền thuyết
Trung Hoa, chữ Hiếu “lấy căn nguyên từ đức của Nghiêu Thuấn”. Học trò
Khổng Tử đã rất nhiều lần thỉnh giáo thầy mình về đạo Hiếu, vì đạo Hiếu là
một sản phẩm của luân lý xã hội, một phạm trù đạo đức tốt đẹp, là thước đo
nhân cách của mỗi người. Cho nên muốn được coi là bậc quân tử đại trượng

phu thì phải hiểu và thực hành đạo Hiếu. Đến thời Hán, khi cơ cấu bộ máy
nhà nước cai trị đã hoàn thiện, lễ chế được ban hành, thì đạo Hiếu được áp
dụng như một trong những chuẩn mực quan trọng của đạo đức xã hội.


10
Hiếu là một trong những khái niệm chủ yếu trong triết học cũng như
trong đạo đức Nho giáo dùng để chỉ một trong những đức tính căn bản của
con người. Theo nghĩa hẹp: “Hiếu” là sự hiếu thuận của con cái đối với cha
mẹ, đó là lòng kính yêu, phụng dưỡng cha mẹ, vâng theo di huấn của tổ
tiên… Hiếu theo nghĩa hẹp bao gồm Hiếu và Đễ, Hiếu tức là lòng yêu thương,
kính trọng đối với cha mẹ, còn Đễ tức là lòng kính yêu đối với anh chị. Trong
Luận ngữ sớ chứng, Dương Thụ Đạt giải thích rằng: “Yêu kính cha mẹ, đó là
hiếu; tôn kính anh chị, đó là đễ” [Dẫn theo: 70, tr.116]. Còn theo nghĩa rộng,
Hiếu là lòng kính yêu giữa người với người trong xã hội, bao gồm lòng hiếu
của trẻ đối với già, của kẻ dưới với người trên, lòng trung của tôi thần với
quân vương, của dân đối với nước. Hiếu không chỉ là tình yêu thương trong
gia đình mà còn được mở rộng ra đến quốc gia, rồi đến toàn thể nhân loại và
thế giới đại đồng; từ yêu mến và tôn kính người thân trong gia đình, đến yêu
mến muôn loài. Tuy nhiên, từ yêu kính người thân trong gia đình đến yêu
kính mọi người trong xã hội đều bắt nguồn từ tình cảm giữa những người thân
ở trong gia đình, chính vì thế Khổng Tử từng cho rằng “Hiếu đễ với cha mẹ,
kính trọng anh chị là gốc của nhân đức”. Như vậy, Hiếu không chỉ được coi là
một trong những đức tính, tình cảm, lễ tiết của con người, mà còn là biểu hiện
của thiên tính trong đạo sống của con người. Đặc biệt, học thuyết Nho giáo rất
coi trọng giáo dục trong gia đình, từ giáo dục gia đình tác động và ảnh hưởng
đến đạo đức xã hội.
Trong lịch sử văn hóa phương Đông nói chung và học thuyết Nho giáo
nói riêng, Hiếu là một phạm trù lớn, chứa đựng nhiều nội dung sâu sắc và có
sức ảnh hưởng rộng lớn tới mọi mặt trong đời sống xã hội của con người.

Trong kho tàng văn hiến cổ của Trung Quốc thì Ngũ kinh được xem là tác
phẩm cổ nhất, ở đó đã cho thấy nhiều tư tưởng có giá trị về Hiếu. Kinh Thi,
một trong những bản kinh cổ xưa của Nho giáo cho rằng Hiếu đạo là cơ sở


11
thiết lập, mở đầu văn hóa tình người một cách thiết thực mà ai cũng có thể
cảm nhận: “Phụ hề sinh ngã, mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu sinh ngã cù lao,
dục báo thâm ân, hiệu thiên võng cực” (Cha sinh ta ra, mẹ bồng bế ta, thương
thay cha mẹ, sinh ta khó nhọc, muốn báo đáp ân sâu, khác nào trời cao khôn
lường) [49, tr.30]. Rõ ràng, cội rễ văn hóa con người được kết tinh bằng tình
thương cha mẹ dành cho con cái, tình yêu thương đó được khái quát trong
chín chữ “cù lao”: Sinh (đẻ ra); Cúc (nâng đỡ); Phủ (vuốt ve); Súc (nuôi cho
bú mớm); Trưởng (nuôi cho khôn lớn); Dục (dạy dỗ); Cố (trông nom); Phục
(xem tính tình mà bảo ban) và Phúc (bảo vệ). Nhờ đó mà con cái được sinh
ra, được nuôi dưỡng và yêu thương trong vòng tay của mẹ, được sự giáo
dưỡng nghiêm khắc của cha mà vững bước đi vào đời. Cho nên, chương đầu
của Hiếu kinh ghi nhận: Hiếu là căn bản của đức, giáo hóa từ chữ hiếu mà ra.
Bước đầu của đạo hiếu là phải giữ mình.
Nho giáo có chủ đích rõ ràng trong việc xây dựng những quan hệ chặt
chẽ trong gia đình và phát triển chúng thành những quan hệ trong toàn xã hội,
trong việc xây dựng những tình cảm và đức tính tốt trong gia đình, từ đó vun
đắp chúng trở thành những tình cảm và đức tính tốt trong đạo thờ vua, trị
nước. Vì thế, Nho giáo rất coi trọng việc giáo dục trong gia đình. Đó là trường
học đầu tiên để giáo dục con người đi vào xã hội. “Người quân tử thân cận
với cha mẹ bà con mình, kế cư xử có nhân với người đời” (Thân thân, nhi
nhân dân) [6, tr.253]. Cũng vì vậy, muốn đánh giá được phẩm chất của một
người ở ngoài xã hội, muốn xem có nên cân nhắc và sử dụng họ hay không,
trước tiên ta phải xem tư cách, thái độ của người ấy trong gia đình ra sao. Có
đối xử tốt với gia đình mới có thể đối xử tốt ở ngoài xã hội. Thật vậy, một

người có hiếu với cha mẹ thì mới có sự liên hệ thân thiện với những người
xung quanh. Nói rộng ra, một người có lòng hiếu kính với cha mẹ, dòng họ
trong gia đình thì mới có thể làm việc lớn ở ngoài xã hội. Sách Đại học đã


12
từng dạy:
Như mình có nết hiếu với cha mẹ, là để mở rộng cái nết đó ra mà
thờ vua (quốc trưởng); mình có nết đễ với anh, là để mở rộng cái nết đó
ra mà kính bậc quan trưởng; mình có cái đức từ với con cháu, là để mở
rộng cái đức đó mà sai khiến chúng dân (Hiếu giả sở dĩ sự quân giã; đễ
giả sở dĩ sự trưởng giã; từ giả sở dĩ sự chúng giã) [6, tr.23].
Từ đó Nho giáo khẳng định rằng, sự giáo dục từ trong gia đình có tác
động mạnh mẽ, thậm chí quyết định sự thành công trong trị nước.
Đánh giá học thuyết Nho giáo về chữ Hiếu, Tôn Trung Sơn cho rằng:
“So với các dân tộc khác, quan niệm về hiếu của dân tộc ta đã tiến bộ hơn họ
rất xa... Bởi vậy, chỉ nói đối với vấn đề hiếu, mặc dù là những nước vǎn minh
nhất trên thế giới ngày nay, không có một quốc gia nào mà người dân của họ
có được một khái niệm hoàn toàn giống như đồng bào ta. Như vậy vấn đề
hiếu càng phải được bảo tồn” [Dẫn theo: 30, tr.97].
1.1.2. Quan niệm về Hiếu trong lịch sử phát triển của Nho giáo
Nho giáo là một học thuyết chính trị - xã hội của Trung Quốc ra đời
vào thời kỳ Xuân thu - Chiến quốc do Khổng Tử (551 - 479 tr.CN) sáng lập
nên. Chữ Nho bắt nguồn từ chữ Nhân (nghĩa là người), đứng bên chữ Nhu
(nghĩa là cần dùng, chờ đợi). Như vậy, Nho là những người học thông đạo lý
của Thánh hiền, hiểu biết được lẽ Trời đất và Người; là những người hướng
dẫn mọi người phải ăn ở và cư xử thế nào cho hợp với đạo Trời, hợp với lòng
người. Quá trình hình thành phát triển của Nho giáo, từ thời Xuân thu - Chiến
quốc đến thời kỳ phong kiến có thể khái quát thành ba giai đoạn chính: Giai
đoạn thứ nhất là Nho giáo nguyên thủy (hay còn gọi là Nho giáo thời kỳ Tiên

Tần; Nho giáo Khổng - Mạnh) từ thế kỷ VI đến thế kỷ III tr.CN; giai đoạn
phát triển thứ hai là Nho giáo thời kỳ Lưỡng Hán từ thế kỷ III tr.CN đến đầu
thế kỷ III sau CN và giai đoạn phát triển thứ ba là Nho giáo thời kỳ Tống -


13
Thanh - Minh từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII. Tư tưởng của Nho giáo được thể
hiện trong các tác phẩm được coi là kinh điển của Nho học đó là Tứ thư gồm:
Luận ngữ, Trung dung, Đại học, Mạnh tử và Ngũ kinh gồm: Kinh Dịch, Kinh
Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Xuân thu với nhiều nội dung quan trọng như
Nhân, Lễ, Nghĩa, Chính danh…
Trong học thuyết Nho giáo, Hiếu là một phạm trù lớn, chứa đựng nhiều
nội dung thâm thúy, ý nghĩa sâu xa và có nhiều ảnh hưởng đến những phạm
trù khác về đạo đức và cuộc sống con người ở trong xã hội.
Sự hình thành và phát triển của Nho giáo nguyên thủy gắn liền với tên
tuổi của người sáng lập là Khổng Tử và hai nhà tư tưởng lớn là Mạnh Tử và
Tuân Tử, cho nên Nho giáo thời kỳ này còn được gọi là Nho giáo Khổng Mạnh. Nho giáo Khổng - Mạnh đặc biệt đề cao chữ Hiếu và quan tâm đến vấn
đề giáo dục đạo Hiếu trong gia đình. Một trong các kiến giải đặc sắc của Nho
giáo Khổng - Mạnh về đạo đức là nội dung về Hiếu, Khổng Tử xem Hiếu là
gốc của Nhân, hạt nhân của Đức, xếp Hiếu đứng đầu trăm nết. Quan niệm
của Khổng Tử là với mỗi cá nhân muốn có chữ Hiếu phải tuân thủ nghiêm
ngặt các quy tắc, chuẩn mực đạo đức của gia đình, gia tộc, tuân theo nề nếp
gia phong “kính trên nhường dưới”.
Điều cơ bản trong tư tưởng về Hiếu của Nho giáo Tiền Tần đó là Hiếu
phải tuân theo lễ, “Hễ làm con, khi cha mẹ còn sống, phải phụng sự cho có lễ,
khi cha mẹ mãn phần, phải chôn cất cho có lễ; rồi những khi cúng tế, cũng
phải giữ đủ lễ phép nghiêm trang” (Sanh, sự chi dĩ lễ; tử, táng chi dĩ lễ; tế chi
dĩ lễ) [6, tr.17]. Khổng Tử quan niệm rằng “hiếu thuận” là một lễ tiết, nhưng
là lễ tiết quan trọng nhất, cơ bản nhất trong cuộc sống của mỗi con người và
của cả xã hội. Mỗi người sống trong xã hội đều tuân theo rất nhiều lễ khác

nhau: lễ với bạn bè, lễ với làng xóm, lễ với bề trên… Nhưng lễ với cha mẹ là
giáo lý đầu tiên và quan trọng nhất, vì cha mẹ là bậc thân sinh có công dưỡng


14
dục chúng ta thành người, cho nên trong mọi mối quan hệ về lễ phải đặt mối
quan hệ với cha mẹ lên hàng đầu. Lễ với cha mẹ được gọi là Hiếu thuận. Như
vậy, có thể thấy Hiếu là khái niệm cơ bản trong tư tưởng của Khổng Tử, và đó
cũng có thể được coi là đạo lý cơ bản nhất mà Khổng Tử khởi xướng. Khổng
Tử từng nói về chí hướng của mình cho các học trò hiểu rõ. Chí hướng đó là
“người già phải được sống yên ổn, bạn bè phải tin cậy, con cái nhớ thương”
[70, tr.321].
Như vậy, đạo Hiếu mà Nho giáo thiết lập có tác động vào quá trình
hình thành và phát triển văn hóa con người trên mọi lĩnh vực. Có thể thấy tư
tưởng Hiếu trong Nho giáo nguyên thủy của Khổng Tử và Mạnh Tử mang
tính nhân văn khá sâu sắc. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử và Tuân Tử đều đòi
hỏi nghĩa vụ đạo đức trong gia đình phải mang tính hai chiều. Mạnh Tử dạy
các học trò rằng:
Khi cha mẹ phạm lỗi lầm lớn mà mình chẳng tỏ ý oán trách, đó là
mình coi cha mẹ như người dưng kẻ lạ, lúc cha mẹ phạm lỗi nhỏ mà
mình đem lòng oán hận thì đó là mình chẳng dằn nổi sự bất bình sơ sài.
Coi cha mẹ như người dưng kẻ lạ hay chẳng dằn nổi sự bất bình sơ sài
cũng đều là bất hiếu (Thân chi quá đại nhi bất oán, thị dũ sơ giã. Thân
chi quá tiểu nhi oán, thị bất khả cơ giã. Dũ sơ, bất hiếu giã, bất khả cơ,
diệc bất hiếu giã) [5, tr.184].
Theo quan điểm này, thì Hiếu không phải là con cái lúc nào cũng phải
nhất nhất nghe theo lời của cha mẹ, mà những lúc cha mẹ sai trái phận làm con
phải nhẹ nhàng khuyên giải tránh để cho cha mẹ đi vào con đường sai lầm, làm
tổn hại đến danh dự và uy tín của cha mẹ. Tuy nhiên, khi khuyên giải thì người
con phải giữ thái độ đúng mực, khuyên giải theo lễ chứ không được tỏ ý oán

tránh hay oán giận cha mẹ. Như vậy, theo quan điểm này có thể thấy rằng,
Hiếu trong Nho giáo thời kỳ này mang tính chất mềm dẻo, linh hoạt; đồng thời


15
yêu cầu trách nhiệm từ cả hai phía cha mẹ và con cái. Đó là quan hệ 2 chiều, có
tính dân chủ chứ không khắc nghiệt như ở thời kỳ sau này.
Nho giáo thời Hán phát triển gắn với tên tuổi của Đổng Trọng Thư (179
- 104 tr.CN), ông được coi là đại diện tiêu biểu cho Nho giáo thời kỳ này. Dưới
thời Hán Vũ Đế, Đổng Trọng Thư đã tiến hành việc lựa chọn, sắp xếp lại các
sách vở kinh điển cổ của Nho giáo và phân thành năm loại, đó là: Kinh thi,
Kinh thư, Kinh lễ, Kinh dịch, Kinh xuân thu và được gọi là Ngũ kinh. Từ đây,
Ngũ kinh trở thành “thánh kinh” của Nho giáo, tạo nên hình thái mới của Nho
học. Đây được coi là giai đoạn phát triển lớn thứ hai của Nho giáo, trở thành hệ
tư tưởng thống trị và chuẩn mực đạo đức ở trong xã hội. Đổng Trọng Thư tự
coi mình là người tiếp tục tư tưởng của học phái Nho gia, nhưng thực tế ông đã
tiếp thu và khuyếch trương những yếu tố duy tâm trong triết học Khổng Mạnh, kết hợp với chủ nghĩa thần bí trong thuyết Âm dương ngũ hành để xây
dựng nên một học thuyết mang đậm màu sắc chính trị duy tâm thần bí và khắc
nghiệt. Học thuyết này được coi là hệ tư tưởng chính thống, là khuôn mẫu đạo
đức xã hội của các triều đại phong kiến Trung Quốc sau này.
Đổng Trọng Thư đã khái quát các phạm trù đạo đức của Khổng - Mạnh
thành hệ thống các phạm trù đạo đức - chính trị và trở thành nguyên tắc đạo
đức - chính trị cơ bản của xã hội phong kiến, đó là thuyết Tam cương, ngũ
thường, ngũ luân. Tam cương là ba giềng mối chính trong quan hệ xã hội gồm
“quân vi thần cương”, “phụ vi tử cương”, “phu vi thê cương”. Mở rộng tam
cương ra thì thành ngũ luân, tức năm loại trật tự thứ bậc trong xã hội gồm:
vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè. Ngũ thường là năm đức tính cần
phải có của con người và là năm điều quy phạm luân lý đạo đức trong xã hội
phong kiến đó là: nhân, lễ, nghĩa, trí và tín. Các quan điểm đó tuy được Đổng
Trọng Thư khái quát và phát triển từ Nho giáo Khổng - Mạnh nhưng ông lại

kết hợp với quan điểm duy tâm và thần học đã làm cho các mối quan hệ trong


16
tam cương, ngũ thường trở nên cực đoan, phiến diện và mang nặng tính chất
gia trưởng. Trong thuyết tam cương, Đổng Trọng Thư cho rằng vua là biểu
hiện cho khí dương, tôi là biểu hiện cho khí âm, cho nên vua là cương của tôi,
tôi là hợp của vua; cha là biểu hiện của khí dương, con là biểu hiện của khí
âm, cho nên cha là cương của con, con là hợp của cha; chồng là biểu hiện cho
khí dương, vợ là biểu hiện cho khí âm, cho nên chồng là cương của vợ, vợ là
hợp của chồng [9, tr.492].
Với quan niệm về Hiếu, Đổng Trọng Thư và các nhà nho thời kỳ này
rất đề cao chữ Hiếu. Bên cạnh đó còn mở rộng chữ Hiếu tới mức coi tất cả
mọi hành vi đạo đức trên thế giới đều lấy đạo Hiếu làm trung tâm. Đồng thời
coi Hiếu như một công cụ về đạo đức để áp đặt quyền lực của giai cấp thống
trị lên toàn xã hội, đặt con người trong sự quy định khắt khe đến mức khắc
nghiệt của tam cương, ngũ thường. Chính vì thế quan niệm Hiếu trong giai
đoạn này mang tính chất phiến diện, một chiều cực đoan; đòi hỏi trách nhiệm
và sự phục tùng tuyệt đối vô điều kiện từ một phía. Đó là trách nhiệm và sự
phục tùng tuyệt đối của con cái đối với cha mẹ, cho dù cha mẹ có sai trái con
cái cũng không được phép cưỡng lại; sau đó mở rộng ra là trung thành tuyệt
đối với thiên tử (vua), mặc dù vị vua đó có là hôn quân vô đạo thì bậc tôi
trung vẫn phải tuyệt đối trung thành. Do vậy, Trung, Hiếu của Nho giáo thời
kỳ này được đẩy đến mức thành ngu Trung, ngu Hiếu.
Tiếp nối Nho học thời Hán của Đổng Trọng Thư, đồng thời để duy trì
và củng cố nền thống trị phong kiến tập quyền, giai cấp thống trị đời Tống Minh và đầu nhà Thanh đã chủ trương độc tôn Nho học, coi Nho học là hình
thái ý thức quan trọng của xã hội phong kiến thời kỳ Tống - Minh - Thanh.
Nho giáo thời Tống được bổ sung thêm phần bản thể luận triết học trên lập
trường duy tâm, có sự pha trộn của tam giáo: Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo
và kế thừa những tư tưởng đặc sắc của triết học thời cổ đại, được phân thành



17
hai phái: phái Lý học có Chu Hy (1130 - 1200) và Trình Hạo (1032 - 1085),
Trình Di (1033 - 1107) là đại diện, còn phái Tâm học do Lục Cửu Uyên (1139
- 1193) đại diện.
So với các thời kỳ trước, chữ Hiếu trong Nho giáo thời kỳ này thường
bị lẫn lộn với Trung nên đã làm cho tư tưởng về đạo Hiếu của Nho giáo sơ kỳ
méo mó đi ít nhiều. Chu Hy thời Tống giải thích rằng, “nếu người bề trên người cầm quyền cai trị mà hiếu với cha mẹ, nhân từ với dân thì dân trung
thành với mình” (Hiếu từ, tắc trung) [65, tr.255]. Quan niệm về Hiếu của
Tống Nho ngày càng trở nên phiến diện, cứng nhắc, chỉ nhấn mạnh một chiều
- trách nhiệm và nghĩa vụ của con cái đối với cha mẹ như thế nào, mà không
cần nói đến sự đối xử của cha mẹ đối với con cái. Vì vậy, nên giữa hai thế hệ
nảy sinh xung khắc thì đương nhiên trách nhiệm phải thuộc về con cái. Hiếu
trở thành sự phục tùng vô điều kiện mà không cần có cơ sở lý tính. Con cái
phải tuyệt đối vâng lời cha mẹ một cách máy móc “cha bắt con chết mà con
không chết là bất hiếu” (phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu); “trong thiên hạ
không có cha mẹ nào không đúng” để rồi dẫn đến “cha không nhân từ nhưng
con không thể không hiếu”, một cách cực đoan.
Như vậy, Nho giáo đã dựa vào Hiếu đễ nói về đạo đức và yêu cầu tất cả
mọi người trong xã hội đều phải thực hiện theo đạo Hiếu của Nho giáo. Tuy
nhiên, càng về sau thì quan niệm về Hiếu trong Nho giáo càng bị hạn chế do
tính chất bảo thủ của chế độ phong kiến đã bó buộc con người trong các mối
quan hệ hết sức khắt khe của tam cương, ngũ thường.
1.2. NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG QUAN ĐIỂM “HIẾU” CỦA NHO
GIÁO
1.2.1. Hiếu là gốc của Nhân, là nết đầu trong trăm nết
Trong các phạm trù đạo đức của Nho giáo thì Nhân giữ vai trò là trung
tâm. Từ Nhân mà phát sinh, hình thành nên các đức khác và các đức đó lại



18
quy tụ trở về với Nhân. Theo Khổng Tử thì đức chính của đạo trời chính là
Nhân, bao trùm hết cả vạn sự, vạn vật trong vũ trụ. Con người phải theo thiên
đạo mà cư xử, cho nên Nhân cũng là đức chính của con người. Về phương
diện lý luận, thì Nhân là cái đức chung của mọi người đối với nhau; về
phương diện đạo đức thì Nhân chính là lòng thương người, yêu người. Lòng
thương người đó trước hết phải được thể hiện từ trong phạm vi gia đình, sau
đó mới mở rộng ra họ hàng, làng, nước. Trong gia đình nổi lên hai mối quan
hệ cơ bản, đó là: quan hệ giữa con cái đối với cha mẹ (Hiếu) và quan hệ giữa
em với anh (Đễ). Mọi tư tưởng của Nho giáo đều lấy Hiếu đễ và lễ nhạc làm
nền tảng cơ sở cho sự giáo hóa, coi Nhân là chuẩn mực cao nhất của đạo đức
con người.
Nho giáo luôn đề cao và yêu cầu mọi người phải có Hiếu với cha mẹ,
tôn kính anh chị, và coi đó là gốc rễ của Nhân, cho nên Khổng Tử đã từng nói
“hiếu đễ với cha mẹ, kính trọng anh chị là cốt lõi của nhân đức” [Dẫn theo:
70, tr.117], nên người có Nhân phải có đức Hiếu đễ - nuôi dưỡng và thành
kính với cha mẹ, có lòng kính yêu cha mẹ và người lớn trong nhà thì mới biết
kính yêu người ngoài. Mạnh Tử nói rằng: “Chỗ đích thực của nhân là thờ cha.
Chỗ đích thực của nghĩa là kính anh. Chỗ đích thực của trí là biết rõ hai việc
thờ cha kính anh và chẳng hề bỏ bê hai việc ấy” (Nhân chi thật, sự thân thị
giã. Nghĩa chi thật, tùng huynh thị giã. Trí chi thật, tri tư nhị giã, phất khử thị
giã) [5, tr.34]. Một người không thể coi là có lòng Nhân khi không thực hiện
việc thờ cha và kính anh, chính vì thế trước khi thực hành Nhân thì trước hết
con người phải thực hành Hiếu và Đễ.
Bàn về vấn đề này Hữu Tử (Hữu Nhược), học trò của Khổng Tử cũng
cho rằng:
Trong những người có nết hiếu (thảo với cha mẹ), nết đễ (kính anh
chị và người lớn tuổi), ít ai ưa trái nghịch với bề trên… Cho nên bậc



19
quân tử chuyên chú vào việc gốc. Cái gốc được vững tốt, tự nhiên đạo
lý bắt từ đó mà sanh ra. Vậy làm người mà biết giữ gìn nết hiếu, nết đễ,
tức là biết nắm lấy cái gốc đó (Kỳ vi nhơn giã, hiếu đễ, nhi háo phạm
thượng giả, tiển hỹ… Quân tử vụ bổn; bổn lập nhi đạo sanh. Hiếu đễ
giã giả, kỳ vi nhân chi bổn dư) [6, tr.5].
Vậy Hiếu đễ không những là gốc của Nhân mà còn là cội nguồn của
lòng Trung. Ở đây, Hiếu không những chỉ được thực hành ở trong phạm vi
gia đình mà còn được mở rộng tới phạm vi xã hội; tức là con người có thể
thực hành nết Hiếu đễ ở trong gia đình thì tất sẽ có ý thức rèn luyện điều
Nhân ở ngoài xã hội. Người biết Hiếu đễ sẽ không phạm bề trên, không chống
đối, làm rối loạn trật tự xã hội. Như vậy, Hiếu đễ chính là gốc của điều Nhân.
Nho giáo xem Hiếu là gốc của Nhân, hạt nhân của Đức, Khổng Tử đã
từng nói: “Hiếu là gốc của đức, giáo hóa do đó mà sinh ra vậy” (Phù hiếu, đức
chi bản dã, giáo cho sở do sinh dã) [46, tr.502]. Hiếu là cái đức cao cả nhất
mà tất cả mọi người trong xã hội từ vua tôi, kẻ sĩ và thứ dân đều phải thực
hành. Tuy nhiên, theo Nho giáo đối với các giai cấp khác nhau trong ở trong
xã hội thì lại có cách thực hiện đạo Hiếu khác nhau. Hiếu của Thiên tử (vua
hay còn gọi là bậc quân tử) là yêu kính cha mẹ, từ đó suy rộng ra đến nhân
dân, làm cho giáo hóa đạo đức phổ cập hết cả thiên hạ, dẫn đến cả thiên hạ
đều thực hành đạo Hiếu. Tăng Tử cho rằng: “Bậc quân tử ở ngôi trên nếu giữ
trọn bề đối với cha mẹ bà con, thì ở dưới dân chúng sẽ cảm động mà phát
khởi lòng nhân ái; nếu mình chẳng bỏ bạn bè xưa, bộ hạ cũ, thì dân chúng sẽ
bắt chước mình, chẳng ăn ở bạc bẽo” (Quân tử đốc ư thân, tắc dân hưng ư
nhân; cố cựu bất di, tắc dân bất du) [6, tr.121]. Như vậy, nhà cầm quyền muốn
cho bá tánh giữ đạo nghĩa, thực hành đạo hiếu thì bản thân phải làm gương
trước; Hiếu của Thiên tử chính là Nhân và Đức. Hiếu của kẻ sĩ là đem lòng
tôn kính cha mẹ của mình mà chuyển sang phụng sự bậc quốc trưởng:



20
Nên lấy hiếu thờ vua ắt trung, lấy kính thờ bậc trưởng thượng ắt
thuận lòng. Không mất trung và thuận, lấy đó thờ bậc trên nữa, sau đó
mới bảo vệ được địa vị bổng lộc của mình, để giữ gìn việc tế lễ của
mình (Cố dĩ hiếu sự quân tắc trung, dĩ kính sự trưởng tắc thuận. Trung
thuận bất thất, dĩ sự kỳ thượng, nhiên hậu năng bảo kỳ lộc vị, nhi thủ
kỳ tế tự) [46, tr.503 - 504].
Có thể hiểu là Hiếu của kẻ sĩ chính là Trung và Thuận; Hiếu có nghĩa là
Trung với Thiên tử và thuận theo ý trời. Còn Hiếu của kẻ thứ dân đơn giản
chỉ là “dùng đạo của trời chia lợi của đất, thân giữ cẩn thận chi dùng kiệm
ước, để nuôi dưỡng cha mẹ” (dụng thiên chi đạo, phân địa chi lợi, cẩn thân
thiết dụng, dĩ dưỡng phụ mẫu) [46, tr.504]. Đạo Hiếu của thứ dân chính là
phụng dưỡng cha mẹ, từ Hiếu mà sinh ra Nhân vì người có Hiếu tức là người
có Nhân, người nào có Nhân ắt sẽ có Hiếu. Như vậy, có thể thấy mặc dù đối
với mỗi giai cấp khác nhau tùy thuộc vào địa vị và vị trí ở trong xã hội mà nội
dung của Hiếu có thể khác nhau. Nhưng chung quy lại thì từ thiên tử, kẻ sĩ
cho đến thứ dân đều giống nhau ở một điểm, đó là đều phải yêu thương, tôn
kính và phụng dưỡng đối với bậc phụ mẫu. Muốn thành Nhân thì trước tiên
phải thực hành Nhân, tức là phải có đạo Hiếu.
Học thuyết Nho giáo cho “Nhân là chuẩn mực tối cao của hành vi con
người”, nhưng Nhân phải qua hành vi chuẩn mực cụ thể là Hiếu thì mới được
thể hiện. Điển hình, có lần vì Tể Ngã (đệ tử của Khổng Tử) không muốn tuân
theo việc để tang ba năm, Khổng Tử mắng “Trò Dư (Tể Ngã) là người bất
nhân” (Dư chi bất nhân giã) [6, tr.281], vì bất hiếu, không nhớ công cha mẹ
bồng bế ba năm mà muốn rút ngắn thời gian để tang từ ba năm xuống một
năm. Như vậy, trong hành động cụ thể, bất hiếu cũng có nghĩa là bất nhân vì
theo Khổng Tử, Hiếu không chỉ thể hiện thái độ của người con đối với cha mẹ
khi còn sống mà còn thể hiện hành vi của mình khi cha mẹ đã mất. “Nếu ba



×