Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Tổ chức kế toán trách nhiệm tại công ty cổ phần Vinaconex 25.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.07 KB, 100 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, hệ thống kế toán doanh nghiệp đã có những
thành tựu nhất định trong việc cung cấp thông tin phục vụ quản trị doanh
nghiệp. Kế toán quản trị ra đời như một tất yếu khách quan của cơ chế thị
trường. Tại các nước phát triển, kế toán quản trị đã được ứng dụng một cách
rộng rãi trong công tác quản lý và điều hành doanh nghiệp. Tuy nhiên, tại
Việt Nam do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, kế toán quản trị
còn là vấn đề khá mới mẻ, chưa khai thác triệt để những ưu điểm của môn
khoa học này trong thực tế quản lý doanh nghiệp.
Có thể nói chính chất lượng và hiệu quả của công tác kế toán ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả quản lý để đạt được các mục tiêu
đề ra. Trong hệ thống kế toán nói chung và kế toán quản trị nói riêng, các nhà
kinh tế đã đưa ra lý thuyết về mô hình kế toán trách nhiệm. Lý thuyết này đưa
ra cách thức tổ chức và các chỉ tiêu để đánh giá hoạt động của từng bộ phận,
xác định trách nhiệm riêng biệt trong một tổ chức phân quyền, thông qua đó
hướng các bộ phận đến việc thực hiện mục tiêu chung của tổ chức. Áp dụng
mô hình kế toán trách nhiệm doanh nghiệp sẽ có được một hệ thống cung cấp
thông tin tin cậy và sự kiểm soát chặt chẽ.
Trong ngành xây lắp, yêu cầu khắt khe đặt ra cho các doanh nghiệp là
phải kiểm soát được chi phí, đảm bảo chất lượng công trình theo các tiêu
chuẩn của nhà nước và thị trường, hoàn thành các mục tiêu mà doanh nghiệp
đặt ra. Muốn đạt được điều này, cơ cấu tổ chức trong doanh nghiệp phải được
phân cấp quản lý một cách rõ ràng, tổ chức thành nhiều bộ phận có chức năng
và nhiệm vụ cụ thể, nhà quản lý ở mỗi bộ phận có sự độc lập tương đối trong
việc điều hành công việc của mình và phải hoàn thành những nhiệm vụ được
đặt ra từ bộ phận quản lý cấp cao hơn. Ban quản lý cấp cao muốn phối hợp



2

hoạt động của các bộ phận khác nhau trong tổ chức một cách tốt nhất cần phải
dựa vào hệ thống kế toán trách nhiệm. Hệ thống này thừa nhận mỗi bộ phận
trong một tổ chức có quyền chỉ đạo và chịu trách nhiệm về những nghiệp vụ
thuộc phạm vi quản lý của mình, họ phải xây dựng, thiết kế một hệ thống
công cụ để đo lường về thành quả đóng góp của đơn vị mình và báo cáo lên
cấp cao hơn trong tổ chức, thông qua đó cấp quản lý cao hơn sẽ đánh giá
thành quả của các bộ phận trong tổ chức.
Công ty Cổ phần Vinaconex 25 là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực chính là xây lắp và đã niêm yết trên thị trường chứng khoán, đang hoạt
động kinh doanh đa lĩnh vực đa ngành nghề, có quy mô hoạt động lớn. Hiện
nay, tại Công ty Cổ phần Vinaconex 25, lợi ích liên quan đến nhiều đối tượng
khác nhau, đặc biệt là lợi ích của các cổ đông, tuy nhiên trong quản lý và điều
hành công việc hàng ngày chỉ do Ban điều hành (Giám đốc, Phó giám đốc và
các cán bộ nhân viên chịu trách nhiệm quản lý), có trách nhiệm điều hành
hoạt động kinh doanh của Công ty một cách hiệu quả và mang lại lợi ích cao
nhất cho các cổ đông, các nhà đầu tư và các đối tượng liên quan lợi ích khác.
Tại Công ty Cổ phần Vinaconex 25 đã có sự giám sát, đánh giá trách nhiệm
quản trị của các cấp dưới đối với công việc được giao thông qua hệ thống
thông tin báo cáo, qua đó có những hành động điều chỉnh kịp thời để cải tiến
những hoạt động chưa đạt hiệu quả nhằm hướng đến hoàn thành mục tiêu
chung của toàn Công ty. Tuy nhiên, hiện nay taị Công ty CP Vinaconex 25
vẫn chưa hình thành nên các trung tâm trách nhiệm để gắn liền trách nhiệm
với các cấp quản lý tương ứng. Do đó Công ty Cổ phần Vinaconex 25 cần
phải tổ chức kế toán trách nhiệm là một trong những công cụ quản lý đáp ứng
được yêu cầu cấp thiết trên.


3


Xuất phát từ yêu cầu mang tính khách quan cả về lý luận và thực tiễn từ
Công ty, tác giả đã chọn đề tài “Tổ chức kế toán trách nhiệm tại Công ty
Cổ phần Vinaconex 25” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu chính của luận văn là kế thừa những nghiên cứu lý luận trong
và ngoài nước để nghiên cứu thực tiễn về tổ chức kế toán trách nhiệm tại
Công ty Cổ phần Vinaconex 25, phản ánh cơ cấu tổ chức, trách nhiệm quản lý
của các bộ phận đối với mục tiêu của Công ty. Từ đó rút ra những kết luận
làm cơ sở khoa học cho việc tổ chức kế toán trách nhiệm, giúp cho nhà quản
lý Công ty thực hiện việc đánh giá hiệu quả và hiệu năng của các bộ phận
(trung tâm) và khai thác tiềm năng của các bộ phận để hoàn thành mục tiêu
chung của toàn Công ty.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những nội dung
cơ bản về kế toán trách nhiệm, nghiên cứu thực trạng công tác kế toán phục
vụ quản trị nội bộ ở Công ty CP Vinaconex 25 như công tác lập dự toán, lập
báo cáo kế toán theo từng cấp quản lý và vận dụng lý luận kế toán trách
nhiệm vào việc tổ chức công tác kế toán trách nhiệm tại Công ty Cổ phần
Vinaconex 25.
- Phạm vi nghiên cứu: Công ty cổ phần Vinaconex 25, bao gồm Văn
phòng Công ty và các đơn vị, bộ phận tham gia vào hoạt động sản xuất kinh
doanh của Công ty.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Về mặt phương pháp luận, luận văn được thực hiện theo quan điểm
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp tiếp cận hệ thống.


4


- Về phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận văn sử dụng phương pháp
thu thập thông tin, tổng hợp số liệu, phân tích số liệu thực tế, so sánh, đối
chiếu và các phương pháp khoa học khác.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Hệ thống hóa và phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán
trách nhiệm trong doanh nghiệp.
- Đánh giá được thực trạng công tác kế toán phục vụ quản trị nội bộ tại
Công ty CP Vinaconex 25 và mức độ vận dụng kế toán trách nhiệm của Công
ty vào công tác quản lý.
- Đưa ra giải pháp tổ chức kế toán trách nhiệm như: Xây dựng mô hình
phân cấp quản lý, tổ chức thông tin kế toán phục vụ đánh giá các trung tâm
trách nhiệm và vận dụng các công cụ thích hợp trong đánh giá thành quả các
trung tâm trách nhiệm tại Công ty CP Vinaconex 25.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được trình bày với ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về kế toán trách nhiệm trong doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng công tác kế toán phục vụ đánh giá trách nhiệm ở Công
ty Cổ phần Vinaconex 25.
Chương 3: Giải pháp tổ chức kế toán trách nhiệm tại Công ty Cổ phần
Vinaconex 25.
7. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Kế toán quản trị doanh nghiệp là một bộ phận cấu thành quan trọng của
hệ công cụ quản lý kinh tế, tài chính, có vai trò quản lý, điều hành và kiểm
soát các hoạt động kinh tế, tài chính trong doanh nghiệp, đồng thời cung cấp
thông tin để thực hiện mục tiêu quản trị doanh nghiệp nhằm đạt được hiệu quả
cao nhất. Kế toán quản trị sử dụng hệ thống kế toán trách nhiệm để phân loại
cấu trúc tổ chức thành các trung tâm trách nhiệm, trên cơ sở đó đánh giá kết


5


quả của từng bộ phận dựa trên trách nhiệm được giao cho bộ phận đó. Trong
quá trình nghiên cứu, tác giả đã tham khảo một số tài liệu có liên quan đến kế
toán trách nhiệm như sau:
PGS.TS Phạm Văn Đăng (2011)– “Một số vấn đề về kế toán trách
nhiệm ở các doanh nghiệp niêm yết”. Có những quan điểm về kế toán
trách nhiệm:
Kế toán trách nhiệm là một nội dung cơ bản của kế toán quản trị, do
vậy quá trình hình thành và phát triển của kế toán trách nhiệm gắn liền với
quá trình hình thành và phát triển của kế toán quản trị. Kế toán trách nhiệm
được đề cập đầu tiên ở Mỹ vào năm 1950 trong tác phẩm "Basic
organizational planning to tie in with responsibility accounting" của Ailman,
H.B.1950. Từ đó đến nay, vấn đề kế toán quản trị được quan tâm nhiều với
những quan điểm khác nhau bởi những tác giả khác nhau ở nhiều quốc gia
trên thế giới.
Nhóm tác giả Anthony A.Atkinson, Rajiv. D.Banker, Robert S.Kaplan
and S.mark Young khẳng định: Kế toán trách nhiệm là một hệ thống kế toán
có chức năng thu thập, tổng hợp và báo cáo các dữ liệu kế toán có liên quan
đến trách nhiệm của từng nhà quản lý riêng biệt trong một tổ chức, cung cấp
thông tin nhằm đánh giá trách nhiệm và thành quả mỗi nhà quản lý tạo ra các
báo cáo chứa cả những đối tượng có thể kiểm soát và không thể kiểm soát đối
với một cấp quản lý.
Nhóm tác giả Weygandt, Kieso và Kimmel cho rằng kế toán trách
nhiệm là một bộ phận của kế toán quản trị mà liên quan đến việc tích lũy, báo
cáo về thu nhập và chi phí trên cơ sở nhà quản lý có quyền đưa ra những
quyết định trong hoạt động hằng ngày về các vấn đề đó.
Nhóm tác giả Clive Emmanuel, David Otley and Kenneth Mar-chant lại
xác định kế toán trách nhiệm là sự thu thập, tổng hợp và báo cáo những thông



6

tin tài chính về những trung tâm khác nhau trong một tổ chức (những trung
tâm trách nhiệm), cũng còn được gọi là kế toán hoạt động hay kế toán khả
năng sinh lợi.
Kế toán trách nhiệm là một hệ thống tạo ra những thông tin tài chính và
phi tài chính có liên quan về những hoạt động thực tế và được lập kế hoạch
của những trung tâm trách nhiệm trong một công ty - những đơn vị trong tổ
chức được đứng đầu bởi những nhà quản lý có trách nhiệm cho kết quả hoạt
động của đơn vị họ quản lý. Những bộ phận chủ yếu bao gồm: Hệ thống dự
toán ngân sách, các báo cáo kết quả hoạt động, các báo cáo về sự biến động
và những mức giá chuyển nhượng sản phẩm, dịch vụ nội bộ giữa các bộ phận
trong công ty.
Tóm lại, hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về kế toán trách
nhiệm, tuy nhiên chúng ta thấy rằng sự khác nhau của các quan điểm trên
được thể hiện ở cách thức nhìn nhận của mỗi tác giả về đặc điểm, ý nghĩa và
cơ chế tổ chức kế toán trách nhiệm ở doanh nghiệp, sự khác nhau đó không
mang tính đối nghịch mà chúng cùng bổ sung cho nhau nhằm giúp chúng ta
có cái nhìn toàn diện hơn về kế toán trách nhiệm. Từ đó, có thể rút ra những
vấn đề thuộc bản chất của kế toán trách nhiệm như sau:
Thứ nhất, kế toán trách nhiệm là một nội dung cơ bản của kế toán quản
trị và là một quá trình tập hợp và báo cáo các thông tin được dùng để kiểm tra
các quá trình hoạt động và đánh giá thực hiện nhiệm vụ ở từng bộ phận trong
một tổ chức. Hệ thống kế toán trách nhiệm là một hệ thống thông tin chính
thức về mặt tài chính. Các hệ thống này sử dụng cả các thông tin tài chính và
cả thông tin phi tài chính.
Thứ hai, kế toán trách nhiệm chỉ có thể được thực hiện trong đơn vị có
cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý được phân quyền rõ ràng. Hệ thống kế toán
trách nhiệm ở các tổ chức khác nhau là rất đa dạng, bao gồm các thủ tục được



7

thể chế hóa cao với cách hoạt động theo lịch trình đều đặn, có những nhà
quản lý bộ phận được giao quyền hạn quyết định, song cũng có những nhà
quản lý bộ phận hầu như không có quyền hạn về sử dụng các nguồn lực thuộc
bộ phận họ quản lý.
Thứ ba, một hệ thống kế toán trách nhiệm hữu ích phải thỏa mãn lý
thuyết phù hợp, nghĩa là có một cấu trúc tổ chức thích hợp nhất với môi
trường tổ chức hoạt động, với chiến lược tổng hợp của tổ chức, và với các giá
trị và sự khích lệ của quản trị cấp cao.
PGS.TS Phạm Văn Dược, TS. Huỳnh Đức Lộng, TS. Phạm Xuân
Thành, TS. Trần Văn Tùng, TS. Trần Phước (2011), Mô hình báo cáo
đánh giá trách nhiệm quản trị trong công ty niêm yết, NXB Phương Đông
Một là: Sự phân cấp trong quản lý: Kế toán trách nhiệm là công việc
được thực hiện không thể tách rời các trung tâm trách nhiệm. Các trung tâm
này được hình thành thông qua việc phân cấp quản lý. Theo đó, để thực hiện
các chức năng quản lý của mình, người quản lý cấp cao phải thể hiện được
đúng đắn quyền lực của mình, phải gây được ảnh hưởng và sức thuyết phục
đối với nhân viên, đồng thời phải tiến hành phân cấp, ủy quyền cho cấp dưới
nhằm giúp cấp dưới có thể điều hành các công việc thường xuyên tại bộ phận
mà họ quản lý.
Hai là: Xác định các loại trung tâm trách nhiệm:
+ Trung tâm chi phí: là một loại trung tâm trách nhiệm thể hiện phạm
vi cơ bản của hệ thống xác định chi phí. Trung tâm chi phí gắn liền với cấp
quản lý mang tính chất tác nghiệp, trực tiếp tạo ra sản phẩm, dịch vụ, hoặc
gián tiếp phục vụ kinh doanh (như phân xưởng sản xuất, các phòng ban chức
năng). Theo đó, người quản lý chỉ chịu trách nhiệm hoặc chỉ có quyền kiểm
soát đối với chi phí phát sinh ở bộ phận mình, không có quyền hạn đối với
việc tiêu thụ và đầu tư vốn.



8

+ Trung tâm doanh thu: là trung tâm trách nhiệm mà người quản lý chỉ
có trách nhiệm với doanh thu cần tạo ra, không chịu trách nhiệm với lợi
nhuận và vốn đầu tư. Trung tâm này thường được gắn với bậc quản lý cấp
trung hoặc cấp cơ sở, đó là các bộ phận kinh doanh trong đơn vị như các chi
nhánh tiêu thụ, khu vực tiêu thụ, cửa hàng tiêu thụ, nhóm sản phẩm.
+ Trung tâm lợi nhuận: là loại trung tâm trách nhiệm mà nhà quản trị
phải chịu trách nhiệm với kết quả sản xuất và tiêu thụ của trung tâm. Nhà
quản lý có thể ra quyết định loại sản phẩm nào cần sản xuất, sản xuất như thế
nào, mức độ chất lượng, giá cả, hệ thống phân phối và bán hàng. Loại trung
tâm trách nhiệm này thường được gắn ở bậc quản lý cấp trung, đó là giám đốc
điều hành trong công ty, các đơn vị kinh doanh trong tổng công ty như các
công ty phụ thuộc, các chi nhánh,...
+ Trung tâm đầu tư: là loại trung tâm trách nhiệm gắn với bậc quản lý
cấp cao như Hội đồng quản trị công ty, các công ty con độc lập,... Đó là sự
tổng quát hóa của các trung tâm lợi nhuận trong đó khả năng sinh lời được
gắn với các tài sản được sử dụng để tạo ra lợi nhuận đó. Một trung tâm trách
nhiệm được xem là một trung tâm đầu tư khi nhà quản trị của trung tâm đó
không những quản lý chi phí và doanh thu mà còn quyết định lượng vốn sử
dụng để tiến hành quá trình đó.
Đề tài “Tổ chức kế toán trách nhiệm tại Tổng công ty xây dựng
Miền Trung” của tác giả Nguyễn Hữu Phú (năm 2006). Tổng công ty xây
dựng Miền Trung là doanh nghiệp Nhà nước, thuộc sự quản lý của Bộ Xây
Dựng là một Tổng công ty có nhiều Công ty thành viên hoạt động trong nhiều
lĩnh vực khác nhau và phạm vi hoạt động trải rộng khắp cả nước, cơ chế quản
lý tài chính đối với các Công ty thành viên cũng khá đa dạng.
Trong đề tài này, tác giả đã đi vào lý luận chung về kế toán trách nhiệm

và tổ chức kế toán trách nhiệm trong các Tổng công ty xây dựng, thực trạng


9

về kế toán trách nhiệm và giải pháp tổ chức kế toán trách nhiệm tại Tổng
công ty xây dựng Miền Trung.
Sau khi khảo sát đề tài “Tổ chức kế toán trách nhiệm tại Tổng công ty
xây dựng Miền Trung” của tác giả Nguyễn Hữu Phú (năm 2006), tôi rút ra
một số nhận xét như sau: Luận văn đã xây dựng một mô hình quản lý và đánh
giá được việc thực hiện của các cấp trong Tổng công ty từ cấp thấp đến cấp
cao nhất. Luận văn đã thực hiện được công việc là đánh giá định lượng việc
thực hiện và đánh giá được định tính tại Tổng công ty xây dựng Miền Trung
thông qua giải pháp sử dụng phiếu cân đối. Tuy nhiên, việc xây dựng hệ
thống báo cáo kế toán trách nhiệm chỉ dừng lại ở Công ty thành viên báo cáo
lên Tổng công ty xây dựng Miền Trung, tác giả chưa đề cập đến việc báo cáo
từ bộ phận trực tiếp thi công công trình do chỉ huy trưởng công trường chịu
trách nhiệm, bên cạnh đó tác giả cũng chưa đề cập đến báo cáo kế toán trách
nhiệm từ các phòng ban, bởi vì bộ phận trực tiếp thi công hay phòng ban là
mấu chốt của sự lãng phí và thất thoát vật liệu, công cụ sử dụng cho hoạt
động sản xuất kinh doanh nhiều nhất.
Tại Công ty cổ phần Vinaconex 25 chưa có tác giả nào nghiên cứu về
kế toán trách nhiệm. Chính vì vậy, tác giả đã đi vào lý luận về kế toán trách
nhiệm, những nội dung cơ bản về tổ chức kế toán trách nhiệm trong doanh
nghiệp, đi vào phân tích thực trạng công tác kế toán phục vụ đánh giá trách
nhiệm ở Công ty cổ phần Vinaconex 25, từ đó đưa ra giải pháp tổ chức kế
toán trách nhiệm tại đơn vị theo kim chỉ nam là những quan điểm về kế toán
trách nhiệm và nội dung cơ bản cấu thành kế toán trách nhiệm của các tác giả
trên để hoàn thành nên hệ thống kế toán trách nhiệm tại Công ty Cổ phần
Vinaconex 25 - Công ty có vốn đầu tư lớn và đã niêm yết trên Thị trường

chứng khoán.


10

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN TRÁCH
NHIỆM TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. KHÁI QUÁT VỀ KẾ TOÁN TRÁCH NHIỆM
1.1.1. Khái niệm kế toán trách nhiệm
Kế toán trách nhiệm (KTTN) là một nội dung cơ bản của KTQT, do
vậy quá trình hình thành và phát triển của KTTN gắn liền với quá trình hình
thành và phát triển của KTQT. KTTN được đề cập đầu tiên ở Mỹ vào năm
1950 trong tác phẩm "Basic organizational planning to tie in with
responsibility accounting" của Ailman, H. B. 1950. Từ đó đến nay, vấn đề
KTTN được quan tâm nhiều với những quan điểm khác nhau bởi những tác
giả khác nhau ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Theo nhóm tác giả Anthony A.Atkinson, Rajiv. D.Banker, Robert
S.Kaplan and S.mark Young (được trích trong nghiên cứu “Một số vấn đề về
kế toán trách nhiệm ở các doanh nghiệp niêm yết”), khẳng định “KTTN là
một hệ thống kế toán có chức năng thu thập, tổng hợp và báo cáo các dữ liệu
kế toán có liên quan đến trách nhiệm của từng nhà quản lý riêng biệt trong
một tổ chức, cung cấp thông tin nhằm đánh giá trách nhiệm và thành quả mỗi
nhà quản lý tạo ra các báo cáo chứa cả những đối tượng có thể kiểm soát và
không thể kiểm soát đối với một cấp quản lý” [6, tr 2]
Theo nhóm tác giả Weygandt, Kieso và Kimmel (được trích trong sách
“Mô hình báo cáo đánh giá trách nhiệm quản trị trong công ty niêm yết), cho
rằng “KTTN là một bộ phận của KTQT mà liên quan đến việc tích lũy, báo
cáo về thu nhập và chi phí trên cơ sở nhà quản lý có quyền đưa ra những
quyết định trong hoạt động hằng ngày về các vấn đề đó” [4, tr 6]
Theo PGS.TS Phạm Văn Dược - Đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí

Minh, “Kế toán trách nhiệm là hệ thống kế toán tập hợp kết quả theo từng


11

lĩnh vực thuộc trách nhiệm cá nhân, nhằm giám sát và đánh giá kết quả của
từng bộ phận trong tổ chức” [3, tr 264].
Có thể nói, kế toán trách nhiệm là một hệ thống thừa nhận mỗi bộ phận
trong một tổ chức có quyền chỉ đạo và chịu trách nhiệm về những nghiệp vụ
riêng biệt thuộc phạm vi quản lý của mình. Họ xác định, đánh giá và báo cáo
lên cấp trên trong tổ chức. Thông qua đó, các cấp quản lý cao hơn sử dụng
các thông tin này để đánh giá thành quả của các bộ phận trong tổ chức.
Hệ thống KTTN được thiết lập để ghi nhận, đo lường kết quả hoạt động
của từng bộ phận trong tổ chức, trên cơ sở đó lập các báo cáo thực hiện nhằm
phục vụ cho các nhà quản lý kiểm soát được hoạt động và chi phí của họ. Nói
cách khác, KTTN là một phương pháp kế toán thu thập và báo váo các thông
tin dự toán và thực tế về các “đầu vào” và “đầu ra” của các trung tâm trách
nhiệm. Như vậy, vấn đề đặt ra là phải lượng hóa được “đầu vào” và “đầu ra”
của các trung tâm trách nhiệm. Trên cơ sở đó, xác định các chỉ tiêu cụ thể để
đánh giá kết quả hoạt động của từng trung tâm. Việc đo lường thành quả hoạt
động của các trung tâm trách nhiệm sẽ tạo điều kiện cho việc đánh giá chất
lượng hoạt động của nhà quản trị các trung tâm, đồng thời khích lệ họ điều
khiển hoạt động của trung tâm mình phù hợp với mục tiêu cơ bản toàn đơn vị.
1.1.2. Bản chất kế toán trách nhiệm
a. Kế toán trách nhiệm là nội dung cơ bản của kế toán quản trị
Ngày nay, kế toán quản trị (KTQT) là bộ phận không thể tách rời của
hệ thống kế toán doanh nghiệp. Ngoài thông tin kế toán tài chính cung cấp,
các nhà quản lý đòi hỏi phải có thêm thông tin mang tính kiểm soát và dự báo,
chẳng hạn như doanh thu và chi phí phân chia theo bộ phận. Như vậy, kế toán
quản trị biểu hiện trách nhiệm của các nhà quản lý các cấp bên trong doanh

nghiệp thông qua kế toán trách nhiệm, trong khi kế toán tài chính biểu hiện
trách nhiệm của nhà quản trị cấp cao.


12

Kế toán theo các trung tâm trách nhiệm là một công cụ để đánh giá và
kiểm soát trong các công ty phân quyền, thông qua việc xác định các trung
tâm trách nhiệm và nhiệm vụ báo cáo của chúng. Đây là hệ thống thừa nhận
mỗi bộ phận (nhà quản trị bộ phận) trong một tổ chức có quyền chỉ đạo và
chịu trách nhiệm về những nghiệp vụ riêng biệt thuộc phạm vi quản lý của
mình, họ phải xác định, đánh giá và báo cáo lên cấp trên trong tổ chức, thông
qua đó các cấp quản lý cao hơn sử dụng các thông tin này để đánh giá thành
quả các bộ phận trong tổ chức.
Tóm lại, KTTN là một trong những nội dung quan trọng của kế toán
quản trị. KTTN không chỉ đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ, rõ ràng về hoạt
động SXKD của doanh nghiệp mà còn xác định đối tượng nào là người chịu
trách nhiệm, bộ phận nào có quyền kiểm soát đối với hoạt động xảy ra.
b. Kế toán trách nhiệm – hạt nhân trong hệ thống kiểm soát quản lý
Nói đến KTQT là phải nói đến vai trò cung cấp thông tin cho kiểm tra
và đánh giá quá trình thực hiện để có thể đưa ra những điều chỉnh kịp thời
nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Hệ thống kiểm soát quản trị có 2 yếu tố hạt
nhân:
Thứ nhất là quá trình lập kế hoạch gồm ngân sách và các kế hoạch dài
hạn. Quá trình này sử dụng để thiết lập các chỉ tiêu kế hoạch nhằm đánh giá
quá trình thực hiện.
Thứ hai là KTTN mà chủ yếu là tạo ra các trung tâm trách nhiệm.
Trung tâm trách nhiệm chịu trách nhiệm kết quả tài chính và tác động hiệu
quả của từng cá nhân trong tổ chức. Mục tiêu của KTTN là tích lũy chi phí,
doanh thu… trong từng trung tâm trách nhiệm để tính ra độ lệch so với mục

tiêu thực hiện (điển hình là dự toán) mà có thể quy trách nhiệm cho từng cá
nhân đứng đầu trung tâm trách nhiệm. Mỗi trung tâm trách nhiệm đều có tiến
trình như sơ đồ 1.1.


13

Thiết lập mục tiêu
Đo lường kết quả thực hiện
So sánh kết quả thực hiện với mục tiêu và báo cáo
Phân tích sự sai biệt (độ lệch)
Đưa ra ảnh hưởng khi có sự sai biệt đáng kế giữa thực tế và kế hoạch

Sơ đồ 1.1 - Sơ đồ tiến trình của một trung tâm trách nhiệm
Mục tiêu tài chính thực hiện của trung tâm lợi nhuận và đầu tư là những
chỉ tiêu đặc trưng về lợi nhuận, tỷ lệ hoàn vốn đầu tư hoặc giá trị kinh tế tăng
thêm, trong khi mục tiêu của trung tâm chi phí được xác định là các chỉ tiêu
về chi phí.
Kế toán trách nhiệm phải thực hiện đầy đủ các báo cáo thực hiện trong
khoảng thời gian nào đó một cách thường xuyên, trong các báo cáo đó nhà
quản trị các trung tâm trách nhiệm phải tìm thấy sự sai lệch so với kế hoạch
mà họ quản lý và phải đưa ra được những ảnh hưởng.
Tóm lại, kế toán trách nhiệm là công cụ để thu thập và báo cáo các
thông tin dự toán và thực tế về các “đầu vào” và “đầu ra” của các trung tâm
trách nhiệm, tìm ra các sai lệch giữa thực tế và dự toán trên cơ sở đó kiểm
soát hoạt động và chi phí của từng bộ phận.
c. Tính hai mặt của KTTN và ảnh hưởng đến thái độ của nhà quản

Hệ thống kế toán trách nhiệm đưa ra các chỉ tiêu, các công cụ, báo cáo
làm cơ sở để đánh giá thành quả của các đơn vị, bộ phận. Do đó kế toán trách

nhiệm ảnh hưởng trực tiếp đến thái độ của các nhà quản lý ở các bộ phận. Hệ


14

thống kế toán trách nhiệm bao gồm hai mặt là thông tin và trách nhiệm. Trong
đó, mặt thông tin có nghĩa là sự tập hợp, báo cáo, đánh giá các thông tin mang
tính nội bộ về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ cấp quản lý
thấp đến cấp quản lý cao hơn. Mặt trách nhiệm nghĩa là việc quy trách nhiệm
về những sự kiện tài chính xảy ra. Tùy thuộc vào việc sử dụng hai mặt này,
mà ảnh hưởng đến thái độ của người quản lý sẽ khác nhau.
Khi hệ thống kế toán trách nhiệm quá nhấn mạnh đến mặt đánh giá
trách nhiệm của người quản lý sẽ ảnh hưởng đến thái độ của người quản lý
theo chiều hướng tiêu cực, thay vì tìm ra nguyên nhân, thì họ lại tìm cách đối
phó và hoài nghi về hệ thống đánh giá và tìm cách phá hoại hệ thống. Như
vậy là hệ thống kế toán trách nhiệm không hoàn thành mục tiêu đặt ra.
Khi hệ thống kế toán trách nhiệm chú trọng đến mặt thông tin, thì sẽ
ảnh hưởng đến thái độ của người quản lý theo chiều hướng tích cực, họ sẽ
giải thích nguyên nhân dẫn đến thành quả của bộ phận và tìm ra các biện pháp
khắc phục các mặt tiêu cực để thành quả của bộ phận được cải thiện hơn.
Do vậy, cần phải thấy rằng trọng tâm của hệ thống KTTN là thông tin.
Hệ thống này chỉ ra người có trách nhiệm giải thích từng sự kiện hoặc kết quả
tài chính đặc biệt. Hệ thống kế toán trách nhiệm phải cung cấp thông tin cho
người có trách nhiệm và người quản lý cấp cao hơn biết được nguyên nhân
dẫn đến thành quả của các bộ phận. Khi được sử dụng đúng đắn hệ thống kế
toán trách nhiệm sẽ không quá nhấn mạnh đến việc quy trách nhiệm.
Tóm lại, khi vận dụng hệ thống kế toán trách nhiệm, cần tập trung vào
vai trò thông tin của hệ thống, không quá nhấn mạnh đến việc quy trách
nhiệm mà xem việc quy trách nhiệm là một yếu tố góp phần vào hiệu quả
thông tin của hệ thống. Điều này sẽ ảnh hưởng tích cực đến hành vi và thái độ

của nhà quản lý, khuyến khích họ cố gắng cải thiện hiệu quả hoạt động.


15

1.1.3. Mục tiêu và vai trò của KTTN trong doanh nghiệp
a. Mục tiêu của kế toán trách nhiệm
Để công tác xây dựng hệ thống kế toán trách nhiệm có tính khả thi và
thật sự là công cụ quản trị hữu ích trong việc kiểm soát, đánh giá thành quả
hoạt động của các bộ phận trong doanh nghiệp, qua đó đánh giá được trách
nhiệm quản trị của từng cấp quản lý, cần phải đề ra các mục tiêu cụ thể cho
quá trình xây dựng đó. Các mục tiêu cơ bản gồm
Mục tiêu 1: Xác lập nhận thức về mặt lý luận, phương pháp thực hiện
để định hướng, áp dụng KTTN cho các DN ở Việt Nam.
Mục tiêu 2: Xây dựng hệ thống báo cáo kế toán trách nhiệm mang tính
phổ biến, thuận tiện ứng dụng, khai thác các phương tiện xử lý thông tin và
linh hoạt áp dụng các phương pháp kỹ thuật của KTTN
Mục tiêu 3: Xây dựng hệ thống báo cáo kế toán trách nhiệm thông qua
việc xác lập cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý, trên cơ sở phân cấp theo các
trung tâm trách nhiệm và chuẩn bị dự toán cho mỗi trung tâm trách nhiệm
thông qua hệ thống dự toán hoạt động, đồng thời xác lập hệ thống chỉ tiêu đo
lường kết quả hoạt động của mỗi trung tâm trách nhiệm, làm cơ sở đánh giá
trách nhiệm và thành quả hoạt động của từng trung tâm cũng như từng bộ
phận, trong việc góp phần hoàn thành mục tiêu chung của công ty.
Mục tiêu 4: Xây dựng hệ thống báo cáo kế toán trách nhiệm phải đảm
bảo tính kịp thời, linh hoạt vừa để kịp với sự thay đổi về môi trường sản xuất
kinh doanh, phương pháp quản lý và phương tiện xử lý thông tin, vừa để
thoản mãn thông tin cho các quyết định tác nghiệp và cả để đo lường, đánh
giá kết quả, hiệu quả sản xuất kinh doanh, đồng thời đánh giá trách nhiệm
quản lý của các nhà quản trị ở từng bộ phận của công ty.



16

Mục tiêu 5: Xây dựng hệ thống kế toán trách nhiệm để kích thích nhu
cầu sử dụng thông tin cho công tác kiểm soát, đánh giá thành quả hoạt động
của nhà quản trị nhằm thúc đẩy quá trình đổi mới phương pháp quản trị, nâng
cao hiệu quả quản trị góp phần hoàn thành mục tiêu chung của công ty.
b. Vai trò của kế toán trách nhiệm
Kế toán trách nhiệm là một "công cụ" để đo lường về kết quả hoạt động
của một khu vực nào đó trong tổ chức, qua đó giúp nhà quản trị kiểm soát và
đánh giá trách nhiệm quản trị ở từng cấp quản trị khác nhau. Vai trò của kế
toán trách nhiệm được thể hiện ở những khía cạnh sau đây:
- Thứ nhất, kế toán trách nhiệm giúp xác định sự đóng góp của từng
đơn vị, bộ phận vào lợi ích của toàn bộ tổ chức.
- Thứ hai, kế toán trách nhiệm cung cấp một cơ sở cho việc đánh giá
chất lượng về kết quả hoạt động của những nhà quản lý bộ phận.
- Thứ ba, kế toán trách nhiệm được sử dụng để đo lường kết quả hoạt
động của các nhà quản lý và do đó, nó ảnh hưởng đến cách thức thực hiện
hành vi của các nhà quản lý này.
- Thứ tư, KTTN thúc đẩy các nhà quản lý bộ phận điều hành bộ phận
của mình theo cách phù hợp với những mục tiêu cơ bản của toàn bộ tổ chức.
1.2. CƠ SỞ TỔ CHỨC KTTN TRONG DOANH NGHIỆP
1.2.1. Quy mô và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp
Sự phát triển cả về quy mô và phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp
đã đặt ra yêu cầu cho các nhà quản trị phải kiểm soát và đánh giá được hoạt
động của chúng. Vì tính phức tạp của các hoạt động nên rất khó khăn cho các
nhà quản trị cấp cao trong kiểm soát hoạt động trực tiếp. Kết quả là quy mô
và sự phức tạp về cơ cấu tổ chức của công ty tăng lên đòi hỏi những hoạt
động của họ phải được phân quyền. Việc tổ chức hình thành những bộ phận

khác nhau của công ty yêu cầu kế toán phải cung cấp những phương pháp đo


17

lường hiệu quả ở mỗi cấp, mỗi bộ phận. Trong trường hợp này, kế toán trách
nhiệm có đủ điều kiện và đáp ứng được yêu cầu.
Bên cạnh vấn đề về quy mô, hệ thống KTTN còn phải căn cứ vào đặc
thù sản xuất và quản lý từng doanh nghiệp mà tổ chức cho phù hợp. Một
doanh nghiệp có cơ cấu tổ chức phân quyền sẽ dẫn đến các trung tâm trách
nhiệm; các trung tâm này gắn liền với trật tự phân cấp quản lý trong tổ chức.
Hiểu rõ đặc thù sản xuất kinh doanh, quy mô và cấu trúc tổ chức của
doanh nghiệp là điều kiện để xây dựng thành công KTTN tại doanh nghiệp.
1.2.2. Phân cấp quản lý trong doanh nghiệp
a. Nội dung phân cấp quản lý
Phân cấp quản lý là sự phân quyền được ra quyết định trong một tổ
chức bằng cách cho phép các nhà quản lý ở các cấp hoạt động được ra những
quyết định trong phạm vi mình có trách nhiệm quyết định đến cấp quản lý
thấp hơn nhằm làm cho mọi quyết định đều được thực hiện.
Phân cấp quản lý được thể hiện qua các nội dung sau:
- Quyền và trách nhiệm về huy động các nguồn vốn: Phân cấp rõ quyền
và trách nhiệm về huy động các nguồn vốn đối với từng cấp trong doanh
nghiệp, quy định mức huy động và hình thức được huy động ứng với mỗi cấp
trong doanh nghiệp phải được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Người phê duyệt
phương án huy động vốn phải chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát, đảm bảo
vốn huy động được sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng và có hiệu quả.
Tất cả những quy định về huy động vốn phải có quy định rõ ràng trong Điều
lệ và Quy chế tài chính của doanh nghiệp và xem đó là khung pháp lý của
doanh nghiệp. Ví dụ trong Công ty cổ phần ABC, Hội đồng quản trị có thẩm
quyền quyết định phương án huy động vốn có giá trị lớn hơn vốn điều lệ

Công ty, trường hợp Hội đồng quản trị phân cấp cho Giám đốc quyết định các
phương án huy động vốn lớn hơn vốn điều lệ thì mức phân cấp cụ thể phải ghi


18

trong Quy chế tài chính của Công ty. Các hợp đồng vay vốn khác có giá trị
bằng hoặc thấp hơn vốn điều lệ do Giám đốc Công ty quyết định. Còn đối với
nhu cầu vay vốn vượt quá ba lần vốn điều lệ thì phải báo cáo đại diện chủ sở
hữu xem xét, quyết định trên cơ sở các dự án huy động vốn có hiệu quả. Tất
cả những quy định này phải được nêu trong Quy chế tài chính của Công ty để
các cấp trong Công ty chủ động giải quyết cho đúng thẩm quyền và trách
nhiệm của mình.
- Quyền và trách nhiệm quản lý, sử dụng vốn, tài sản trong sản xuất
kinh doanh: Các cấp trong doanh nghiệp được xác định quyền sử dụng vốn,
các loại tài sản được giao có hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của mình. Đồng thời, các cấp trong doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm trước
đại diện vốn chủ sở hữu về bảo toàn, phát triển vốn, tài sản, hiệu quả sử dụng
vốn, tài sản được giao. Bên cạnh đó, các cấp cũng phải đảm bảo quyền lợi của
những người có liên quan đến bộ phận mình như chủ nợ, khách hàng, người
lao động theo các hợp đồng đã giao kết
- Công tác lập kế hoạch và báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch hoạt
động sản xuất kinh doanh: phải được phân công phân nhiệm cho các cấp
trong doanh nghiệp rõ ràng. Theo đó, vào thời điểm cụ thể theo quy định của
doanh nghiệp (thường là tháng, quý, năm, …) các cấp phải lập kế hoạch để
báo cáo với cấp trên về các chỉ tiêu mà cấp mình sẽ thực hiện trong kỳ, theo
đó cấp trên sẽ cân đối, điều chỉnh, phê duyệt kế hoạch này. Và vào cuối kỳ
phải báo cáo tình hình thực hiện lên cấp trên, qua đó cấp quản trị cao hơn sẽ
đánh giá được hiệu quả thực hiện công việc của cấp dưới của mình. Công tác
lập kế hoạch và báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch tạo điều kiện cho công

tác đo lường, so sánh, đánh giá hiệu quả các bộ phận được thuận lợi, từ đó tạo
động lực phấn đấu để hạ thấp chi phí ở các cấp quản lý một cách tốt nhất.


19

- Phân phối kết quả hoạt động kinh doanh và nghĩa vụ tài chính đối với
cấp trên và Nhà nước: Nếu việc phân cấp về phân phối kết quả hoạt động kinh
doanh và nghĩa vụ tài chính đối với cấp trên và Nhà nước được rõ ràng thì
giữa các cấp không có sự nhập nhằng và ỷ lại ở cấp cao hơn, mà ngược lại tất
cả các cấp đều nỗ lực để phấn đấu đạt được mục tiêu đề ra và thu về thành
quả cho bộ phận mình và hướng đến mục tiêu chung của doanh nghiệp.
b. Những tác động của phân cấp quản lý đến kế toán trách nhiệm

 Tác động tích cực
- Phân cấp quản lý trải rộng quyền lực và trách nhiệm trên toàn tổ chức.
Nhà quản trị cấp cao không phải giải quyết những vấn đề mang tính tác
nghiệp, họ tập trung vào việc hoạch định các chiến lược, điều phối các hoạt
động trong tổ chức, đảm bảo việc thực hiện mục tiêu chung.
- Do nhà quản trị ở các cấp đều có quyền ra quyết định ở các mức độ
khác nhau và chịu trách nhiệm về công việc của mình nên thúc đẩy họ phát
huy khả năng quản lý, chuyên môn. Điều này không những thúc đẩy kết quả
của cả tổ chức mà còn đem lại cơ hội thăng tiến cho các nhà quản trị bộ phận.
- Việc ra quyết định được giao cho nhà quản trị tại nơi xảy ra công việc
nên tính đúng đắn và khả thi của các quyết định là rất cao.
- Phân cấp quản lý gắn liền với với xác định quyền hạn và trách nhiệm ở
từng cấp một cách rõ ràng nên có cơ sở khi đánh giá kết quả hoạt động của
từng bộ phận, dễ tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục các sai phạm.

 Tác động tiêu cực

- Có thể thấy hạn chế lớn nhất của sự phân quyền chính là việc khó đảm
bảo thực hiện thống nhất mục tiêu chung. Chính sự độc lập tương đối có thể
gây không đồng nhất trong quyết định giữa các nhà quản lý bộ phận. Họ
không quan tâm liệu quyết định của họ có ảnh hưởng như thế nào đến bộ
phận khác. Khi các nhà quản trị các trung tâm trách nhiệm không thống nhất


20

trong các quyết định hoạt động sẽ dẫn đến xung đột về tính hiệu quả các
trung tâm trách hiệm với nhau và trong toàn tổ chức.
- Mặt khác, do sự tách bạch về quyền lợi và trách nhiệm giữa các bộ
phận dẫn đến sự cạnh tranh thành tích giữa các bộ phận, ảnh hưởng đến hiệu
quả hoạt động của toàn Công ty.
Những thuận lợi và thách thức trên đòi hỏi nhà quản trị phải có các biện
pháp phát huy những thuận lợi và khắc phục những khó khăn, áp dụng hiệu
quả quan điểm quản trị này vào quản lý, điều hành doanh nghiệp. Để đạt được
sự hướng đến mục tiêu chung, các nhà quản lí bộ phận ỏ các cấp khác nhau
phải hướng đến mục tiêu của bộ phận quản lí cấp cao hơn. Các nhà quản trị
không những phải có tầm nhìn đối với các mục tiêu mà còn phải có động cơ
tích cực để đạt được chúng. Thiết lập một hệ thống các mục tiêu phù hợp với
trình độ và năng lực của từng bộ phận là điều kiện tốt để thực hiện phân cấp
quản lý.
Mọi hoạt động tài chính đều nằm trong tầm kiểm soát của nhà quản trị
từ cấp cao đến cấp thấp. Phân cấp quản lý vừa tạo tiền đề vừa là động lực thúc
đẩy hoạt động kế toán trách nhiệm. Một doanh nghiệp có phân cấp quản lý
thì mới thực hiện được kế toán trách nhiệm và sự phân cấp quản lý càng chặt
chẽ và phù hợp thì hiệu quả của kế toán trách nhiệm càng cao.
1.3. NỘI DUNG TỔ CHỨC KTTN TRONG DOANH NGHIỆP
1.3.1. Tổ chức các trung tâm trách nhiệm trong doanh nghiệp

a. Khái niệm, bản chất trung tâm trách nhiệm
- Trung tâm trách nhiệm (TTTN) là một bộ phận trong một tổ chức mà
người quản lý của bộ phận đó có quyền điều hành và có trách nhiệm đối với
số chi phí, thu nhập phát sinh hoặc số vốn đầu tư sử dụng vào hoạt động kinh
doanh.


21

- Một TTTN có bản chất như một hệ thống, mỗi hệ thống được xác
định để xử lý một công việc cụ thể. Hệ thống này sử dụng các đầu vào là các
giá trị vật chất như nguyên vật liệu, số giờ công của các loại lao động và các
dịch vụ khác kèm theo. Để có được đầu ra là các loại hàng hóa nếu nó là sản
phẩm hữu hình, là dịch vụ nếu đó là sản phẩm vô hình. Hàng hóa và dịch vụ
được tạo ra bởi trung tâm trách nhiệm này có thể là đầu vào của một trung
tâm khác trong cùng tổ chức và cũng có thể được bán ra bên ngoài. Vì vậy,
đôi khi nó là đầu vào của một trung tâm trách nhiệm và đôi khi nó là đầu ra
của cả tổ chức. Bản chất của trung tâm trách nhiệm được mô tả như sau:
Trung tâm trách nhiệm
Đầu vào
Các nguồn lực sử dụng

Côngviệc
việc
Công

Đầu ra
Hàng hóa hoặc dịch vụ

Có 2 tiêu chí để đo lường mức độ hoàn thành của một TTTN:

+ Hiệu quả: Là tỷ lệ giữa đầu ra so với đầu vào của trung tâm trách nhiệm.
Nói cách khác, đó chính là tỷ lệ giữa kết quả thực tế đạt được với nguồn lực
thực tế mà trung tâm đã sử dụng để tạo ra kết quả đó.
+ Hiệu năng: Là mối quan hệ giữa đầu ra của một TTTN với mục tiêu của
trung tâm đó. Nói cách khác, chính là mức độ hoàn thành mục tiêu của TTTN.
b. Các loại trung tâm trách nhiệm
Tùy thuộc vào phân cấp quản lý mà doanh nghiệp sẽ tổ chức thành các
TTTN phù hợp, có thể chia thành 4 loại TTTN chính: Trung tâm chi phí,
trung tâm doanh thu, trung tâm lợi nhuận và trung tâm đầu tư.

 Trung tâm chi phí
Trung tâm (TT) chi phí là TTTN thể hiện phạm vi cơ bản của hệ thống
xác định chi phí, là điểm xuất phát của các hoạt động như: Lập dự toán chi
phí, phân loại chi phí thực tế phát sinh, so sánh chi phí thực tế với định mức
chi phí tiêu chuẩn. TT chi phí gắn liền với cấp quản lý mang tính chất tác


22

nghiệp, trực tiếp tạo ra sản phẩm, dịch vụ, hoặc gián tiếp phục vụ kinh doanh
(như phân xưởng sản xuất, các phòng ban chức năng). Theo đó, người quản lý
chỉ chịu trách nhiệm hoặc chỉ có quyền kiểm soát đối với chi phí phát sinh ở
bộ phận mình, không có quyền hạn đối với việc tiêu thụ và đầu tư vốn. Trung
tâm chi phí được chia thành 2 dạng:
- Trung tâm chi phí tiêu chuẩn: là trung tâm chi phí mà các yếu tố chi
phí và các mức hao phí về các ngồn lực sử dụng để sản xuất một đơn vị sản
phẩm, dịch vụ đều được xây dựng định mức cụ thể. Nhà quản trị trung tâm
chi phí tiêu chuẩn có trách nhiệm kiểm soát chi phí thực tế phát sinh, để vẫn
đảm bảo kế hoạch sản xuất cũng như đảm bảo kế hoạch chi phí cho từng đơn
vị sản phẩm, dịch vụ và tính cho toàn bộ. Trung tâm chi phí tiêu chuẩn được

nhận biết trên cơ sở là có thể xác định, đo lường một cách chắc chắn đầu ra,
và có thể xác định được định mức các đầu vào cần thiết để sản xuất ra một
đơn vị đầu ra đó. Theo đó, nhà quản lý không chịu trách nhiệm về những biến
động gây ra bởi các mức độ hoạt động cao hơn tiêu chuẩn của trung tâm, mà
chỉ chịu trách nhiệm về tính hiệu quả trong phạm vi hoạt động của trung tâm.
Đối với trung tâm này thì hiệu suất được đo lường bởi mối liên hệ giữa đầu
vào và đầu ra, còn tính hiệu quả được đo lường bằng mức độ trung tâm đạt
được sản lượng mong muốn tại những mức độ về chất lượng và thời gian đã
định. Các trung tâm chi phí tiêu chuẩn thường gắn với cấp quản trị cơ sở.
- Trung tâm chi phí dự toán: là trung tâm chi phí mà các yếu tố được
dự toán và đánh giá căn cứ trên nhiệm vụ được giao tính chung, không thể
xác định cụ thể cho từng đơn vị sản phẩm hoặc cho từng công việc của trung
tâm. Nhà quản trị trung tâm chi phí này có trách nhiệm kiểm soát chi phí thực
tế phát sinh sao cho phù hợp với chi phí dự toán, đồng thời đảm bảo thực hiện
nhiệm vụ được giao. Đặc điểm của trung tâm chi phí này là các đầu ra không
thể đo lường bằng các chỉ tiêu tài chính, hoặc không có sự liên hệ rõ ràng giữa


23

các chi phí đã được sử dụng để tạo ra các kết quả đầu ra tương ứng. Các trung
tâm chi phí dự toán bao gồm: Phòng kế toán, nhân sự … Đánh giá hiệu quả
của trung tâm này thường bằng cách so sánh chi phí giữa dự toán ngân sách
đã định và thực tế thực hiện. Tuy nhiên, cách so sánh này chỉ cho các kết quả
tương đối, nên cần phải kết hợp một số chỉ tiêu phi tài chính về mức độ và
chất lượng của các dịch vụ mà các trung tâm này cung cấp.

 Trung tâm doanh thu
Trung tâm doanh thu là trung tâm trách nhiệm mà người quản lý chỉ có
trách nhiệm với doanh thu cần tạo ra, không chịu trách nhiệm với lợi nhuận

và vốn đầu tư. Trung tâm doanh thu có quyền quyết định công việc bán hàng
trong khung giá cả cho phép để tạo ra doanh thu cho doanh nghiệp.
Trung tâm này thường gắn với bậc quản lý cấp trung hoặc cơ sở, đó là
các bộ phận kinh doanh trong đơn vị như các chi nhánh, khu vực tiêu thụ, …
Trên thực tế khi xác định chỉ tiêu đánh giá trung tâm doanh thu, cần
xem xét giá thành sản phẩm để khuyến khích trung tâm này tạo ra lợi nhuận
chứ không chỉ đơn thuần là tạo ra doanh thu. Các quản lý bán hàng thường
chiết khấu giảm giá hàng bán khi bán hàng số lượng lớn, hay thực hiện các
chiến dịch quảng cáo, khuyến mại. Các hoạt động này sẽ làm tăng doanh thu
nhưng đều làm giảm lợi nhuận mà doanh nghiệp chỉ chấp nhận trong một thời
gian kinh doanh có hạn. Như vậy, trung tâm này phải có chính sách bán hàng,
không chỉ dựa trên tình hình thị trường mà còn dựa trên giá thành, chi phí và
các mục tiêu lâu dài của công ty.

 Trung tâm lợi nhuận
Trung tâm lợi nhuận là trung tâm trách nhiệm mà nhà quản trị phải chịu
trách nhiệm với kết quả sản xuất và tiêu thụ của trung tâm. Trong trường hợp
này nhà quản lý có thể ra quyết định loại sản phẩm nào cần sản xuất, sản xuất
như thế nào, mức độ chất lượng, giá cả, hệ thống phân phối và bán hàng. Nhà


24

quản lý phải quyết định các nguồn lực sản xuất được phân bổ như thế nào
giữa các sản phẩm, điều đó cũng có nghĩa là họ phải đạt được sự cân bằng
trong việc phối hợp giữa các yếu tố giá cả, sản lượng, chất lượng và chi phí
Loại TTTN này thường được gắn với bậc quản lý cấp trung, đó là giám
đốc điều hành trong công ty, các đơn vị kinh doanh trong tổng công ty như
các công ty phụ thuộc, các chi nhánh, … Nếu nhà quản lý không có quyền
quyết định mức độ đầu tư tại TT của họ, thì tiêu chí lợi nhuận được xem là

tiêu chí thích hợp nhất để đánh giá kết quả thực hiện của trung tâm này.

 Trung tâm đầu tư
Đây là loại TTTN gắn với bậc quản lý cấp cao như Hội đồng quản trị
công ty, các công ty con độc lập, … Đó là sự tổng quát hóa của các trung tâm
lợi nhuận, trong đó khả năng sinh lời được gắn với các tài sản được sử dụng
để tạo ra lợi nhuận đó. Một trung tâm trách nhiệm được xem là một trung tâm
đầu tư khi nhà quản trị của trung tâm đó không những quản lý chi phí và
doanh thu, mà còn quyết định lượng vốn sử dụng để tiến hành quá trình đó.
Bằng cách tạo mối liên hệ giữa lợi nhuận và tài sản sử dụng để tạo ra
lợi nhuận đó, nhà quản trị có thể đánh giá lợi nhuận tạo ra có tương xứng với
đồng vốn đã bỏ ra hay không. Thông qua đó cũng hướng sự chú ý của nhà
quản lý đến mức độ sử dụng hiệu quả vốn lưu động, đặc biệt là các khoản
phải thu và hàng tồn kho được sử dụng tại trung tâm.
Tóm lại, các loại TTTN gắn liền với từng cấp quản trị trong một tổ
chức. Mỗi loại trung tâm trách nhiệm sẽ xác định trách nhiệm hoặc quyền
kiểm soát đối với từng đối tượng cụ thể của nhà quản trị các cấp.Trong thực
tế, việc chọn lựa một trung tâm thích hợp nhất cho một đơn vị trong tổ chức là
điều không dễ dàng. Cơ sở để xác định một bộ phận trong tổ chức là trung
tâm loại gì, là căn cứ trên loại nguồn lực hoặc trách nhiệm mà nhà quản lý
trung tâm trách nhiệm đó được giao. Do vậy, việc phân biệt rõ ràng loại


25

TTTN cho các bộ phận, đơn vị trong một tổ chức chỉ mang tính tương đối, và
phụ thuộc vào quan điểm của nhà quản trị cấp cao nhất. Trong thực tế, để có
thể phân loại các bộ phận, đơn vị trong tổ chức vào các trung tâm trách nhiệm
hợp lý thì nên căn cứ vào nhiệm vụ chính của bộ phận, đơn vị đó.
Các loại trung tâm trách nhiệm trên có mối liên hệ chặt chẽ với cơ cấu

tổ chức theo các cấp quản lý của một tổ chức, được thể hiện ở sơ đồ 1.2
Cơ cấu tổ chức
quản lý

Hệ thống kế toán
trách nhiệm

Đại diện chủ sở hữu
vốn – Hội đồng quản
trị

Trung tâm
đầu tư

- ROI
- RI

Tổng Công ty, các
Công ty, chi nhánh
độc lập

Trung tâm
lợi nhuận

- C.lệch lợi nhuận
- Tỷ lệ lợi nhuận/vốn

Các chi nhánh, bộ
phận bán hàng


Trung tâm
doanh thu

- C.lệch doanh thu
- Tỷ lệ doanh thu/vốn

Các đơn vị, bộ phận
sản xuất

Trung tâm
chi phí

- Chênh lệch chi phí
- Tỷ lệ chi phí/D.thu

Chỉ tiêu đánh giá

Sơ đồ 1.2 - Sơ đồ quan hệ giữa cơ cấu tổ chức quản lý và hệ thống KTTN
1.3.2. Tổ chức hệ thống báo cáo kế toán trách nhiệm
a. Đặc điểm báo cáo kế toán trách nhiệm
Theo R.S. Kaplan, một hệ thống báo cáo KTTN thường có những đặc
điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, mức độ chi tiết của thông tin trên các báo cáo sẽ khác nhau
đối với những cấp độ quản lý khác nhau. Theo đó, cấp quản lý càng thấp thì
các mức độ chi tiết của các chỉ tiêu báo cáo càng nhiều; những kết quả tổng
cộng từ báo cáo của một cấp quản lý sẽ được báo cáo lên cho cấp quản lý cao


×