Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Quản lý nhà nước về Phật giáo từ thực tiễn tỉnh Trà Vinh (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (947.09 KB, 84 trang )

THẠCH VUÔNG

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

THẠCH VUÔNG

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHẬT GIÁO
TỪ THỰC TIỄN TỈNH TRÀ VINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

KHÓA VI ĐỢT 2 NĂM 2015

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

THẠCH VUÔNG

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHẬT GIÁO
TỪ THỰC TIỄN TỈNH TRÀ VINH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS. VŨ CÔNG GIAO

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
*****
Tôi xin cam đoan luận văn “Quản lý nhà nước về Phật giáo từ thực tiễn
tỉnh Trà Vinh” là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi, dưới sự hướng
dẫn của PGS.TS. VŨ CÔNG GIAO.
Các tài liệu, số liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, đảm bảo độ tin
cậy chính xác, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 10 năm 2017
Tác giả

Thạch Vuông


LỜI CẢM ƠN
*****
Sau hai năm học tập và nghiên cứu, tác giả đã hoàn thành Chương trình
khóa học thạc sĩ Luật học chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
tại Học viện Khoa học xã hội thuộc Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam
và hoàn thành luận văn “Quản lý nhà nước về Phật giáo từ thực tiễn tỉnh
Trà Vinh”.

Tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Quý Thầy – Cô, Lãnh
đạo Học viện Khoa học xã hội. Quý Thầy – Cô đã tận tình giảng dạy, tạo điều
kiện giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu, đặc biệt là sự giúp đỡ
và chỉ bảo quý báu của PGS.TS. VŨ CÔNG GIAO người Thầy đã trực tiếp
hướng dẫn, giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn này.
Với tình cảm chân thành, tác giả cũng xin gửi lời tri ân đến Lãnh đạo các
Cơ quan ban ngành tỉnh Trà Vinh, bạn đồng học, gia đình và bạn bè đã tận
tình giúp đỡ để tác giả hoàn thành việc thu thập và xử lý thông tin, số liệu
phục vụ quá trình nghiên cứu của mình.
Xin chân thành tri ân và cảm ơn !
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 10 năm 2017
Học viên

Thạch Vuông


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ NHÀ
NƢỚC VỀ PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................ 6
1.1. Nhận thức về quản lý nhà nước về Phật giáo .................................................. 6
1.2. Đặc điểm, vai trò, nguyên tắc và nội dung của quản lý nhà nước về Phật giáo
............................................................................................................................... 10
1.3. Các yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về Phật giáo ở nước ta hiện nay.17
1.4. Phương thức quản lý nhà nước về Phật giáo ở nước ta hiện nay .................. 21
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHẬT GIÁO Ở TỈNH
TRÀ VINH ............................................................................................................... 25
2.1. Tình hình Phật giáo ảnh hưởng đến quản lý nhà nước tỉnh Trà Vinh ........... 25
2.2. Hoạt động quản lý nhà nước về Phật giáo ở tỉnh Trà Vinh trong 5 năm gần
đây ......................................................................................................................... 27

2.3. Đánh giá chung và những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn quản lý nhà nước
về Phật giáo ở Trà Vinh ........................................................................................ 48
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ
NHÀ NƢỚC VỀ PHẬT GIÁO TỪ THỰC TIỄN TỈNH TRÀ VINH ................ 55
3.1. Các quan điểm về nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về Phật giáo từ thực
tiễn tỉnh Trà Vinh .................................................................................................. 55
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về Phật giáo từ thực tiễn
tỉnh Trà Vinh ......................................................................................................... 60
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 74


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BTS

: Ban Trị sự

BCHTW

: Ban Chấp hành Trung ương

CHXHCNVN

: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CT-TG


: Công tác tôn giáo

ĐBSCL

: Đồng bằng sông Cửu Long

GHPGVN

: Giáo hội Phật giáo Việt Nam

HĐKSSYN

: Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước

KHXH

: Khoa học xã hội

MTTQVN

: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Nxb

: Nhà xuất bản

TNTG

: Tín ngưỡng, tôn giáo


QLNN

: Quản lý nhà nước

UBND

: Ủy ban Nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Số hiệu
sơ đồ, bảng
Sơ đồ 2.1
Sơ đồ 2.2

Bảng 2.1

Tên sơ đồ, bảng
Hệ thống tổ chức Phật giáo Nam tông Khmer
ở tỉnh Trà Vinh
Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo
ở tỉnh Trà Vinh
Cơ cấu số lượng cán bộ, công chức của Ban Tôn giáo
tỉnh Trà Vinh


Trang

28

29

29


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trà Vinh là một tỉnh nằm ở phía Đông Nam của vùng Đồng bằng sông Cửu
Long (ĐBSCL), có cộng đồng Phật giáo thuộc dạng lớn nhất ở nước ta, với 460.000
tín đồ trên tổng số hơn 1 triệu dân. Quản lý nhà nước (QLNN) về Phật giáo ở tỉnh
Trà Vinh trong những năm qua đã có những chuyển biến tích cực. Bộ máy làm công
tác quản lý Phật giáo ở cơ sở đã từng bước được kiện toàn, phát huy hiệu quả. Thể
chế hóa chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, lãnh đạo tỉnh đã
đề ra các giải pháp đúng đắn đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các tín đồ, góp
phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đấu tranh với các hiện tượng
vi phạm pháp luật trong hoạt động Phật giáo. Công tác quản lý được các ngành chức
năng luôn quan tâm, góp phần đưa Giáo hội, đoàn thể đi theo chiều hướng hợp tác,
tuân thủ pháp luật, củng cố lòng tin của tín đồ, chức sắc Phật giáo đối với Đảng và
Nhà nước.
Tuy nhiên, QLNN về Phật giáo trên địa bàn tỉnh hiện vẫn còn nhiều bất cập,
hạn chế. Việc cụ thể hóa một số chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà
nước đối với Phật giáo còn chậm. Công tác tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo
còn thiếu đồng bộ, có hiện tượng né tránh, đùn đẩy cho cấp trên hoặc cơ quan khác.
Cán bộ làm công tác tôn giáo vẫn còn thái độ định kiến, yếu kém cả về mặt chuyên
môn nghiệp vụ và kinh nghiệm công tác.

Từ bối cảnh trên, tác giả quyết định chọn đề tài: “Quản lý nhà nước về Phật
giáo từ thực tiễn tỉnh Trà Vinh” để thực hiện Luận văn Thạc sĩ Luật học, ngành
Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, với mong muốn vận dụng kiến thức pháp luật
của mình góp phần nâng cao hiệu quả QLNN về Phật giáo ở nơi mình đã sinh ra và
đang làm việc.
1. Tình hình nghiên cứu đề tài
QLNN nói chung, QLNN về Phật giáo nói riêng là yêu cầu của sự nghiệp Đổi mới,
vì thế trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này được công bố
ở nước ta, trong đó có một số công trình tiêu biểu như sau:
1


- “Tôn giáo tín ngưỡng hiện nay - Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp thiết” của
Trung tâm Thông tin - Tư liệu, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1995.
- “Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo trong thời kỳ mở rộng giao lưu quốc tế
và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay” của Trung tâm Khoa học về Tín ngưỡng và Tôn giáo, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, năm 1998.
- “Quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo” của Nguyễn Hữu Khiển,
Nxb. Công an nhân dân, năm 2001.
- “Bước đầu tìm hiểu về mối quan hệ giữa Nhà nước và Giáo hội” của GS.TS. Đỗ
Quang Hưng, Nxb. Tôn giáo, năm 2003.
- “Góp phần tìm hiểu Phật giáo Nam bộ” của Trần Hồng Liên, Nxb. Khoa học xã
hội Hà Nội, năm 2004.
- “Lý luận về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” của PGS.TS. Nguyễn
Đức Lữ, Nxb. Tôn giáo, năm 2007.
- “Đảng và Nhà nước Việt Nam với vấn đề văn hóa tôn giáo” của Nguyễn Đức Lữ,
Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2010.
- “Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam” của GS. Đặng Nghiêm
Vạn, Nxb. Chính trị, năm 2012.

- “Tôn giáo, Tín ngưỡng các dân tộc ở Việt Nam” của PGS.TS. Nguyễn Văn
Minh, Nxb. Khoa học xã hội, năm 2013.
- “Nhà nước - Tôn giáo - Luật pháp” của GS.TS. Đỗ Quang Hưng, Nxb. Chính trị
Quốc gia - Sự thật, năm 2014.
- “Quan điểm, Chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về Tôn giáo” của
PGS.TS. Nguyễn Hồng Dương, Nxb. Khoa học xã hội, năm 2015.
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã cung cấp một lượng kiến thức, thông tin
lớn liên quan đến đề tài nghiên cứu, song chủ yếu mới đề cập đến tôn giáo nói
chung, chưa đi sâu nghiên cứu QLNN về Phật giáo, chưa đánh giá được thực trạng
và những vấn đề đặt ra hiện nay trong QLNN về Phật giáo. Đặc biệt, chưa có công

2


trình nào nghiên cứu về QLNN về Phật giáo tại địa bàn tỉnh Trà Vinh. Vì vậy, luận
văn này vẫn có tính cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
Mục tiêu của luận văn là phân tích thực trạng QLNN về Phật giáo ở tỉnh Trà
Vinh, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất các quan điểm, giải pháp
nâng cao hiệu quả QLNN về Phật giáo ở Trà Vinh nói riêng, ở trên cả nước ta nói
chung trong những năm tới.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu trên, các nhiệm vụ của luận văn là:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, pháp lý về QLNN về Phật giáo ở
nước ta hiện nay.
- Khảo sát, phân tích thực trạng QLNN về Phật giáo ở Trà Vinh, chỉ ra những
thành tựu, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế,
phát huy những cách làm tốt, qua đó nâng cao hiệu quả QLNN về Phật giáo ở Trà

Vinh nói riêng, ở trên cả nước ta nói chung.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn
liên quan đến QLNN về Phật giáo ở Trà Vinh.
Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp lý và
thực tiễn liên quan đến QLNN về Phật giáo, không đi sâu nghiên cứu các vấn đề
QLNN về tín ngưỡng và về các tôn giáo khác như Thiên chúa giáo, Tin Lành, Hoà
Hảo, Cao Đài...
Về không gian, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng QLNN về Phật giáo
ở tỉnh Trà Vinh, không mở rộng đến các địa phương khác ở nước ta.
Về thời gian, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng QLNN về Phật giáo ở
Trà Vinh trong khoảng 5 năm trở lại đây.

3


5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà
nước ta về tôn giáo và QLNN về tôn giáo.
Luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến của khoa học
xã hội để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra. Cụ thể:
- Các phương pháp tổng hợp, phân tích các công trình nghiên cứu hiện có và
các tài liệu khác để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn liên quan
đến QLNN về Phật giáo ở nước ta hiện nay (ở Chương I).
- Các phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh các tài liệu, báo cáo
chuyên môn của chính quyền và giáo hội Phật giáo địa phương và phương pháp
quan sát thực tế để đánh giá thực trạng QLNN về Phật giáo ở Trà Vinh (ở Chương
II).

- Các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để đề xuất các quan điểm, giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLNN về Phật giáo ở Trà Vinh và ở các địa phương
khác của nước ta trong thời gian tới (ở Chương III).
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu toàn diện, chuyên sâu đầu tiên về QLNN về
Phật giáo ở tỉnh Trà Vinh được thực hiện từ trước tới nay. Luận văn cũng là một
trong số ít công trình nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về QLNN về Phật giáo ở
cấp cơ sở ở nước ta.
Vì vậy, luận văn cung cấp những kiến thức, thông tin, luận điểm và đề xuất
mới có giá trị tham khảo với việc nâng cao hiệu quả QLNN về Phật giáo ở tỉnh Trà
Vinh và ở các địa phương khác của nước ta trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, luận văn có thể được sử dụng là nguồn tài liệu tham khảo cho
việc giảng dạy, nghiên cứu chuyên ngành luật hiến pháp và luật hành chính ở Học
viện KHXH thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam và các cơ sở đào tạo khác của
nước ta.
7. Cấu trúc của luận văn

4


Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao
gồm 03 chương như sau:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận, pháp lý về quản lý nhà nước về Phật giáo
ở Việt Nam hiện nay.
- Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về Phật giáo ở tỉnh Trà Vinh.
- Chương 3: Quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về
Phật giáo từ thực tiễn tỉnh Trà Vinh.

5



Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ
PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Nhận thức về quản lý nhà nƣớc về Phật giáo
1.1.1 Khái niệm Phật giáo
Phật giáo có thể được định nghĩa và giải thích từ những góc nhìn khác nhau
như sau [25, tr. 20-21]:
- Phật giáo là một “tôn giáo” được thiết lập nên bởi Đức Phật, vì phúc lợi của
chúng sanh, vì hạnh phúc của chúng sanh và vì sự tiến bộ của thế giới con người. Mọi
người từ mọi xứ sở đều có thể áp dụng những giáo lý và hướng dẫn của đạo Phật vào
trong cuộc sống của mình, tùy theo căn cơ, khả năng, điều kiện và ý chí tự do của
mình, đồng thời nhằm hướng dẫn và phát triển con người bằng cách làm cho thân tâm
trong sạch (thông qua con đường đạo đức); làm cho thân tâm bình lặng (thông qua con
đường thiền tập), và làm khai sáng tâm linh con người (thông qua con đường trí tuệ).
- Phật giáo là một tôn giáo chủ trương sự thực hành của chính bản thân mỗi
người. Chỉ có mình mới thực hành mình, giải quyết vấn đề tâm linh và những đau
khổ của mình và chính mình giải thoát cho mình và sau đó, giúp đỡ người khác đi
theo con đường đạo vì lòng từ bi và để tu dưỡng thêm lòng từ bi đối với họ.
- Phật giáo vừa là triết học vừa là thực hành. Mặc dù Phật giáo cũng chấp nhận
sự hiện hữu của những chúng sanh là chư thiên (như thiên thần, trời, thánh nhân),
nhưng Phật giáo không đặt những chúng sanh siêu phàm xuất trần đó là phần quan
trọng trong học thuyết tôn giáo của mình. Thay vì vậy, đạo Phật dạy con người phải
tu tập những phẩm chất như luôn biết Sỉ nhục và Sợ hãi về mặt lương tâm để tránh
bỏ làm những điều bất thiện. Người tránh bỏ hành động bất thiện xấu ác thì có được
phẩm chất của những bậc thiên thần và trời; có được lòng tin chánh tín, đạo đức,
lòng học hỏi, lòng rộng lượng và trí tuệ. Hơn nữa, Phật giáo chỉ dạy rằng một người
nếu trừ bỏ được những ô nhiễm như Tham, Sân, Si thì là một người tốt lành và siêu

6



việt. Chủ thuyết của Phật giáo là tránh làm những điều ác, nỗ lực làm những điều
thiện, tu dưỡng tâm trong sạch.
- Phật giáo là một tôn giáo phổ biến, được truyền bá qua nhiều nước trên thế
giới; thuộc về vô thần, không chủ trương hữu thần, không công nhận có đấng sáng
tạo hay thượng đế quyết định số mạng con người; chủ trương về triết lý nhân quả và
mọi sự việc của một người là do chính người ấy làm và nhận lãnh.
Phật giáo ra đời ở Ấn Độ cách đây 2.561 năm, khi một thái tử người Ấn Độ là
Tất-Đạt-Đa (Siddhattha) của Vương quốc dòng họ Thích Ca (Sakya) giác ngộ thành
đạo, trở thành một vị Phật (Buddha) - có nghĩa là “người giác ngộ” sau nhiều năm
tu hành gian khổ để đi tìm câu trả lời cho câu hỏi “làm thế nào để con người thoát
khỏi khổ - đau và sinh - tử”. Những lời dạy của Đức Phật đã được ghi chép và bảo
tồn bởi đại đa số tu sĩ đệ tử của Người trong tàng thư “Tam Tạng Kinh” (Tipitaka),
bao gồm: Luật Tạng (Vinaya-pitaka): những giới luật đối với tăng ni, và một số giới
luật dành cho Phật tử tại gia; Kinh Tạng (Suttanta-pitaka): tập hợp những bài thuyết
giảng của Đức Phật và những vị đại đệ tử của Phật; Luận Tạng (Abhidhammapitaka): là phần triết lý cao học của Phật giáo. Những nhánh phái chính của Phật
giáo là Phật giáo Nguyên thủy (Theravada) và Đại thừa (Mahayana) [28, tr. 22-23].
Phật giáo là một tôn giáo có mặt ở Việt Nam từ hơn 2.000 năm nay và đã có
thời kỳ phát triển rất hưng thịnh. Phật giáo Nam tông (thường gọi là Phật giáo
Nguyên thủy - Theravada, Phật giáo Nam truyền, Phật giáo Tiểu thừa) đã có mặt ở
Trà Vinh từ rất sớm, vào năm 373 thế kỷ thứ IV sau Công nguyên. Chùa Som Bua
Răng Sây (Som Bua) ở xã Hòa Ân, huyện Cầu Kè là ngôi chùa đầu tiên của Phật
giáo Nam tông Khmer trên địa bàn tỉnh (bia đá của chùa Som Bua còn được lưu giữ
đến ngày nay; tài liệu của HĐKSSYN tỉnh và Ban Tôn giáo Sở Nội vụ tỉnh chứng
minh).
Hiện tại, hệ thống tổ chức Phật giáo ở Việt Nam là GHPGVN. Lịch sử nước ta
cho thấy Phật giáo có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc giữ gìn sự gắn bó đoàn
kết của đồng bào các dân tộc trong ngôi nhà chung là Tổ quốc Việt Nam. Ở các địa
phương, ngôi chùa là biểu hiện của Phật giáo, đồng thời là sự biểu hiện của tâm linh


7


và truyền thống văn hóa dân tộc. Phật giáo cũng là một tôn giáo hoà bình, dễ thích
nghi với mọi nền văn hóa, không gây ra các xung đột, không cổ vũ các hành động
cực đoan, chia rẽ hoặc mang màu sắc sắc tộc, cho nên còn đóng vai trò quan trọng
trong việc hình thành, xây dựng, củng cố thế giới quan, nhân sinh quan hoà bình,
khoan dung của dân tộc ta.
1.1.2. Khái niệm quản lý
Quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá trình theo những quy
luật, quy tắc nhằm làm cho hệ thống hay quá trình đó vận hành theo ý muốn của
người quản lý để đạt được những mục đích đã định trước [6, tr. 21].
Dưới góc độ khoa học, khái niệm “quản lý” có nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Theo ý nghĩa thông thường, quản lý có thể hiểu là hoạt động tác động một cách có
tổ chức và có định hướng của chủ thể quản lý tới những đối tượng quản lý để điều
chỉnh chúng vận động và phát triển theo những mục tiêu nhất định đã đề ra.
Quản lý muốn đạt được hiệu quả phải được tiến hành dựa trên cơ sở tổ chức
và quyền uy. Quản lý xuất hiện ở bất cứ nơi nào có hoạt động chung của con người.
Với cách tiếp cận đó, quản lý bao gồm các yếu tố sau [6, tr. 21]:
Chủ thể quản lý: là con người hay tổ chức của con người những tác nhân tạo
ra các tác động quản lý. Chủ thể quản lý tác động lên đối tượng quản lý bằng các
công cụ, hình thức và phương pháp thích hợp, dựa trên cơ sở những nguyên tắc nhất
định. Những cá nhân, tổ chức quản lý phải là những đại diện có quyền uy, có quyền
hạn và trách nhiệm liên kết, phối hợp những hoạt động riêng lẻ nhằm hướng tới mục
tiêu chung là đạt kết quả nhất định trong quản lý.
Đối tượng quản lý (khách thể quản lý): là những cá nhân, tổ chức tiếp nhận sự
tác động của chủ thể quản lý.
Mục tiêu và nhiệm vụ quản lý: là sự điều khiển, chỉ đạo hoạt động chung của
con người. Đây là căn cứ để chủ thể quản lý thực hiện các tác động quản lý cũng

như lựa chọn các hình thức, phương pháp quản lý thích hợp.

8


Từ những nội dung nêu trên, có thể đưa ra khái niệm về quản lý như sau:
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý lên đối tượng
quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã được đặt ra từ trước.
1.1.3. Khái niệm quản lý nhà nước
QLNN xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước. QLNN về bản chất là quản
lý toàn bộ xã hội, mặc dù nội hàm của QLNN thay đổi ít nhiều khác nhau phụ thuộc
vào chế độ chính trị, đặc điểm văn hóa, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia qua các giai đoạn lịch sử. Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực
chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng
quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội và đem lại lợi ích chung cho toàn xã hội.
QLNN bao gồm 3 chức năng: [45, tr. 19]
- Thứ nhất, chức năng lập pháp do các cơ quan lập pháp thực hiện.
- Thứ hai, chức năng hành pháp (chấp hành và điều hành) do hệ thống hành
chính nhà nước đảm nhiệm.
- Thứ ba, chức năng tư pháp do các cơ quan tư pháp thực hiện.
Trong các quốc gia đều có nhiều chủ thể tham gia quản lý xã hội như: các
đảng chính trị, Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế… So với quản lý của các
tổ chức khác, thì QLNN có những điểm khác biệt như sau:
Trước hết, chủ thể QLNN là các cơ quan, cá nhân trong bộ máy nhà nước
được trao quyền, bao gồm: cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp.
Thứ hai, đối tượng của QLNN là tất cả các cá nhân, tổ chức sinh sống và hoạt
động trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, công dân làm việc bên ngoài lãnh thổ quốc
gia.
Thứ ba, QLNN có phạm vi toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội: Chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao.

Thứ tư, QLNN mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng công cụ pháp luật nhà
nước, chính sách để quản lý xã hội.
Thứ năm, mục tiêu của QLNN là phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát
triển của toàn xã hội.

9


Từ những đặc điểm trên, có thể hiểu QLNN là một dạng quản lý xã hội đặc
biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật - chính sách để điều chỉnh
hành vi cá nhân, tổ chức trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, do các công chức
và cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn
định và phát triển của xã hội.
1.1.4. Khái niệm quản lý nhà nước về Phật giáo
Từ các khái niệm như đã trình bày ở phần trên, ta có thể đưa ra khái niệm
QLNN về Phật giáo theo hai nghĩa như sau:
Nghĩa rộng: QLNN về Phật giáo là quá trình dùng quyền lực nhà nước (lập
pháp, hành pháp, tư pháp) của các cơ quan Nhà nước theo quy định của pháp luật để
tác động, điều chỉnh, hướng các quá trình hoạt động Phật giáo và hành vi hoạt động
của tổ chức giáo hội, cá nhân Phật giáo diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt được mục
tiêu cụ thể của chủ thể quản lý.
Nghĩa hẹp: QLNN về Phật giáo là một dạng quản lý xã hội mang tính chất
Nhà nước, chức năng nhiệm vụ của Nhà nước, là quá trình chấp hành pháp luật và
tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp để điều chỉnh
các quá trình hoạt động Phật giáo và mọi hành vi hoạt động của các tổ chức giáo
hội, các cá nhân Phật giáo diễn ra theo đúng quy định của pháp luật.
1.2. Đặc điểm, vai trò, nguyên tắc và nội dung của quản lý nhà nƣớc về
Phật giáo
1.2.1. Đặc điểm của quản lý nhà nước về Phật giáo
Trong quá trình dựng nước và giữ nước, cùng với việc hình thành các giá trị

văn hóa, hệ thống tín ngưỡng, tôn giáo của cộng đồng người Việt cũng được hình
thành, trong đó có đạo Phật. Hệ thống đó có những đặc điểm cơ bản đó là [26, tr.
24-25]:
-

Có sự hiện diện của nhiều tôn giáo, tín ngưỡng;

-

Tính đan xen hòa đồng của các tín ngưỡng, tôn giáo;

-

Tính trội của yếu tố nữ trong hệ thống tín ngưỡng, tôn giáo;

10


-

Xu hướng thần thánh hóa những người có công với gia đình, làng xã và Tổ
quốc, như Đình, Đền, Miếu…;

-

Các tín đồ đạo Phật ở Việt Nam phần lớn là nông dân và nhân dân lao động,
vì thế từ trước đến nay thường có một số tín đồ bị các thế lực lợi dụng vì
mục đích chính trị.
Xét chung, QLNN về Phật giáo ở nước ta thể hiện qua những đặc điểm sau


đây:
* Đặc điểm về chủ thể quản lý: Chủ thể chính có chức năng QLNN đối với
hoạt động Phật giáo là các cơ quan nhà nước, đặc biệt là các cơ quan thuộc hệ thống
hành pháp (Chính phủ, UBND các cấp), ngoài ra có các cơ quan nhà nước, tổ chức,
cá nhân khác được nhà nước trao quyền quản lý trong những lĩnh vực nhất định.
Các cơ quan nhà nước có vai trò chính trong vấn đề này là Chính phủ (Ban Tôn
giáo Chính phủ), UBND các cấp, Bộ Công an, Bộ Tài nguyên và Môi trường,...
* Đặc điểm về khách thể quản lý: Đó chính là hoạt động của các tổ chức giáo
hội, chức sắc, người tu hành, tín đồ theo đạo Phật.
* Đặc điểm về phương pháp quản lý: QLNN về các hoạt động Phật giáo
thường áp dụng các biện pháp như: Phương pháp giáo dục, thuyết phục, vận động
quần chúng; Phương pháp tổ chức; Phương pháp hành chính; Các phương pháp
khác như: Kinh tế, thống kê, tâm lý xã hội,v.v…
* Đặc điểm về đối tượng quản lý: Đối tượng quản lý về hoạt động Phật giáo
gồm tín đồ, nhà tu hành, chức sắc và các tổ chức của GHPGVN. Là công dân Việt
Nam, tín đồ, chức sắc tôn giáo, nhà tu hành vừa mang những đặc điểm chung của
người Việt Nam, nhưng đồng thời cũng có những nét đặc trưng riêng của người có
đạo.
- Đặc điểm của tín đồ Phật giáo:
Tín đồ là những người tin theo đạo Phật và được tổ chức Giáo hội Phật giáo
thừa nhận. Trong mỗi tín đồ đều có sự thống nhất (nhưng không đồng nhất) giữa
mặt công dân và mặt tín đồ. Là công dân, tín đồ có mọi quyền và nghĩa vụ như mọi
công dân khác. Là người có tín ngưỡng tôn giáo, họ có niềm tin ở giáo lý, tình cảm

11


đời sống tâm linh ở những mức độ khác nhau và có quyền lợi do Giáo hội hay tổ
chức quy định, họ phải hành đạo theo giáo luật. Đây chính là đặc điểm quan trọng
mà chủ thể QLNN về Phật giáo cần nắm vững.

- Đặc điểm của nhà tu hành, chức sắc Phật giáo:
Nhà tu hành là những tín đồ tự nguyện thực hiện thường xuyên nếp sống riêng
theo giáo lý, giáo luật của đạo Phật mà mình tin theo [5, tr.3].
Chức sắc là tín đồ có chức vụ, phẩm sắc trong Giáo hội. Chức sắc Phật giáo
gồm có Tăng và Ni (riêng hệ phái Nam tông không có Ni và không phải Tăng - Ni
nào cũng là chức sắc).
Nhà tu hành, chức sắc trước hết là tín đồ thuộc Giáo hội và cũng có những đặc
điểm chung của một tín đồ. Song khác với tín đồ, đội ngũ chức sắc là những người
được tổ chức Giáo hội lựa chọn, đào tạo cơ bản, do đó năng lực, trình độ của họ khá
cao và được tổ chức Giáo hội phong chức, phong phẩm, bầu cử và suy cử. Họ đại
diện ở những mức độ khác nhau trong Giáo hội, họ vừa dẫn dắt tín đồ, vừa quản lý
hành chính đạo theo thẩm quyền. Trong quan hệ với tín đồ, họ là những người rất
gần gũi với tín đồ, nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng của tín đồ, do đó họ có vị
trí, vai trò ảnh hưởng rất sâu sắc trong tín đồ.
- Đặc điểm tổ chức Giáo hội Phật giáo
Tổ chức Giáo hội Phật giáo là tập hợp những người cùng tin theo một hệ thống
giáo lý, giáo luật, nghi lễ và tổ chức theo một cơ cấu nhất định từ Trung ương đến
cơ sở và được nhà nước công nhận.
Tổ chức Giáo hội có chức năng điều hành hoạt động của các cơ sở và tín đồ
Phật giáo. Trong mỗi hệ phái Phật giáo, tổ chức bộ máy được sắp xếp khác nhau, hệ
thống tổ chức của Phật giáo được quy định theo Hiến chương, Điều lệ của Giáo hội
Phật giáo và được Nhà nước công nhận. Trong mối quan hệ nội bộ của tổ chức Giáo
hội, có tổ chức có mối quan hệ hành chính đạo rất chặt chẽ, cấp dưới phục tùng cấp
trên, tuy nhiên cũng có tổ chức mối quan hệ hành chính đạo tương đối lỏng lẻo. Mặt
dù hiện ở nước ta có một tổ chức Phật giáo thống nhất nhưng trong mỗi hệ phái lại

12


có tính chất độc lập tương đối, như Hội đoàn kết Sư sãi yêu nước (HĐKSSYN) ít lệ

thuộc vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN).
Trong mối quan hệ với nhà nước và xã hội, Giáo hội Phật giáo là tổ chức đại
diện cho tín đồ để giải quyết các công việc liên quan đến Phật giáo. Nhìn chung, các
hệ phái Phật giáo được Nhà nước ta công nhận đều thể hiện đường hướng hành đạo
gắn bó, đồng hành cùng với dân tộc, hoạt động Phật giáo cơ bản tuân thủ các quy
định của pháp luật.
1.2.2. Vai trò của quản lý nhà nước về Phật giáo
Khi nói tới vai trò của tôn giáo đối với xã hội con người, C.Mác đã nhận xét
như sau: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới
không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh
thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [13, tr.14].
Quan điểm trên của C.Mác cho thấy bản chất của tôn giáo, tuy nhiên không đề
cập đến cách thức đối xử của Nhà nước với tôn giáo - mà là một vấn đề rất phức
tạp. Tuy nhiên, do cách hiểu phiến diện về quan điểm trên của C.Mác nên trong một
thời gian dài Nhà nước ta đã có những chính sách chưa thực sự phù hợp với các tôn
giáo, trong đó bao gồm Phật giáo.
Song kể từ khi Đổi mới, nhận thức về vị trí, vai trò và cách thức đối xử với các
tôn giáo của Nhà nước ta đã thay đổi, mang tính chất thực tiễn và phù hợp hơn.
Điều này thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng, mà rõ rệt nhất là trong Báo cáo
Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, mà trong đó ghi nhận: “Tiếp tục
hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Phát huy những giá trị văn
hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín
đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt
theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận,
đúng quy định của pháp luật. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh
với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê tín hoặc, chia rẽ, phá hoại
khối đoàn kết dân tộc” [20, tr. 81].

13



Quan điểm trên phần nào đã đề cập đến vai trò của QLNN về tôn giáo trong
đó có Phật giáo ở Việt Nam. Vai trò đó thể hiện cụ thể hơn thông qua trách nhiệm
của cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được
quy định tại Điều 3 Luật tín ngưỡng, tôn giáo số 12/2016/QH14 [35], theo đó bao
gồm:
Thứ nhất, Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
mọi người; đảm bảo để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.
Trong những năm gần đây, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề tôn
giáo ngày càng rõ ràng và chứa đựng những nội dung mới, các Nghị quyết của Đảng và
chính sách của Nhà nước đều nhìn nhận “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH
ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc” [19, tr.
48]. Đồng thời, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định rõ: “Công dân có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước đảm bảo quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, không ai được xâm phạm quyền tự do ấy. Các
tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật” [34, tr. 205].
Quán triệt những quan điểm chỉ đạo của Đảng, công tác QLNN về Phật giáo cần
phải được tăng cường để đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, đáp
ứng các quá trình cải biến cách mạng trên tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã
hội khác, chẳng hạn tham gia các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội theo quy định
của pháp luật.
Thứ hai, Nhà nước tôn trọng bảo vệ giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tín
ngưỡng, tôn giáo, truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh người có công với đất
nước, với cộng đồng đáp ứng nhu cầu tinh thần của Nhân dân.
QLNN về Phật giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và
nhiều cấp, nhiều ngành. Quản lý tốt về Phật giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống
chính trị do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn
giáo là lực lượng tham mưu nòng cốt. Tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo cần

được củng cố, kiện toàn, nhất là ở những địa bàn trọng điểm có đông đồng bào Phật

14


giáo nhưng phải đảm bảo được những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của Phật giáo,
phải tôn trọng giáo chủ, chức sắc, tín đồ, các hệ phái Phật giáo đã được nhà nước
công nhận; tôn trọng cơ sở thờ tự, kinh sách, lễ nghi...và những hoạt động của Phật
giáo khác.
QLNN về Phật giáo cũng cần giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của
truyền thống thờ cúng tổ tiên, tưởng niệm và tôn vinh những người có công với
nước, với cộng đồng nhằm góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp
ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân. Nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để
hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích
động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm chủ quyền, an ninh
quốc gia.
Thứ ba, Nhà nước bảo hộ cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo và tài sản hợp pháp
của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo.
Các cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo khi được Nhà nước thừa nhận đều được
bảo hộ, có các quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong hoạt động truyền đạo, quản đạo,
hành đạo, phát triển tín đồ và mở rộng tổ chức. Các cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo
cũng được Nhà nước tạo điều kiện có nơi thờ tự, xuất bản kinh sách, các ấn phẩm
tôn giáo và đồ dùng việc đạo. Nhà nước bảo hộ những tài sản hợp pháp thuộc cơ sở
tín ngưỡng, tôn giáo; tạo điều kiện trong việc quản lý, sử dụng đất có các công trình
tín ngưỡng tôn giáo, cũng như việc sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới các
công trình thuộc cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo.
Bên cạnh các quyền, các tôn giáo cũng phải có nghĩa vụ thực hiện hoạt động
tôn giáo theo quy định của pháp luật, tôn trọng chính quyền nhà nước, tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng của người khác.
1.2.3. Các nguyên tắc của quản lý nhà nước về Phật giáo

QLNN về Phật giáo không ngoài mục đích bảo đảm cho hoạt động Phật giáo
diễn ra trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật vì lợi ích chung, trong đó có cả
lợi ích tín đồ và lợi ích của Giáo hội.
Các nguyên tắc QLNN về hoạt động Phật giáo bao gồm:
15


Một là, Nhà nước đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân và
nghiêm cấm sự phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Mọi công dân có
quyền tự do theo và không theo một tôn giáo nào, có quyền từ bỏ và thay đổi tôn
giáo. Nhà nước đảm bảo quyền hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo theo quy
định của pháp luật. Tín đồ có quyền thực hiện các hoạt động tôn giáo không trái với
chủ trương, chính sách và pháp luật của nhà nước, tiến hành các nghi thức thờ cúng,
cầu nguyện tại gia đình và tham gia các hoạt động tôn giáo, học tập giáo lý, đạo
đức, phục vụ nghi lễ tôn giáo tại cơ sở thờ tự.
Hai là, công dân có tín ngưỡng, tôn giáo hoặc không có tín ngưỡng, tôn giáo
đều bình đẳng trước pháp luật, được hưởng mọi quyền công dân và có trách nhiệm
thực hiện nghĩa vụ của công dân.
Ba là, các hoạt động Phật giáo phải tuân theo pháp luật của nước
CHXHCNVN. Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích chính đáng và hợp pháp của tín
đồ được đảm bảo. Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích Tổ quốc và nhân dân được
khuyến khích.
Bốn là, mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, mọi hành vi lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống lại nhà nước CHXHCNVN, ngăn cản tín đồ làm
nghĩa vụ công dân, phá hoại sự nghiệp đoàn kết toàn dân, làm hại đến nền văn hóa
lành mạnh của dân tộc và hoạt động mê tín dị đoan đều bị xử lý theo pháp luật.
1.2.4. Nội dung quản lý nhà nước về Phật giáo
QLNN về Phật giáo là hoạt động của cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước
nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng,
tôn giáo của người dân, hướng các hoạt động Phật giáo phục vụ lợi ích chính đáng

của tín đồ đạo Phật và phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Ở góc độ khái quát, QLNN về Phật giáo bao gồm những nội dung cơ bản được
quy định tại Điều 60 Luật tín ngưỡng, tôn giáo số 12/2016/QH14 [35] sau đây:
- Quy định tổ chức bộ máy và ban hành văn bản quy phạm pháp luật về tín
ngưỡng, tôn giáo trong đó có đạo Phật;
- Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo;

16


- Phổ biến, giáo dục pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo;
- Nghiên cứu trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, viên chức làm công tác tín ngưỡng, tôn giáo;
- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật
về tín ngưỡng, tôn giáo;
- Quan hệ quốc tế trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.
Tất cả những công việc trên có mối quan hệ mật thiết với nhau. Để quản lý về
Phật giáo đạt hiệu quả cao, cần chú trọng thực hiện tốt tất cả các công việc này.
Ở góc độ cụ thể, QLNN về Phật giáo bao gồm những công việc được quy định
tại Điều 6 Luật tín ngưỡng, tôn giáo số 12/2016/QH14 [35] sau đây:
- Quản lý việc đăng ký sinh hoạt của Phật giáo;
- Quản lý hoạt động của Phật giáo;
- Quản lý việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho chức sắc, nhà tu hành Phật
giáo;
- Quản lý việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử trong Giáo
hội;
- Quản lý việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất cơ sở thờ tự Phật giáo;
- Quản lý việc sử dụng, xây dựng, sửa chữa và thành lập mới nơi thờ tự của
Phật giáo;
- Quản lý hoạt động giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện, nhân đạo của Phật

giáo;
- Quản lý việc sản xuất, xuất - nhập khẩu văn hóa phẩm và lưu thông đồ dùng
của Phật giáo;
- Quản lý các hoạt động từ thiện - xã hội của Phật giáo.
1.3. Các yếu tố tác động đến quản lý nhà nƣớc về Phật giáo ở nƣớc ta hiện
nay
1.3.1. Yếu tố chính trị
Chính trị là một thành tố của kiến trúc thượng tầng xã hội. Đây là một khái
niệm rộng, phức tạp. Theo Từ điển Tiếng Việt: “Chính trị là những vấn đề về tổ

17


chức và điều khiển bộ máy nhà nước trong nội bộ một nước và về quan hệ chính
thức giữa các nước với nhau; hay là những hoạt động của một giai cấp, một chính
đảng, một tập đoàn xã hội nhằm giành hoặc duy trì quyền điều khiển bộ máy nhà
nước” [40, tr. 163].
Nhà nước quản lý xã hội trước hết là để phục vụ mục đích của giai cấp thống
trị, để giúp giai cấp đó thực hiện các mục tiêu chính trị của mình. Mọi hoạt động
của Nhà nước đều không thể đi ngược lại với các mục tiêu chính trị, các quy định về
sự điều tiết của Nhà nước đối với xã hội cũng phải phù hợp với những định hướng
của giai cấp thống trị trong xã hội. Thể chế chính trị luôn giữ vai trò định hướng,
chi phối toàn bộ các hoạt động trong xã hội. Hệ thống pháp luật được xây dựng dựa
trên nền tảng của hệ thống chính trị, còn chính trị lại giữ vai trò chỉ đạo đối với nội
dung và phương hướng phát triển của pháp luật.
Chính vì thế, yếu tố chính trị có ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc QLNN về tôn
giáo ở Việt Nam, trong đó có đạo Phật. Nội dung QLNN về Phật giáo phải phù hợp
và thể chế hóa quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước Việt Nam về tôn giáo, tín ngưỡng nói chung.
1.3.2. Yếu tố đường lối, chính sách pháp luật của Việt Nam

Nhờ chủ trương đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và sự quan tâm của
cơ quan nhà nước các cấp, các ngành, Phật giáo tại Việt Nam trong những năm qua
đã phát triển một cách nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng. Trong quá trình
QLNN về Phật giáo, các cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ ban hành văn bản
pháp luật sát với thực tế về từng tôn giáo, đây là cơ sở cho việc tổ chức thực hiện
quản lý hoạt động Phật giáo. Thực tiễn cho thấy, hệ thống khung pháp luật về tôn
giáo bao gồm các Nghị định, Thông tư và các Quyết định khác quy định về tôn giáo
không phải bao giờ cũng bao quát được hết các vấn đề phát sinh liên quan đến tôn
giáo. Việc giải quyết các vấn đề, tùy thuộc vào từng tình huống cụ thể để áp dụng luật
và các văn bản có liên quan, tuy nhiên cũng có những tình huống nằm ngoài phạm vi
hoặc chưa được quy định trong luật, do đó, cần phải có văn bản hướng dẫn của cơ
quan QLNN về tôn giáo.

18


×