Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở từ thực tiễn tỉnh Long An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG NGỌC TRANG

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT HÒA
GIẢI Ở CƠ SỞ ..........................................................................................................8
1.1. Khái niệm và đặc điểm của thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở ....................8
1.2. Vai trò của thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở ............................................15
1.3. Nội dung thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở ..............................................18
1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở...............25
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT HÒA GIẢI Ở CƠ
SỞTRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LONG AN ..................................................................29
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của hòa giải ở cơ sở tại Việt Nam...........29
2.2. Thực trạng pháp luật hòa giải cơ sở ở Long An ............................................34
2.3.Thực trạng thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở .............................................39
2.4. Nhận xét về thực trạng thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh
Long An.................................................................................................................48
Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP THỰC HIỆN PHÁP LUẬT HÒA GIẢI
CƠ SỞ Ở TỈNH LONG AN....................................................................................64


3.1. Quan điểm tăng cường thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh
Long An.................................................................................................................64
3.2. Các giải pháp tăng cường thực hiện pháp luật hòa giải cơ sở ở tỉnh Long An
...............................................................................................................................65
KẾT LUẬN ..............................................................................................................75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................77
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

HGCS

Hòa giải cơ sở

MTTQVN

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

NXB

Nhà xuất bản

UBND

Ủy Ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tình hình tổ chức và Hòa giải viên trên địa bàn tỉnh Long An (từ năm

1998 đến năm 2013)
Bảng 2.2:Tình hình tổ chức và Hòa giải viên trên địa bàn tỉnh Long An (từ năm
2014 đến năm 2016)
Bảng 2.3: Kết quả hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Long An (từ năm 1998 đến
năm 2013)
Bảng 2.4: Kết quả hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Long An (từ năm 2014 đến
năm 2016)


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hòa giải ở cơ sở có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống xã hội, vì nó trực
tiếp giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân, tạo
điều kiện thuận lợi cho các cấp chính quyền, tăng cường công tác quản lý xã hội ở
cơ sở; hạn chế đơn thư, khiếu kiện trong nhân dân, giảm bớt tình trạng gửi đơn
khiếu kiện lên Tòa án nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước, tiết kiệm thời gian,
công sức, tiền bạc của Nhà nước và nhân dân; góp phần phổ biến, giáo dục pháp
luật trong cán bộ và nhân dân.
Hiện nay, dưới tác động của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, xây dựng nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, đời sống kinh tế xã hội của người Việt Nam có những biến đổi sâu sắc, mạnh mẽ, nhưng truyền
thống, tâm lý dân tộc đã tồn tại ngàn đời nay vẫn được bảo tồn và phát huy. Đây là
tiền đề rất quan trọng cho hòa giải, tạo ra nhiều khả năng và cơ hội cho hòa giải
trong điều kiện mới. Trong bối cảnh đó, yêu cầu đặt ra cho Nhà nước là cần thay
đổi cách thức quản lý xã hội. Nhà nước ngày càng phải hạn chế sự can thiệp vào các
giữa các chủ thể, tôn trọng quyền tự do thỏa thuận, quyền tự định đoạt của các cá
nhân, tổ chức trong xã hội. Mặt khác, từ khi nước ta chuyển từ cơ chế tập trung bao
cấp sang cơ chế thị trường, các quan hệ xã hội ngày càng phức tạp, các tranh chấp,
mâu thuẫn trong nhân dân ngày càng tăng. Các cơ quan có thẩm quyền không thể
và cũng không cần giải quyết tất cả mọi tranh chấp, bất đồng giữa các thành viên
trong xã hội, khi mà người dân có thể tự dàn xếp ổn thỏa những xích mích trong

cộng đồng dân cư nơi họ sinh sống.
Tuy nhiên, với đặc điểm địa lý, văn hóa và sự phát triển của vùng, miền, hòa
giải ở cơ sở chịu sự chi phối và tác động bởi nhiều yếu tố, Long An có dân số là
1.542.606 người, với hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, người dân Long An
đa số sống bằng nghề nông và nuôi trồng thủy sản, họ sống trong các mối quan hệ
làng xóm, gia đình, dòng tộc ràng buộc chặt chẽ, nên rất coi trọng tình làng nghĩa
xóm. Khi có mâu thuẫn, xích mích xảy ra, họ luôn giữ phương châm xử sự: trong

1


gia đình thì "đóng cửa bảo nhau", ra bên ngoài thì "một điều nhịn, chín điều lành".
Hơn nữa, người dân còn có thói quen ứng xử theo đạo đức, phong tục, tập quán,
hơn là theo pháp luật. Họ thường tìm cách giải quyết êm thấm các mâu thuẫn, xích
mích trong nội bộ xóm giềng. Để giữ gìn mối quan hệ - yếu tố quyết định để tồn tại
được trong một cộng đồng, hòa giải vẫn được xem là phương án tối ưu khi mà trong
ý thức, tâm lý người dân, việc giải quyết các xích mích ở nơi "công đường" là một
điều rất nghiêm trọng, mất thể diện, tình làng nghĩa xóm, quan hệ giữa các bên khó
có thể hàn gắn như cũ. Họ thích giải quyết bằng "tình làng nghĩa xóm" hơn là giải
quyết theo pháp luật. Với nguồn gốc lịch sử, hoàn cảnh sống và tác động của môi
trường thiên nhiên đã hình thành nên tính cách người dân Long An. Ngoài tính hiếu
khách, hào phóng và đôn hậu, người Long An còn biết bao nét đẹp truyền thống
đáng trân trọng như tính nghĩa khí hào hiệp, tấm lòng nhân hậu bao dung, tư chất
thông minh và giàu nghị lực, tình yêu quê hương, đất nước và sự đoàn kết, nhất trí
trong nhân dân,…. Có thể nói, những đặc điểm tâm lý - xã hội đã ảnh hưởng không
nhỏ đến cách hành xử của người dân Long An khi xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn,
nhất là những mâu thuẫn, xích mích nhỏ trong cộng đồng dân cư và đặc biệt là việc
thực hiện pháp luật của người dân vùng này.
Trong điều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp, phát huy dân chủ, xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc phát huy tác dụng của hoạt động hoà giải ở

cơ sở càng trở nên có ý nghĩa đối với Việt Nam nói chung với tỉnh Long An nói
riêng. Mặc dù đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về hoạt động
hoà giải cơ sở, hòa giải cơ sở ở tỉnh Long An thời gian qua đã đạt nhiều kết quả
quan đáng ghi nhận, tiết kiệm được thời gian, công sức, tiền bạc của Nhà nước và
nhân dân; giải quyết kịp thời những vụ việc vi phạm pháp luật, giữ được an ninh,
trật tự, an toàn xã hội ở địa phương; nhưng thực tiễn việc thực hiện pháp luật về hoà
giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Long An vẫn còn những hạn chế nhất định. Thông
thường, những mâu thuẫn, va chạm trong cuộc sống, lúc đầu đơn giản, nhưng do
không được quan tâm giải quyết kịp thời cho nên đã nhanh chóng trở thành phức
tạp, thậm chí là nguyên nhân xuất hiện những điểm nóng về khiếu kiện.

2


Vì vậy, nghiên cứu toàn diện từ các vấn đề lý luận đến thực tiễn về thực hiện
pháp luật hòa giải cơ sở để có bức tranh đầy đủ về những thành tựu cũng như hạn
chế hiện nay của công tác quản lý nhà nước về hòa giải cơ sở là rất cần thiết. Đó là
lí do mà tác giả đã lựa chọn đề tài “Thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở từ thực
tiễn tỉnh Long An” làm đề tài luận văn thạc sĩ, nhằm tìm kiếm những giải pháp phù
hợp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở
trên địa bàn tỉnh Long An.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, nghiên cứu về lĩnh vực hòa giải ở cơ sở có nhiều tài
liệu và công trình nghiên cứu, như:
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước “Xung đột xã hội và đồng thuận
xã hội trong quá trình phát triển xã hội và quản lý xã hội – cơ sở lý luận và thực
tiễn” do GS.TS. Võ Khánh Vinh làm Chủ nhiệm, thuộc Chương trình khoa học
công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước “Quản lý phát triển xã hội trong tiến trình đổi
mới ở Việt Nam”, Hà Nội, 2009. Đề tài đã nêu ra những vấn đề lý luận cơ bản về
xung đột xã hội, coi đó là một trong những trạng thái thường xuyên của cuộc sống

con người. Xung đột xã hội là sự biểu hiện của những mâu thuẫn xã hội khách quan
hoặc chủ quan phản ánh sự đối lập giữa các cá nhân, các nhóm, các tầng lớp, các tổ
chức xã hội. Giải quyết được cuộc xung đột về thực chất là kết quả đạt được do có
sự thỏa thuận giữa các bên về vấn đề tranh chấp, trong đó hòa giải được coi là
phương thức tối ưu.
Luận án tiến sĩ luật học của Đào Thị Xuân Lan, Hòa giải trong giải quyết
tranh chấp kinh tế tại toà án Việt Nam, Viện Nhà nước và Pháp luật, 2004. Luận án
đã nêu được một số vấn đề lý luận cơ bản về hòa giải các tranh chấp kinh tế tại tòa
án ở Việt Nam sau khi Trọng tài kinh tế nhà nước không còn tồn tại và tòa án đảm
nhận nhiệm vụ xét xử các tranh chấp kinh tế, từng bước đáp ứng yêu cầu của nền
kinh tế thị trường. Luận án tuy không đề cập đến hòa giải ở cơ sở nhưng đã nêu ra
một số vấn đề liên quan đến các nguyên tắc và phạm vi hòa giải nói chung, có thể
vận dụng khi nghiên cứu thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở.

3


Đề tài khoa học cấp thành phố “Hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố Hà
Nội trong điều kiện hiện nay” do Học viện Tư pháp chủ trì, PGS.TS. Phan Hữu Thư
làm chủ nhiệm, Sở Khoa học và Công nghệ Hà Nội, tháng 3-2010. Đề tài chủ yếu
giải quyết một số vướng mắc trong thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở như việc
thành lập Ban Hòa giải cấp xã trong khi pháp luật không quy định; kinh phí cho
hoạt động hòa giải khó khăn; năng lực hòa giải viên thấp trong khi tính chất phức
tạp của tranh chấp, mâu thuẫn đã khác trước rất nhiều; giá trị thỏa thuận hòa giải
thấp, ít người thực hiện, nhất là hòa giải các tranh chấp về đất đai.
“Hỏi đáp về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở”, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia do TS.Nguyễn Duy Hùng và TS.Khuất Duy Kim Hải biên soạn năm 2010.
Cuốn sách “Hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến giáo dục pháp luật”, do nhà xuất bản
Tư pháp, Hà Nội ấn hành năm 2006 cũng có một số chương riêng về hòa giải ở cơ
sở và phổ biến giáo dục pháp luật.

Một số nhà nghiên cứu về xã hội học cũng có những công trình nghiên cứu
liên quan đến hòa giải ở cơ sở như GS.Tương Lai với bài viết “Đồng thuận xã hội”
trên tạp chí Tia Sáng, năm 2005; bài viết “Đồng thuận xã hội và việc xây dựng sự
đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Thị Lan đăng trên Tạp chí Lý
luận chính trị, số 6 năm 2006; Các bài viết của PGS.TS.Bùi Quang Dũng về “Giải
quyết xích mích trong nhóm gia đình: phác thảo từ những kết quả nghiên cứu định
tính”, “Giải quyết xích mích trong nội bộ nhân dân: phác thảo từ những kết quả
nghiên cứu định tính”, “Hòa giải ở nông thôn miền Bắc Việt Nam (giả thuyết dành
cho một cuộcnghiên cứu)” đăng trên tạp chí Xã hội học, số 4 năm 2001 và số 3 năm
2002. Một số bài viết trong Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề “Pháp luật
hòa giải” năm 2012 và “Thể chế hòa giải ở Việt Nam” số chuyên đề tháng 9 năm
2014 mới chỉ đề cập đến thực tiễn công tác hòa giải như kết quả, một số tồn tại
cũng như giải pháp nâng cao hiệu quả và chỉ trong phạm vi một địa bàn nhất định.
Sổ tay pháp luật hòa giải ở cơ sở năm 2014 do Nguyễn Thị Tố Nga- Vụ
trưởng Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật biên soạn; Sổ tay Hướng dẫn nghiệp vụ về
hòa giải ở cơ sở của Nhà xuất bản lao động - Xã hội năm 2014 do ThS.Nguyễn Thị

4


Lệ Huyền biên soạn; sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ về Hòa giải ở cơ sở năm 2017 của
Nhà xuất bản Lao động – Xã hội, do Nguyễn Thị Quyết biên soạn.
Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu của nước ngoài, đã có sự
nghiên cứu, khảo sát trực tiếp hoặc gián tiếp về hòa giải ở cơ sở ở Việt Nam với tư
cách là một phương thức giải quyết xung đột xã hội dưới dạng những tranh chấp,
xích mích nhỏ trong cộng đồng dân cư, hoặc cũng có thể coi hòa giải là một khía
cạnh của đời sống xã hội dân sự truyền thống của nông thôn Việt Nam. Đó là các
công trình nghiên cứu của nhóm tác giả về “Đánh giá xã hội dân sự ở Việt Nam”;
Dự án điều tra của Viện Xã hội học -Viện khoa học xã hội Việt Nam; hoặc là các
công trình nghiên cứu của các chuyên gia Nhật bản và Hàn Quốc.

Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện
việc thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh
Long An. Vì vậy, việc nghiên cứu những quy định của pháp luật về tổ chức, hoạt
động hòa giải ở cơ sở và việc áp dụng chúng trên địa bàn tỉnh Long An và đưa ra
những phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật hòa
giải ở cơ sở là rất cần thiết.
3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
- Phân tích những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở, vai
trò của thực hiện pháp luật hòa giải đó đối với đời sống xã hội và các yếu tố tác
động, ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật đối với công tác hòa giải ở cơ sở.
- Phân tích đánh giá thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật về tổ
chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh. Từ đó đưa ra những đề xuất,
phương hướng và giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác hòa giải ở cơ
sở trên địa bàn tỉnh Long An.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Chủ yếu là các quy định, những vấn đề cơ bản thực
hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở và giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hòa giải ở
cơ sở. Trong đó, tập trung nghiên cứu thực trạng giáo dục pháp luật thông qua hoạt
động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Long An, thông qua việc tổng kết, đánh giá

5


của cơ quan chức năng, những nội dung trên đã bộc lộ những hạn chế nhất định.
Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả công tác hòa giải ở cơ
sở trên địa bàn tỉnh Long An.
- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu một cách tương đối toàn diện, hệ thống
pháp luật Việt Nam về công tác giáo dục pháp luật hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh
Long An, nhằm đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục pháp luật
thông qua hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Long An.

5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau, trong đó có các phương pháp cụ thể như sau:
Phương pháp phân tích tổng hợp: Tác giả đã đưa ra những quy định của
pháp luật trên cơ sở đó phân tích những điểm phù hợp, những điểm chưa phù hợp
với thực tế áp dụng trên địa bàn tỉnh Long An.
Phương pháp thống kê: Thông qua thống kê các số liệu về giáo dục pháp luật
và hòa giải trên địa bàn tỉnh Long An.
Phương pháp so sánh: trên cơ sở những phân tích, thống kê số liệu qua các
giai đoạn về thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở, luận văn đánh giá, so sánh, đối
chiếu giữa quy định pháp luật với nội dung vấn đề tranh chấp. Từ đó,, rút ra được
những hạn chế, nguyên nhân, từ đó đưa ra những đề xuất, giải pháp để hoàn thiện.
Phương pháp lịch sử: Được trình bày đa phần trong Chương 1 và Chương 2
của luận văn. Việc sử dụng phương pháp này nhằm nêu lên quá trình hình thành và
phát triển của hòa giải cơ sở; đường lối, cách thức, quy trình thực hiện hòa giải cơ
sở qua các giai đoạn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về khoa học: Có giá trị tham khảo đối với nghiên cứu giảng dạy về Hòa giải
ở cơ sở
Về thực tiễn: Giải pháp có ý nghĩa đối với các cơ quan thực hiện hoạt động
Hòa giải tại cơ sở

6


7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục và mục
lục, nội dung luận văn được nghiên cứu gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh

Long An
Chương 3: Quan điểm, giải pháp tăng cường thực hiện pháp luật hòa giải ở
cơ sở trên địa bàn tỉnh Long An.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
1.1. Khái niệm và đặc điểm của thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hòa giải ở cơ sở
1.1.1.1. Khái niệm hòa giải ở cơ sở
Hiện nay có nhiều quan niệm, khái niệm khác nhau về hòa giải, trong khoa
học cũng như trong thực tiễn, tùy theo cách tiếp cận phù hợp với từng loại hình mà
có các khái niệm khác nhau. Một số luật gia cho rằng hòa giải là chế định pháp luật
hòa giải, coi hòa giải như một nguyên tắc, một trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án
dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế, lao động của Tòa án; còn các nhà thực tiễn thì
coi hòa giải là những hành vi thuyết phục các bên tranh chấp xóa bỏ những tranh
chấp, bất đồng, mâu thuẫn. Trên thế giới có nhiều quan niệm về hòa giải. Theo Hiệp
hội hòa giải Hoa Kỳ quan niệm "Hòa giải là một quá trình, trong đó bên thứ ba giúp
hai bên tranh chấp ngồi lại với nhau để cùng giải quyết vấn đề của họ". Theo quan
niệm này thì vai trò của người hòa giải là người trung gian giúp hai bên tranh chấp
ngồi lại với nhau giải quyết những mâu thuẫn, bất đồng của họ trên cơ sở tự
nguyện, chứ người hòa giải không tham gia vào quá trình giải quyết, vào việc thỏa
thuận của các bên. Theo Từ điển thuật ngữ của ILO/EASMAT về quan hệ lao động
và các vấn đề có liên quan thì coi:
Hòa giải là sự tiếp nối của quá trình thương lượng, trong đó các bên cố gắng
làm điều hòa những ý kiến bất đồng. Bên thứ ba đóng vai trò người trung gian hoàn
toàn độc lập với hai bên..., không có quyền áp đặt..., hành động như một người môi

giới, giúp hai bên ngồi lại với nhau và tìm cách đưa các bên tranh chấp tới những
điểm mà họ có thể thỏa thuận được [10, tr.29].
Theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Khoa học xã hội phát hành năm
1992, hòa giải được hiểu là "thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung đột hoặc
xích mích một cách ổn thỏa" và theo Đại Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Văn
hóa - Thông tin phát hành năm 1998 thì hòa giải là “làm cho ổn thỏa tình trạng mâu

8


thuẫn, xích mích giữa hai bên” [72, tr.29]. Các quan niệm này cũng chỉ nêu lên
phương thức và mục đích của ḥa giải nhưng chưa khái quát được bản chất, nội dung
và các yếu tố cấu thành các loại hình hòa giải. Theo Từ điển Luật học do Nhà xuất
bản Bách Khoa, xuất bản năm 2006 thì hòa giải "là thuyết phục các bên tranh chấp
tự giải quyết tranh chấp của mình một cách ổn thỏa" [71, tr.365]. Như vậy, có rất
nhiều quan niệm về hòa giải trong lý luận cũng như trong thực tiễn. Luật hòa giải ở
cơ sở năm 2013 giải thích hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ
các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh
chấp, vi phạm pháp luật và “cơ sở” là thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân
phố, khu phố, khối phố và cộng đồng dân cư khác.
Tác giả Luận văn cho rằng hòa giải cơ sở là hình thức giải quyết tranh chấp,
mâu thuẫn giữa các bên, có sự tham gia của bên thứ ba với vai trò trung gian, giúp
các bên đạt được sự thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật, đạo đức xã hội và
tự nguyện thực hiện những thỏa thuận đó.
Hiện nay, ở nước ta có nhiều hình thức hòa giải với những phạm vi, đối
tượng, phương pháp, trình tự, thủ tục... tiến hành hòa giải khác nhau như: hòa giải
tại Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, hôn nhân và gia đình, hòa
giải các tranh chấp lao động, hòa giải của trọng tài kinh tế, hòa giải ở cơ sở (hòa
giải các tranh chấp nhỏ trong nội bộ nhân dân).
Từ thực tiễn công tác hòa giải thời gian qua đã khẳng định rõ vị trí, vai trò, ý

nghĩa quan trọng của hòa giải viên trong hoạt động hòa giải ở cơ sở. Hòa giải viên
thực hiện việc hòa giải trên cơ sở pháp luật, đạo đức xã hội và phong tục tập quán
tốt đẹp mang tính nhân dân, nhân đạo và nhân văn sâu sắc, thể hiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, thông qua đó nhân dân, xã hội trực tiếp tham gia quản lý nhà nước và
quản lý mọi mặt đời sống xã hội. Thông qua hoạt động hòa giải, các bên tranh chấp
thỏa thuận, tự nguyện giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp một cách kịp thời, không để
các mâu thuẫn, tranh chấp nhỏ trở thành lớn, việc đơn giản trở nên phức tạp, gây
xung đột xã hội, từ đó góp phần giải tỏa mâu thuẫn, tranh chấp, vướng mắc pháp
luật, ngăn ngừa phát sinh tội phạm, giữ gìn tình đoàn kết trong nội bộ nhân dân, ổn

9


định trật tự an toàn xã hội. Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013 tiếp tục kế thừa và phát
triển khái niệm hòa giải ở cơ sở như sau: Hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên
hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các
mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật theo quy định của Luật này. [51] Như
vậy, khái niệm hòa giải ở cơ sở trong Luật hòa giải ở cơ sở có kế thừa, phát triển,
mang tính khoa học và phù hợp với thực tiễn hiện nay.
1.1.1.2. Đặc điểm của hòa giải ở cơ sở
Hòa giải ở cơ sở với ý nghĩa là phương thức giúp các bên thỏa thuận, tự
nguyện giải quyết với nhau các vi pham pháp luật và tranh chấp, mâu thuẫn nhằm
giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân, củng cố và phát huy tình cảm, đạo lý,
truyền thống tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng dân cư, phòng ngừa và hạn chế vi
phạm pháp luật, bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư, Hòa giải ở
cơ sở có một số đặc điểm sau:
- Hòa giải ở cơ sở là hoạt động thuyết phục vận động, giúp đỡ các bên tranh
chấp thông cảm hiểu nhau hơn, tự dàn xếp, thỏa thuận để xóa bỏ tranh chấp, nối lại
tình cảm gắn bó từ gia đình, xóm giềng, góp phần giữ gìn ổn định, trật tự an toàn xã
hội ở cơ sở.

- Hòa giải ở cơ sở được tiến hành bởi hòa giải viên của tổ hòa giải. Đây là
những người nhiệt tình, tâm huyết, có tinh thần trách nhiệm cao đối với cộng đồng,
ở nhiều độ tuổi khác nhau, hoạt động không lương, phụ cấp của Nhà nước khi tham
gia hòa giải.
- Phạm vi hòa giải là những tranh chấp, mâu thuẫn, vi phạm pháp luật được
giới hạn theo quy định của pháp luật hòa giải ở cơ sở.
- Hòa giải ở cơ sở thường được thực hiện linh hoạt, có sự kết hợp vận dải
đặt con người vào vị trí trung tâm, phù hợp với đạo đức xã hội.
3.1.3. Thực hiện pháp luật hòa giải cơ sở luôn lấy mục tiêu hướng đến là
tôn trọng quyền và lợi ích của nhân dân
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền thì trong mọi lĩnh vực, tôn
trọng quyền và lợi ích của nhân dân luôn được đặt lên hàng đầu. Mặt khác, hòa giải
viên cần phải tiếp cận đối tượng để nắm bắt thông tin về vụ, việc hòa giải và nhu
cầu lợi ích của các bên. Trong lĩnh vực hòa giải, việc tôn trọng quyền và lợi ích của
nhân dân sẽ là cơ sở để giúp hòa giải viên thực hiện tốt nhiệm vụ hòa giải của mình.

64


3.2. Các giải pháp tăng cường thực hiện pháp luật hòa giải cơ sở ở tỉnh
Long An
3.2.1. Nâng cao nhận thức của cán bộ, nhân dân về vai trò của công tác
hòa giải ở cơ sở, phát huy vai trò của các chủ thể thực hiện pháp luật hòa giải
HGCS với chức năng là hòa giải các vụ việc xích mích, mâu thuẫn, tranh
chấp nhỏ trong nội bộ nhân dân, thì ngoài việc căn cứ vào pháp luật, còn vận dụng
truyền thống văn hóa, phong tục tập quán, hương ước, quy ước, tình làng, nghĩa
xóm để hòa giải. Với đặc điểm truyền thống văn hóa bao đời nay của người dân
Long An và cơ sở, căn cứ để hòa giải khi có mâu thuẫn, tranh chấp xảy ra, đã đặt ra
vấn đề cần phải phát huy hơn nữa nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sức dân tộc để
vận dụng trong HGCS. Hiện nay trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa, yêu cầu đặt ra cho nhà nước là cần thay đổi cách thức
quản lý xã hội. Nhà nước ngày càng phải hạn chế sự can thiệp vào các quan hệ có
tính chất “tư” giữa các chủ thể, tôn trọng quyền tự do thỏa thuận, quyền tự định
đoạt của các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Mặc khác, từ khi nước ta chuyển từ cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, thì các quan hệ xã hội ngày
càng phức tạp, các tranh chấp, mâu thuẫn trong nhân dân ngày càng tăng về số
lượng, cũng như mức độ đa dạng, phức tạp ngày càng nhiều. Đặc biệt, ở Long An,
với đa số sống bằng nghề nông, và trình độ pháp luật còn hạn chế, hàng ngày người
dân chỉ biết ruộng đồng, “cây đa, bến nước, con đò”… thì các mâu thuẫn, tranh
chấp nhỏ, lẻ ngày càng nhiều và phức tạp. Nhất là các lĩnh vực tranh chấp về đất
đai, thừa kế, trao đổi, mua bán…cần phải được giải quyết kịp thời.
Ngoài truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán chung của người Việt Nam,
các dân tộc còn có những nền văn hóa, phong tục, tập quán riêng của mình và nó trở
thành chuẩn mực đạo đức trong cuộc sống hàng ngày của họ. Nhưng việc vận dụng,
phát huy văn hóa, phong tục, tập quán, trong từng lĩnh vực của đời sống xã hội lại
tùy thuộc vào truyền thống, tâm lý xã hội của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng và phụ
thuộc vào yêu cầu cụ thể của lĩnh vực đó. Các nhà khoa học đã tổng kết, người Việt
Nam nặng về duy tình hơn duy lý, luôn coi trọng giá trị đạo đức trong cách ứng xử,

65


trong hành động hàng ngày, và vì vậy văn hóa, phong tục, tập quán... trong nhiều
trường hợp cụ thể lại có sức mạnh hơn cả pháp luật. Điều đó chi phối khá mạnh mẽ
văn hóa pháp luật của cộng đồng và của mỗi thành viên trong cộng đồng đó. Những
chuẩn mực đạo đức được nhận diện ở từng lĩnh vực của đời sống xã hội rất đa dạng.
Như y đức trong nghề y, đạo đức của nhà giáo trong nghề sư phạm, đạo đức thể
thao trong thể thao, đạo đức của nhà báo trong hoạt động báo chí.
Hòa giải là một hoạt động không thể thiếu được và có vai trò rất quan trọng
trong quản lý nhà nước ở địa phương và trong đời sống xã hội, hoạt động hòa giải

góp phần giữ gìn truyền thống đoàn kết, tính nhân văn, nhân ái trong cộng đồng, tiết
kiệm được kinh phí, thời gian, công sức của các bên tranh chấp, cơ quan nhà nước;
khắc phục tình trạng khiếu kiện và bất đồng trong Nhân dân, tạo dựng lòng tin, thúc
đẩy quan hệ xã hội phát triển. Đồng thời, hòa giải còn góp phần quan trọng vào
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người
dân. Trong nhân dân, với địa bàn dân cư dàn trải, đa số sống ở nông thôn nên việc
đi lại còn nhiều khó khăn, các phương tiện thông tin, truyền thông chưa được trải
đều nên công tác tuyên truyền còn nhiều hạn chế, đặc biệt mỗi khi có tranh chấp,
mâu thuẫn xảy ra thì họ chưa biết được phải đến đâu để nhờ giải quyết, mà chỉ theo
“thói quen” là ra “chính quyền” địa phương hoặc Tòa án giải quyết, chưa biết được
Tổ hòa giải - tổ chức tự quản của Nhân dân với nhiệm vụ giải quyết các mâu thuẫn,
xích mích nhỏ, đem lại sự bình yên cho cộng đồng.
Để công tác hòa giải ngày một phát triển, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra,
cần nâng cao nhận thức của cán bộ và Nhân dân về ý nghĩa, vai trò của hòa giải ở
cơ sở trong đời sống xã hội hiện nay, làm cho mỗi cán bộ và Nhân dân thấy được
trách nhiệm của mình và nhìn nhận đúng về công tác này. Qua đó, cần quan tâm
đúng mức và có hướng dẫn, chỉ đạo sâu sát, kịp thời biểu dương, khen thưởng
những tập thể, cá nhân vì sự bình yên của cộng đồng, vì “tình làng, nghĩa xóm” đã
không ngại gian khó để giải quyết các tranh chấp giữa các bên. Ngoài ra, Ủy ban
MTTQ và các tổ chức thành viên của Mặt trận cần tích cực tham gia quản lý đối với
công tác hòa giải ở cơ sở. Điều 30 Luật Hòa giải ở cơ sở quy định "Ủy ban MTTQ

66


Việt Nam các cấp tham gia quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở; vận động tổ chức,
cá nhân chấp hành pháp luật, giám sát việc thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở;
phối hợp kiểm tra, sơ kết, tổng kết và khen thưởng về hòa giải ở cơ sở. Các tổ chức
thành viên của Mặt trận trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình có trách
nhiệm thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở theo quy định của pháp luật". Do vậy,

việc tham gia xây dựng, củng cố Tổ hòa giải cũng là trách nhiệm của Ủy ban
MTTQ và các đoàn thể ở cơ sở.
Hòa giải không chỉ là một biện pháp giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp
mà còn góp phần giải quyết đáng kể các đơn thư khiếu nại, tố cáo chuyển về trên và
là một hình thức phát huy dân chủ ở cơ sở, thực hiện phong trào “toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư”. Chỉ thị của Bộ Chính trị về xây dựng và
thực hiện dân chủ ở cơ sở đã chỉ rõ:
Mở rộng các hình thức tự quản của Nhân dân, công nhân, cán bộ, công chức
tự bàn bạc và thực hiện trong khuôn khổ của pháp luật những công việc mang tính
xã hội hóa, có sự hỗ trợ của chính quyền, cơ quan, đơn vị như xây dựng quy ước,
hương ước, làng văn hóa, xây dựng Tổ hòa giải [24].
Trong giai đoạn xây dựng, phát triển đất nước hiện nay, hòa giải góp phần
vào việc ổn định trật tự, an toàn xã hội ở địa phương, giữ gìn truyền thống văn hóa,
đoàn kết, tương thân, tương ái trong cộng đồng dân cư; góp phần vào việc dân chủ
hóa mọi mặt của đời sống xã hội. Vì vậy cần phải nâng cao nhận thức của cán bộ,
cơ quan chính quyền và Nhân dân về vai trò, tầm quan trọng của công tác hòa giải ở
cơ ở để hoạt động hòa giải ở cơ sở ngày càng đạt hiệu quả cao.
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật hòa giải ở cơ sở
Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Tổ hòa giải vừa là
yêu cầu cấp bách do thực tiễn khách quan đòi hỏi, vừa là hướng hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả hoạt động của Tổ hòa giải. Pháp luật hòa giải đã xây dựng các chuẩn
mực pháp lý cho các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân thực hiện quản lý
và tham gia công tác hòa giải và là cơ sở pháp lý để củng cố, kiện toàn tổ chức, tăng
cường hoạt động của Tổ hòa giải, bảo đảm các vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ

67


trong nhân dân được phát hiện kịp thời và được giải quyết ngay từ cơ sở. Tuy nhiên,
để tiếp tục hoàn thiện bảo đảm hiệu lực pháp lý cao cho tổ chức và hoạt động hòa

giải ở cơ sở, đòi hỏi nhà nước phải sớm ban hành cụ thể hóa các quy định pháp luật
hòa giải như:
- Hoàn thiện pháp luật phải phù hợp với các biện pháp thực thi Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020 theo tinh thần Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ
Chính trị. Trước hết, việc hoàn thiện này phải tiến hành trên cơ sở thực tiễn Việt
Nam, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và tổ chức thi hành
pháp luật, kết hợp hài hòa bản sắc văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Pháp
luật hòa giải ở cơ sở liên quan trực tiếp đến những lĩnh vực như dân chủ ở cơ sở,
quyền tự quản của nhân dân, trật tự an toàn xã hội... Vì vậy, cần thể hiện được tính
đồng bộ của các quy định pháp luật về công tác hòa giải ở cơ sở trong hệ thống
pháp luật của nước ta để tránh chồng chéo, mâu thuẫn và cục bộ, bảo đảm một hành
lang pháp lý phù hợp cho tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở có hiệu quả cao.
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải tranh chấp, mâu thuẫn
nhỏ phải đáp ứng yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và phát huy dân chủ. Yêu cầu này đòi hỏi tăng tính chủ
động, tích cực của nhân dân trong giải quyết các vấn đề xã hội. Hòa giải là hiện
thân của tư tưởng "lấy dân làm gốc". Trong đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của
Đảng thì sự củng cố Nhà nước xã hội chủ nghĩa không thể thiếu vai trò tham gia
quản lý nhà nước, quản lý xã hội của nhân dân.
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải phải theo hướng phù hợp
với việc kiện toàn các thiết chế xã hội tự nguyện trong điều kiện xây dựng và củng cố
xã hội dân sự định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan niệm hiện đại cho rằng một xã hội
tiến bộ, văn minh là một xã hội mà ở đó Nhà nước không nhất thiết phải can dự vào
tất cả mọi hoạt động của đời sống dân cư. Nhà nước chỉ nắm những gì, điều chỉnh
những gì cần thiết nhất, còn lại giao cho nhân dân (cộng đồng) thực hiện.

68



Tuy Luật Hòa giải ở cơ sở và Nghị định quy định chi tiết một số điều của
Luật Hòa giải ở cơ sở đã được ban hành. Nhưng qua thực tiễn thực hiện pháp luật
hòa giải ở cơ sở cho thấy Luật chưa điều chỉnh hết những vấn đề phát sinh trong
thực tế. Vì vậy, cần tiếp tục điều chỉnh, bổ sung để hoàn thiện hệ thống các văn bản
pháp luật hòa giải ở cơ sở, kịp thời tháo gỡ những khó khăn trong quá trình thực
hiện. Cần có quy định riêng của Chính phủ, Bộ Tư pháp và các cơ quan liên quan.
Vì qua thực tế, hiện nay trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ của các hòa giải
viên và những người làm công tác hòa giải ở Long An là thấp nhất; nếp sống, văn
hóa, phong tục tập quán của người dân Long An cũng có nhiều nét khác so với các
vùng, miền trong cả nước. Mà hòa giải thì căn cứ vào pháp luật, phong tục, tập quán
ở địa phương để giải quyết. Nhưng hiện nay nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân thì yêu cầu những người
đứng ra làm công tác hòa giải phải hiểu biết pháp luật, các phong tục tập quán phù
hợp ở địa phương phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc, được mọi người và
pháp luật thừa nhận là quan trọng nhất.
3.2.3. Hoàn thiện về tổ chức bộ máy thực hiện hòa giải ở cơ sở
Luật Hòa giải cần mở rộng thêm phạm vi điều chỉnh bao gồm cả Ban hòa
giải ở cơ sở, đồng thời quy định cụ thể về cơ cấu tổ chức của Ban hòa giải. Vì hiện
nay, nhất là từ sau khi Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực thi hành thì ở nhiều địa
phương trong cả nước có mô hình Ban hòa giải (Hội đồng hòa giải) được thành lập
ở xã, phường, thị trấn. Ban hòa giải (Hội đồng hòa giải) cấp xã có trách nhiệm giải
quyết những vụ việc do Tổ hòa giải hòa giải không thành chuyển lên hoặc đối với
những vụ việc phức tạp thì Ban hòa giải phối hợp cùng Tổ hòa giải để giải quyết.
Và thực tế cho thấy, mô hình Ban hòa giải cấp xã đã phát huy tác dụng rất tốt trong
việc giải quyết những vụ việc phức tạp, liên quan nhiều đến pháp luật, đặc biệt là
các tranh chấp trong lĩnh vực đất đai hoặc tranh chấp trong sinh hoạt cộng đồng.
Tuy nhiên, hiện nay hoạt động của Ban hòa giải (Hội đồng hòa giải) cấp xã chưa
được pháp luật điều chỉnh một cách cụ thể, thống nhất mà chỉ quy định ở một điều
duy nhất của Luật Đất đai năm 2013 (Điều 202, thay thế Điều 135 Luật Đất đai năm


69


2003) là khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh
chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở, nếu các bên tranh chấp không hòa giải được
thì UBND xã, phường, thị trấn có trách nhiệm hòa giải. Chính vì vậy, trong Luật
Hòa giải ở cơ sở cần xem xét quy định thêm mối quan hệ giữa mô hình Tổ hòa giải
ở thôn, tổ dân phố, cụm dân cư với mô hình Ban hòa giải (Hội đồng hòa giải) cấp
xã.
- Về tiêu chuẩn hòa giải viên: Như đã trình bày, hiện nay các địa phương
đang gặp khó khăn trong việc xác định người "có hiểu biết pháp luật" để giới thiệu,
bầu vào thành viên Tổ hòa giải, vì hiện tại hầu hết các hòa giải viên là những người
chỉ tốt nghiệp trung học phổ thông trở xuống, vậy họ có đáp ứng tiêu chuẩn này hay
không và căn cứ vào đâu để xác định họ "có hiểu biết pháp luật". Do đó, Bộ Tư
pháp cần có văn bản hướng dẫn cụ thể tiêu chí xác định "có hiểu biết pháp luật",
làm cơ sở cho địa phương vận dụng trong việc giới thiệu, lựa chọn bầu người có đủ
tiêu chuẩn "có hiểu biết pháp luật" vào tổ viên Tổ hòa giải cho phù hợp theo quy
định của Luật.
- Về thời gian phân công hòa giải viên tiến hành hòa giải: Cần quy định cụ
thể thời gian từ khi Tổ trưởng Tổ hòa giải tiếp nhận vụ việc đến khi phân công hòa
giải viên tiến hành hòa giải. Vì hiện nay, Luật hòa giải ở cơ sở, Nghị định số
15/2014/NĐ-CP của Chính phủ, chưa có quy định về vấn đề này. Và thực tế có
những vụ việc nếu đem ra hòa giải sẽ bất lợi cho một trong hai bên tranh chấp là
người thân, bạn bè... của Tổ trưởng Tổ hòa giải, do đó họ sẽ kéo dài thời gian,
không phân công hòa giải viên tiến hành hòa giải, dẫn đến vụ việc tranh chấp chậm
được hòa giải; đồng thời làm mất niềm tin của người dân đối với hoạt động này.
- Trách nhiệm của các cơ quan: Ủy ban MTTQ tỉnh, Sở Tư pháp, các cơ
quan liên quan, UBND và cơ quan Tư pháp các địa phương trong việc phối hợp và
hướng dẫn thực hiện công tác HGCS. Đến nay sự phối hợp giữa MTTQ và cơ quan

tư pháp có lúc, có nơi còn hạn chế, chưa gắn hoạt động Hòa giải cơ sở với việc vận
động và thực hiện các phong trào quần chúng địa phương; chưa xây dựng được kế
hoạch hoặc quy chế phối hợp; chưa cụ thể vai trò, trách nhiệm của mỗi ngành, mỗi

70


tổ chức trong việc xây dựng và bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ hòa giải viên.
Vai trò của MTTQ, cơ quan tài chính trong công tác hòa giải chưa phát huy hết
chức năng và nhiệm vụ.
- Về tổ chức: cần quy định cụ thể số lượng Tổ hòa giải, hòa giải viên và cơ
cấu thành viên Tổ hòa giải. Vì theo quy định tại Nghị định số 15/2014/NĐ-CP,
cũng như Điều 12 Luật Hòa giải ở cơ sở:
Tổ hòa giải có tổ trưởng và các hòa giải viên. Mỗi Tổ hòa giải có từ 03 hòa
giải viên trở lên, trong đó có hòa giải viên nữ. Đối với vùng có nhiều đồng bào dân
tộc thiểu số, Tổ hòa giải phải có hòa giải viên là người dân tộc thiểu số.
Chủ tịch UBND cấp xã quyết định số lượng Tổ hòa giải, hòa giải viên trong
một Tổ hòa giải căn cứ vào đặc điểm, tình hình kinh tế - xã hội, dân số của địa
phương và đề nghị của Ban thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp xã.
Do đó, hiện nay các địa phương có số lượng thành viên Tổ hòa giải rất khác
nhau, không đồng đều, có nơi 03 người, nhưng cũng có nơi 10 người nên trong quá
trình hoạt động cũng gặp nhiều khó khăn đối với những Tổ có số lượng thành viên
ít nhưng lại gặp phải những vụ việc khó khăn, phức tạp, cần có đông thành viên
tham gia hoặc trong những trường hợp các hòa giải viên bận việc gia đình, đồng áng
nên không có mặt để giải quyết kịp thời khi có tranh chấp xảy ra. Còn nếu số lượng
đông quá thì thực tế chỉ có một số người tham gia hòa giải, còn lại chỉ trên danh
nghĩa và do thường xuyên thay đổi nên làm ảnh hưởng đến hoạt động của tổ.
Về chức danh tổ trưởng Tổ hòa giải hiện nay cũng không thống nhất. Tổ
trưởng Tổ hòa giải có nơi là Bí thư chi bộ, có nơi là cán bộ Mặt trận, có nơi là
Trưởng ấp, có nơi lại là cán bộ Hội phụ nữ, Hội Nông dân. Một thực tế là nơi nào

thành lập Tổ hòa giải do Bí thư chi bộ hoặc Trưởng ấp làm tổ trưởng Tổ hòa giải thì
hiệu quả hoạt động cao và duy trì được thường xuyên, vì gắn được trách nhiệm
công việc với chức danh của họ tại cộng đồng dân cư.
- Về mối liên hệ giữa Tổ hòa giải và Ban hòa giải trong quá trình giải quyết
các tranh chấp đất đai và các vụ việc khác. Ban hòa giải xã, phường, thị trấn trước
đây và hiện nay phải giải quyết rất nhiều vụ việc do Tổ hòa giải chuyển lên như:

71


các mâu thuẫn xích mích trong cộng đồng dân cư, các tranh chấp dân sự, đất đai,
hôn nhân gia đình... nhưng thực tế chưa có văn bản nào quy định về vấn đề này mà
chỉ quy định về hòa giải trong lĩnh vực đất đai, kể từ khi có Luật Đất đai năm 2003
(nay được thay thế bởi Luật Đất đai năm 2013). Vì vậy căn cứ theo thẩm quyền,
UBND các tỉnh, thành phố cần có văn bản quy định về Ban hòa giải. Đồng thời, cần
quy định cụ thể chế độ hỗ trợ cho hoạt động của Ban hòa giải, vì trong thời gian qua
Ban hòa giải ở các xã, phường, thị trấn tham gia giải quyết rất nhiều vụ việc hòa
giải không thành do Tổ hòa giải chuyển lên, hạn chế được số lượng lớn đơn thư
khiếu nại, tố cáo gửi đến các cơ quan chức năng giải quyết.
3.2.4. Đổi mới công tác bồi dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp vụ cho
những người làm công tác hòa giải ở cơ sở
Thực trạng về trình độ của hòa giải viên ở Long An hiện nay là một trong
những nguyên nhân làm hạn chế kết quả hòa giải. Nhiều hòa giải viên trình độ hiểu
biết pháp luật còn hạn chế, kỹ năng hòa giải yếu nhưng lại không được cập nhật, bồi
dưỡng kiến thức pháp luật thường xuyên, nhất là những lĩnh vực pháp luật liên quan
đến công tác hòa giải. Trong khi hiện nay, để thực hiện tốt công tác quản lý nhà
nước, để phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, chính trị, pháp luật ðýợc ban hành, sửa
ðổi, ngày càng nhiều. Nếu hòa giải viên chỉ vận dụng uy tín, đạo đức, phong tục, tập
quán để hòa giải, mà kiến thức, trình độ hiểu pháp luật không bằng những người mà
họ tiến hành hòa giải hoặc vận dụng pháp luật sai thì việc hòa giải sẽ rất khó thuyết

phục, phản tác dụng, làm cho vụ việc càng thêm phức tạp. Vì vậy, việc bồi dưỡng
kiến thức pháp luật là rất cần thiết, những kiến thức về nghiệp vụ hòa giải, kinh
nghiệm thực tiễn cho hòa giải viên nhằm đáp ứng nhiệm vụ của công tác hòa giải là
một yêu cầu khách quan. Có thể nói, một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến
hiệu quả công tác hòa giải là việc đổi mới việc bồi dưỡng kiến thức pháp luật và
nghiệp vụ hòa giải cho đội ngũ những người làm công tác hòa giải ở cơ sở, làm cho đối
tượng này ngày càng giỏi về chuyên môn nghiệp vụ vận dụng kịp thời, chính xác các
văn bản pháp luật, các hương ước, quy ước của địa phương mới ban hành.
3.2.5. Tăng cường hướng dẫn, kiểm tra đối với công tác hòa giải ở cơ sở

72


Thực tiễn hoạt động của công tác HGC ở tỉnh Long An cho thấy, nơi nào
được sự quan tâm theo dõi, chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời từ cấp ủy đảng, chính quyền
các cấp thì công tác hòa giải ở đó luôn đạt hiệu quả cao. Với việc thực hiện đúng
các chức năng nhiệm vụ được giao như: ban hành Chỉ thị, Kế hoạch, Quy chế phối
hợp..., tạo điều kiện về cơ sở vật chất, kinh phí, khen thưởng kịp thời và có mối
quan hệ chặt chẽ với các cơ quan liên quan thì nơi đó công tác hòa giải phát triển,
phong trào hòa giải lớn mạnh, tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm giảm, trật tự
an ninh xã hội được ổn định. Ngược lại nơi nào cấp ủy đảng và chính quyền thiếu
quan tâm, thiếu chỉ đạo sát sao thì công tác hòa giải không phát huy được hiệu quả,
các mâu thuẫn tranh chấp trong nội bộ nhân dân không được giải quyết kịp thời, dẫn
đến tình trạng đơn thư khiếu kiện vượt cấp tràn lan, vi phạm pháp luật và tội phạm
diễn ra phức tạp, có hướng gia tăng, an ninh trật tự - xã hội mất ổn định.
Hàng năm, cấp ủy, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp phải
đưa công tác Hòa giải vào chương trình mục tiêu chung của hoạt động phát triển
kinh tế - xã hội ở địa phương. Định kỳ báo cáo tình hình hoạt động Hòa giải để cơ
quan quản lý cấp trên nắm bắt kết quả hoạt động và kịp thời giải quyết những khó
khăn, vướng mắc trong công tác Hòa giải. Trên cơ sở các quy định của pháp luật

hòa giải các ngành, các cấp tăng cường thực hiện nghiêm các nhiệm vụ đề ra; tăng
cường công tác hướng dẫn, kiểm tra, để giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng
mắc trong quá trình tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở. Tăng cường sự phối hợp
của các ngành, các tổ chức, đoàn thể cùng tham gia phối hợp với các Tổ hòa giải.
Thường xuyên quan tâm củng cố tổ chức, bổ sung đội ngũ hòa giải viên. Có kế
hoạch tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, tổ chức toạ đàm rút kinh nghiệm để không
ngừng nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ hòa giải, biểu dương khen thưởng kịp thời
những gương tốt, việc tốt về hòa giải.
Kết luận chương 3
Tóm lại, hoạt động hòa giải ở cơ sở đã khẳng định vai trò to lớn, ý nghĩa
quan trọng trong đời sống xã hội, góp phần tăng cường tình đoàn kết trong cộng
đồng dân cư, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc, kịp thời ngăn ngừa các

73


hành vi vi phạm pháp luật, góp phần bảo đảm ổn định, trật tự, an toàn xã hội, giảm
bớt các vụ việc phải chuyển đến Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải
quyết, tiết kiệm thời gian, kinh phí cho Nhà nước và nhân dân, từ đó góp phần thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Thực tế cho thấy, thực hiện pháp luật về HGCS ở Long An thời gian qua còn
bị tác động bởi nhiều yếu tố, từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả
hoạt động hòa giải ở cơ sở. Để nâng cao chất lượng HGCS ở Long An trước hết cần
nâng cao nhận thức của cán bộ, nhân dân về vai trò của công tác hòa giải ở cơ sở,
làm cho mỗi cán bộ và nhân dân thấy được trách nhiệm của mình và nhìn nhận
đúng về công tác này. Hai là, hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh về công tác
hòa giải, đảm bảo hiệu lực pháp lý cao cho tổ chức và hoạt động hòa giải. Ba là, đổi
mới công tác bồi dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp vụ cho những người làm
công tác hòa giải, làm cho đối tượng này ngày càng giỏi về chuyên môn nghiệp vụ,
vận dụng kịp thời, chính xác các văn bản pháp luật, các hương ước, quy ước của địa

phương vào quá trình hòa giải. Bốn là, huy động và đảm bảo nguồn lực đầu tư về
kinh phí và vật chất cho hoạt động hòa giải; Tăng cường hướng dẫn, kiểm tra đối
với công tác này.

74


KẾT LUẬN
Hòa giải ở cơ sở là một phương thức giải quyết xung đột xã hội dưới dạng
những tranh chấp nhỏ, giúp các bên tranh chấp tự nguyện giải quyết với nhau những
việc vi phạm pháp luật và mâu thuẫn, xích mích nhỏ trên cơ sở phù hợp với pháp
luật, đạo đức xã hội và phong tục tập quán, truyền thống văn hóa của địa
phương.Hòa giải ở cơ sở đã góp phần nâng cao kiến thức, ý thức chấp hành pháp
luật trong nhân dân, duy trì và phát huy đạo lý truyền thống tốt đẹp của dân tộc, góp
phần thực hiện cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu
dân cư, tạo tiền đề cho kinh tế - xã hội phát triển, mở rộng dân chủ ở cơ sở, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Với vai trò, ý nghĩa và kết quả đạt được của công tác hòa giải đã được xác
định. Bên cạnh đó, quá trình thực hiện pháp luật về tuân thủ, chấp hành, sử dụng và
áp dụng pháp luật hòa giải cơ sở thời gian ở ĐBSCL đã có những khó khăn, vướng
mắc và hạn chế nhất định. Những khó khăn, hạn chế đó là do điều kiện kinh tế, xã
hội, dân cư sống rải rác ở các vùng nông thôn sâu, trình độ dân trí và trình độ pháp
luật còn nhiều hạn chế đã tác động và ảnh hưởng đến công tác hòa giải. Pháp luật
hòa giải chưa điều chỉnh hết một số vấn đề liên quan đến công tác hòa giải phát sinh
trong thực tiễn. Các cấp chính quyền địa phương chưa thật sự quan tâm, chưa có sự
phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quantrong công tác hòa giải ở cơ sở. Cán bộ
hòa giải thường xuyên thay đổi, kiến thức pháp luật và kỹ năng hòa giải còn nhiều
hạn chế. Những tồn tại này đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả và chất lượng của hoạt
động hòa giải ở cơ sở.
Xuất phát từ ý nghĩa quan trọng của công tác hòa giải đối với đời sống xã

hội, từ tình hình tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở thời gian qua và thực trạng
pháp luật hiện hành về hòa giải cơ sở ở Long An. Cho thấy cần phải hoàn thiện, đổi
mới hòa giải cơ sở ở tỉnh Long An hiện nay là một yêu cầu khách quan nhằm: góp
phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, một Nhà nước “của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân”; củng cố, phát huy truyền thống văn hóa đạo lý của
dân tộc Việt Nam; phát huy dân chủ ở cơ sở; hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm

75


×