Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Theo dõi thi hành pháp luật từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

KIỀU VĂN HƯNG

THEO DÕI THI HÀNH PHÁP LUẬT
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT LUẬT HỌC

Hà Nội, 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

KIỀU VĂN HƯNG

THEO DÕI THI HÀNH PHÁP LUẬT
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG

Chuyên ngành
Mã số

: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
: 60.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT LUẬT HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS NGUYỄN MINH ĐOAN

Hà Nội, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung nghiên cứu trình bày trong luận văn
thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính với đề tài “Theo
dõi thi hành pháp luật từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang” là công trình nghiên cứu
của cá nhân tôi, không sao chép của bất cứ ai. Nếu có sự thiếu trung thực, tôi
xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước Hội đồng chấm luận văn và Ban Giám
đốc Học viện Khoa học xã hội.
Tác giả

Kiều Văn Hưng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ THEO DÕI THI HÀNH
PHÁP LUẬT ..................................................................................................... 9
1.1. Khái niệm, nguyên tắc, mục đích,ý nghĩa của theo dõi thi hành pháp luật 9
1.2. Chủ thể và nội dung của theo dõi thi hành pháp luật ................................ 17
1.3. Các hoạt động theo dõi thi hành pháp luật ................................................ 22
1.4. Yếu tố ảnh hưởng đến theo dõi thi hành pháp luật ……………………..28
Chương 2: THỰC TIỄN THEO DÕI THI HÀNH PHÁP LUẬT .................
Ở TỈNH BẮC GIANG ................................................................................... 31
2.1. Khái quát đặc điểm, tình hình kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Giang có ảnh
hưởng đến theo dõi thi hành pháp luật ............................................................. 31

2.2. Thực trạng theo dõi thi hành pháp luật ở tỉnh Bắc Giang ......................... 34
2.3. Đánh giá chung về theo dõi thi hành pháp luật trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang ................................................................................................................ 57
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THEO DÕI THI
HÀNH PHÁP LUẬT TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY .......................... 66
3.1. Quan điểm bảo đảm theo dõi thi hành pháp luật trong giai đoạn hiện nay66
3.2. Giải pháp bảo đảm theo dõi thi hành pháp luật trong giai đoạn hiện nay 68
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 82


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
HĐND

:

Hội đồng nhân dân

TDTHPL

:

Theo dõi thi hành pháp luật

QPPL

:

Quy phạm pháp luật


UBND

:

Uỷ ban nhân dân

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là hai nhiệm vụ mà Đảng và
Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCH của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Trong bối cảnh Đảng và nhà nước ta đang tập trung chỉ đạo chuyển hướng
chiến lược từ xây dựng và hoàn thiện pháp luật sang trọng tâm là tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thực thi pháp luật tạo sự liên
thông giữa công tác xây dựng pháp luật và công tác tổ chức thi hành pháp luật
thì vai trò của công tác TDTHPL càng trở nên quan trọng. Tại Kết luận số 01KL/TW, ngày 04/4/2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị
quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020 đã chỉ rõ “Ban Cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo tăng cường trách nhiệm
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các cơ quan của Chính phủ,
UBND các cấp thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác thi hành pháp luật, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện trong giai
đoạn 2016-2020” [3].

Trong thời gian qua công tác TDTHPL trên địa bàn cả nước đã có nhiều
chuyển biến và đạt được những kết quả tích cực. Trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
công tác TDTHPL đã được triển khai sớm,nghiêm túc, bài bản, sáng tạo và
đạt được nhiều kết quả quan trọng. Kết quả sơ kết 03 năm về thực hiện Nghị
định 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ về theo dõi tình hình thi
hành pháp luật (Nghị định số 59/2012/NĐ-CP), Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang là
một trong 05 tập thể được Bộ Tư pháp tặng Bằng khen; năm 2016 qua việc
kiểm tra trực tiếp công tác TDTHPL của tỉnh Bắc Giang, Đoàn kiểm tra liên

1


ngành do Bộ Tư pháp chủ trì đã đánh giá tỉnh Bắc Giang là một trong những
điểm sáng về việc thực hiện công tác TDTHPL trên cả nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được thì công tác TDTHPL
cũng đã phát sinh những bất cập, hạn chế là:
Thứ nhất, hiện nay nội hàm của các khái niệm “thi hành pháp luật”,
“theo dõi thi hành pháp luật” chưa được quy định rõ và chưa được hiểu một
cách thống nhất. Do đó dẫn đến việc đánh giá vị trí, vai trò, chức năng, ý
nghĩa của TDTHPL không thống nhất, không phân biệt rạch ròi được với các
hoạt động thanh tra, kiểm tra...và nhất là các khái niệm này hiện nay gắn với
chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ và UBND các cấp trong tổ chức thi hành pháp luật nói
chung và TDTHPL nói riêng.
Thứ hai, Nghị định số 59/2012/NĐ-CP là cơ sở pháp lý quan trọng giúp
nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác TDTHPL trong việc quản
lý nhà nước và xã hội, cũng như nâng cao vị trí, vai trò của TDTHPL, tăng
cường hiệu lực, hiệu quả TDTHPP trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, qua
05 năm triển khai thi hành Nghị định số 59/2012/NĐ-CP và các văn bản
hướng dẫn thi hành đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập ảnh hưởng đến hiệu lực,

hiệu quả công tác TDTHPL như: các quy định về trách nhiệm, thẩm quyền,
phạm vi TDTHPL của Bộ Tư pháp, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ và UBND các cấp chưa rõ ràng, cụ thể; quy định về các tiêu chí
đánh giá hiệu quả TDTHPL chưa rõ ràng, bộc lộ một số bất cập nhất là từ khi
có Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015 được ban hành; chưa quy định về
cơ chế đôn đốc, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện các kiến nghị và chế tài
trong trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nội dung kiến
nghị; chưa có cơ chế huy động sự tham gia của người dân và các tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và phát huy vai trò phản
biện xã hội của mặt trận tổ quốc các cấp trong hoạt động TDTHPL...

2


Thứ ba, quá trình triển khai tổ chức thực hiện công tác TDTHPL tại địa
phương còn gặp khó khăn, hạn chế đó là: việc tổ chức triển khai TDTHPL ở
nhiều cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh còn chưa được quan tâm thực
hiện; việc xây dựng và thực hiện kế hoạch TDTHPL tại một số địa phương
còn chậm, chất lượng TDTHPL còn hạn chế, việc tổ chức thực hiện còn mang
tính hình thức, chưa mang lại hiệu quả thiết thực; hầu hết UBND cấp huyện
và các Sở, ngành chưa bố trí được nguồn kinh phí thực hiện nhiệm vụ
TDTHPL; các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, Phòng Tư pháp các
huyện, thành phố chưa bố trí cán bộ chuyên trách thực hiện công tác này; việc
thực hiện kiến nghị của một số cơ quan, đơn vị, địa phương còn chưa thực sự
nghiêm túc...
Từ vị trí, vai trò và ý nghĩa của TDTHPL ngày càng quan trọng và xuất
phát từ những hạn chế, bất cập của công tác TDTHPL trong thực tiễn triển
khai trên địa bàn tỉnh Bắc Giang trong thời gian vừa qua, học viên chọn đề tài
“Theo dõi thi hành pháp luật từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang” làm đề tài luận văn
nhằm đưa ra các khuyến nghị khoa học góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả

công tác TDTHPL nói chung và công tác TDTHPL trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương,
chính sách quan trọng nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật. Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã đề ra những định hướng lớn về
đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Bộ Chính trị đã ban hành
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020;
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020; Kết luận số 01-KL/TW, ngày 04/4/2016 của Bộ Chính trị về việc
tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm

3


2010, định hướng đến năm 2020. Đây là những cơ sở chính trị quan trọng
không chỉ định hướng cho công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật mà còn định hướng cho việc nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật
nói chung và TDTHPL nói riêng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Ngày 30/11/2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
1987/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Triển khai thực hiện công tác theo dõi tình
hình thi hành pháp luật”. Ngày 03/3/2010 , Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
Thông tư số 03/2010/TT-BTP hướng dẫn thực hiện công tác theo dõi tình
hình thi hành pháp luật. Ngày 23/7/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban
hành Nghị định số 59/2012/NĐ-CP. Ngày 15/5/2014 Bộ Tư pháp ban hành
Thông tư số 14/2014/TT-BTP quy định chi tiết thi hành Nghị định số
59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ về theo dõi tình hình thi hành
pháp luật (Thông tư số 14/2014/TT-BTP). Căn cứ Nghị định số 59/2012/NĐCP và các văn bản pháp luật liên quan là cơ sở để Bộ Tư pháp và các Bộ,

ngành, địa phương triển khai TDTHPL trên phạm vi cả nước.
Về phía Bộ Tư pháp đã triển khai nghiên cứu Đề tài “Nâng cao hiệu
quả thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước, đáp ứng yêu cầu của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa”; hiện nay đang triển khai xây dựng Đề án “Đổi
mới, nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thi hành pháp luật”. Bộ Tư pháp đã
biên soạn các cuốn sách tham khảo: “Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn về
theo dõi thi hành pháp luật” 2011, Nxb Tư pháp, Hà Nội; cuốn “Hỏi đáp về
công tác theo dõi thi hành pháp luật” 2014, Nxb Tư pháp, Hà Nội; cuốn “Sổ
tay công tác pháp chế” 2014, Nxb Tư pháp, Hà Nội…Ngoài ra Bộ Tư pháp
còn tổ chức nhiều buổi hội thảo, tọa đàm, hội nghị nhằm hoàn thiện thể chế về
TDTHPL như: năm 2013 tổ chức Hội thảo “Hoàn thiện thể chế về theo dõi thi
hành pháp luật” ; năm 2014 tổ chức Hội thảo “Sự tham gia của Mặt trận tổ
quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội trong công tác
theo dõi thi hành pháp luật”; tháng 3/2017 tổ chức Tọa đàm “Về công tác

4


theo dõi thi hành pháp luật”; tháng 7/2017 tổ chức Hội nghị “Lấy ý kiến đề án
đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thi hành pháp luật”…
Hiện nay, có một số bài báo, bài tham luận tại các diễn đàn khoa học
của các tác giả đề cập đến TDTHPL như: PGS. TS Phan Trung Lý “Bảo đảm
thi hành pháp luật ở địa phương, khó khăn, thuận lợi và giải pháp” Tạp chí
Tổ chức nhà nước tháng 4/2009; PGS.TS Nguyễn Văn Động “Thi hành pháp
luật của cơ quan, nhà nước: Khái niệm, hiệu quả và sự tác động (ảnh hưởng)
của hiệu quả tới xã hội” Tạp chí Luật học số 8/2010; TS Nguyễn Văn Cương
“Một số vấn đề lý luận nhằm hoàn thiện pháp luật về theo dõi thi hành pháp
luật”, tài liệu Tọa đàm “Về công tác theo dõi thi hành pháp luật”, Bộ Tư pháp
2017 ; TS Dương Thị Thanh Mai “Một số định hướng lớn trong việc xác định
các tiêu chí phục vụ việc theo dõi, đánh giá tình hình thi hành pháp luật”, tài

liệu Tọa đàm “Về công tác theo dõi thi hành pháp luật”, Bộ Tư pháp 2017;
ThS Đỗ Đình Lương “Một số suy nghĩ về cách tiếp cận khi xây dựng tiêu chí
theo dõi thi hành pháp luật”, tài liệu Tọa đàm “Về công tác theo dõi thi hành
pháp luật”, Bộ Tư pháp 2017; PGS.TS Nguyễn Minh Đoan “Chính phủ trong
tổ chức thi hành pháp luật và trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân trong tổ
chức thi hành pháp luật”, tài liệu Hội nghị “Lấy ý kiến đề án đổi mới, nâng
cao hiệu quả công tác tổ chức thi hành pháp luật”, Bộ Tư pháp năm 2017;
PGS.TS Bùi Xuân Đức “Phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam
trong việc giám sát thi hành pháp luật”, tài liệu Hội nghị “Lấy ý kiến đề án
đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thi hành pháp luật”, Bộ Tư pháp
năm 2017; GS.TS Trần Ngọc Đường “Tổ chức thi hành pháp luật theo Hiến
pháp 2013”, tài liệu Hội nghị “Lấy ý kiến đề án đổi mới, nâng cao hiệu quả
công tác tổ chức thi hành pháp luật”, Bộ Tư pháp năm 2017...
Mặc dù có nhiều công trình, bài báo, bài tham luận tại các buổi tọa đàm,
hội thảo, hội nghị nghiên cứu và đề cập về TDTHPL, tuy nhiên các công trình,
bài báo, tham luận tại hội thảo, tọa đàm chủ yếu đề cập đến những vấn đề lý
luận và một số khía cạnh khác của TDTHPL. Cho đến nay, chưa có công trình

5


nghiên cứu nào ở góc độ luận văn thạc sĩ luật học về TDTHPL từ thực tiễn của
tỉnh Bắc Giang. Vì vậy, học viên chọn đề tài “Theo dõi thi hành pháp luật từ
thực tiễn tỉnh Bắc Giang” để làm luận văn thạc sĩ của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn công tác TDTHPL tại tỉnh
Bắc Giang: từ thực trạng triển khai thực hiện công tác TDTHPL của UBND
tỉnh, các Sở, ngành, UBND cấp huyện, UBND cấp xã; thực trạng tổ chức bộ
máy, biên chế, kinh phí đảm bảo cho công tác TDTHPL đến việc tiến hành

các hoạt động TDTHPL trên địa bàn tỉnh… Từ đó đề xuất các giải pháp bảo
đảm TDTHPL hiện nay trên địa bàn cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh
Bắc Giang nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ của đề tài gồm:
- Phân tích làm rõ cơ sở lý luận và pháp lý của TDTHPL gồm: khái
niệm TDTHPL; nguyên tắc TDTHPL; chủ thể TDTHPL; nội dung TDTHPL;
các hoạt động TDTHPL…
- Đánh giá, phân tích thực trạng TDTHPL ở tỉnh Bắc Giang; những hạn
chế, bất cập trong TDTHPL và phân tích chỉ rõ nguyên nhân của những hạn
chế, bấp cập.
- Đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm TDTHPL trong giai đoạn tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
- Đối tượng nghiên cứu cúa đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn
về TDTHPL trên địa bàn tỉnh Bắc Giang; làm rõ những hạn chế, bất cập và
các giải pháp nhằm bảo đảm TDTHPL.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là TDTHPL từ năm 2011 đến nay trên
địa bàn tỉnh Bắc Giang.

6


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, luận văn sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: Phương pháp phân tích, phương pháp
lịch sử; phương pháp tổng hợp, so sánh, thống kê để lý giải những vấn đề lý
luận, thực trạng, kiến nghị các giải pháp bảo đảm TDTHPL từ thực tiễn tỉnh
Bắc Giang.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Đề tài làm sáng tỏ thêm một số nội dung lý luận về TDTHPL.
- Phân tích, đánh giá thực trạng; chỉ ra những hạn chế, bất cập của
TDTHPL từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang. Đề xuất những giải pháp, kiến nghị bảo
đảm TDTHPL.
- Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu luận văn có thể làm tài liệu tham
khảo trong các cơ sở đào tạo, cho những người làm công tác nghiên cứu về
TDTHPL hoặc áp dụng trong thực tiễn.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn được bố
cục thành 3 Chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về theo dõi thi hành pháp luật.
Chương 2: Thực tiễn theo dõi thi hành pháp luật ở tỉnh Bắc Giang.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm theo dõi thi hành pháp luật
trong giai đoạn hiện nay.

7


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ THEO DÕI THI HÀNH
PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm, nguyên tắc, mục đích, ý nghĩa của theo dõi thi hành
pháp luật
1.1.1. Quan niệm về thi hành pháp luật
Hiện nay, trong khoa học pháp lý ở nước ta khái niệm “thi hành pháp
luật” đang có một số cách hiểu khác nhau. Cụ thể:
Thứ nhất, khái niệm “thi hành pháp luật” chỉ là một trong bốn hình thức
“thực hiện pháp luật” được hiểu là hành vi thực tế, hợp pháp có mục đích của
các chủ thể pháp luật nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật, làm
chúng đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ

thể pháp luật [37, tr396]. Thi hành pháp luật được hiểu chỉ là một hình thức
thực hiện pháp luật, theo đó, nghĩa vụ pháp lý của chủ thể pháp luật được hiện
thực hóa thông qua hành động tích cực của chủ thể. Bên cạnh thi hành pháp
luật, còn các hình thức thực hiện pháp luật khác còn bao gồm: tuân thủ pháp
luật, sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật.
Thứ hai, khái niệm “thi hành pháp luật” được hiểu là bao gồm mọi hoạt
động nhằm đưa pháp luật vào cuộc sống, biến quy định của pháp luật trở thành
hành vi của các chủ thể [20, tr40]. Theo đó, thì khái niệm “thi hành pháp luật”
là khá gần với nghĩa của thuật ngữ “thực hiện pháp luật” như đã trình bày ở
trên.
Thứ ba, có quan điểm cho rằng “thi hành pháp luật” là mọi hoạt động
của cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện để hiện thực hóa các yêu cầu của pháp
luật, đưa pháp luật vào cuộc sống [11,tr28].
Tuy nhiên, trên thực tế ở Việt Nam cho đến nay chưa có văn bản pháp
luật nào quy định (định nghĩa) về “thi hành pháp luật”. Do vậy, trong luận văn
8


này, “thi hành pháp luật” được hiểu là mọi hoạt động nhằm đưa pháp luật vào
cuộc sống, biến quy định của pháp luật trở thành hành vi thực tế, hợp pháp của
các chủ thể.
Với cách hiểu như trên thì “thi hành pháp luật” có những đặc trưng sau:
Một là, thi hành pháp luật là nghĩa vụ của tất cả các cơ quan nhà nước và
mọi tổ chức, cá nhân, song quan trọng nhất là vai trò của Chính phủ, các Bộ, cơ
quan ngang Bộ và UBND các cấp;
Hai là, thi hành pháp luật phải tuân thủ các trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định.
Ba là, thi hành pháp luật phải tuân thủ về tính thống nhất và quan hệ
hành chính mệnh lệnh - phục tùng.
Bốn là, thi hành pháp luật mang tính chủ động, sáng tạo.

Theo đó thì nội hàm của hoạt động thi hành pháp luật bao gồm các hoạt động
sau:
Một là, công bố và chuyển tải các thông tin pháp luật đến cơ quan, tổ
chức, cá nhân và người dân có trách nhiệm thi hành;
Hai là, ban hành các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành;
Ba là, tiến hành phổ biến, giáo dục pháp luật, giải thích pháp luật;
Bốn là, xây dựng kế hoạch trong đó phân công, phân việc và mối quan hệ
phối hợp giữa các cơ quan liên quan và cá nhân có trách nhiệm thi hành pháp
luật;
Năm là, bảo đảm các điều kiện về tổ chức bộ máy, cơ sở vật chất, kinh
phí và các điều kiện khác cho thi hành pháp luật;
Sáu là, thanh tra, kiểm tra, theo dõi, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong thi hành pháp luật.
1.1.2. Khái niệm theo dõi thi hành pháp luật

9


Theo Từ điển tiếng Việt (của tác giả Thành Yến biên soạn) thì “theo
dõi” được hiểu là chú ý theo sát từng hoạt động, từng diễn biến để biết rất rõ
hoặc có sự ứng phó, xử lý kịp thời [35]. Trong khoa học pháp lý, “theo dõi thi
hành pháp luật” được hiểu là hoạt động xem xét, đánh giá của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân đối với quá trình tổ chức thi hành pháp luật của cơ quan nhà
nước và người có thẩm quyền. Trên cơ sở kết quả theo dõi, cơ quan, tổ chức,
cá nhân phát hiện những vướng mắc, bất cập phát sinh trong thực tiễn triển
khai thi hành pháp luật; kiến nghị, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả thi hành pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật[9]. Theo quy định tại
Điều 7 Nghị định số 59/2012/NĐ-CP thì TDTHPL là hoạt động của các Bộ,
cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp nhằm xem xét,
đánh giá tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành văn bản QPPL,

tình hình bảo đảm các điều kiện cho thi hành pháp luật và tình hình tuân thủ
pháp luật.
Có thể thấy TDTHPL là hoạt động vừa mang tính khoa học vừa mang
tính quyền lực nhà nước [10,tr19]. Bởi TDTHPL là hoạt động do cơ quan nhà
nước, người có thẩm quyền thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ do pháp luật
quy định. Do đó chủ thể thực hiện hoạt động TDTHPL thường là các cơ quan
nhà nước như: Bộ Tư pháp, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ và UBND các cấp. Trong quá trình tiến hành TDTHPL các chủ thể có
thẩm quyền có thể yêu cầu đối tượng TDTHPL (cơ quan, tổ chức, cá nhân) có
trách nhiệm thực hiện các yêu cầu của họ (như cung cấp thông tin, hồ sơ, báo
cáo, giải trình…). Mặt khác, qua TDTHPL thì chủ thể có thẩm quyền
TDTHPL có thể kiến nghị buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân phải xử lý các kiến
nghị.
Bên cạnh đó, các hoạt động TDTHPL nhằm mục đích tổng hợp thông
tin để có cơ sở đánh giá chính xác, khách quan về tình hình thi hành pháp luật

10


trong lĩnh tổ chức TDTHPL. Các hoạt động thu thập và xử lý thông tin, điều
tra, khảo sát, kiểm tra tình hình thi hành pháp luật và xử lý kết quả TDTHPL
là hoạt động mang tính chất khoa học do phải sử dụng các phương pháp khoa
học để tổng hợp, thu thập thông tin, phân tích, xử lý thông tin và trên cơ sở đó
xem xét, đánh giá tình hình nhằm đưa ra các kiến nghị để hoàn thiện hệ thống
pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật. Những hoạt
động đòi hỏi vận dụng các kỹ năng, yêu cầu, mục đích như hoạt động nghiên
cứu khoa học. Sản phẩm đầu ra của TDTHPL chính là thông tin về tình hình
thi hành pháp luật. TDTHPL được xem là hoạt động của cơ quan hành chính
nhà nước có thẩm quyền thực hiện để nắm bắt tình tình hình thi hành pháp
pháp luật trong một lĩnh vực nhất định. Và do đó có thể xem đây là một kênh

“giám sát hành chính”[10, tr20].
Hiện nay, một số cơ quan, tổ chức, cá nhân còn chưa nhận thức và phân
biệt rõ giữa hoạt động TDTHPL với các hoạt động kiểm tra, thanh tra. Do
vậy, làm rõ nội hàm các hoạt động trên sẽ giúp làm sáng tỏ hơn nữa về hoạt
động TDTHPL.
Kiểm tra: là hoạt động thường xuyên của cơ quan nhà nước cấp trên
với cơ quan nhà nước cấp dưới được thực hiện trong quan hệ trực thuộc.
Quan hệ trực thuộc đó được pháp luật trao quyền cho chủ thể quản lý theo
lĩnh vực (theo ngành) hoặc quan hệ trực thuộc theo thứ bậc trên, dưới trong hệ
thống hành chính. Từ quan hệ trực thuộc đó đã phát sinh hai loại kiểm tra đó
là kiểm tra theo chức năng và kiểm tra nội bộ.
Thanh tra: Theo quy định của Luật Thanh tra thì thanh tra là việc xem
xét, đánh giá, xử lý của các cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện
chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý
theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục được pháp luật quy định [30].

11


Từ đó chúng ta có thể thấy, giữa TDTHPL và hoạt động kiểm tra, thanh
tra khác nhau cơ bản ở một số nội dung như:
Về mục đích của hoạt động thanh tra nhằm phát hiện sơ hở trong hoạt
động quản lý, chính sách pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi
phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của
pháp luật; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước;
bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức,
cơ quan. Còn mục đích của TDTHPL nhằm xem xét, đánh giá thực trạng thi
hành pháp luật, kiến nghị thực hiện các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành
pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Về hiệu lực pháp lý của hoạt động thanh tra: trong quá trình thanh tra
các đối tượng thanh tra là các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể bị xử lý về
hành vi không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ, chính xác, kịp thời theo
yêu cầu của người ra quyết định thanh tra, trưởng đoàn thanh tra hoặc Thanh
tra viên hoặc nếu tiêu hủy tài liệu, vật chứng thì tùy theo mức độ vi phạm có
thể bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự...
Còn đối với TDTHPL thì chỉ dừng lại việc yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá
nhân cung cấp thông tin, tài liệu, hồ sơ có liên quan chứ không đặt ra trách
nhiệm pháp lý và chế tài đối với hành vi không thực hiện hoặc không hợp tác,
phối hợp.
Về chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra là do cơ quan thanh tra hoặc
Thanh tra viên thực hiện theo kế hoạch hoặc quyết định thanh tra đột xuất của
cơ quan, người có thẩm quyền (bên cạnh sự tham gia của các thành phần có
liên quan khác). Còn chủ thể của TDTHPL rộng hơn bao gồm các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND các cấp. Bên cạnh đó thì

12


các hoạt động thanh tra, phương thức thực hiện, kết luận thanh tra cũng là
những điểm khác của hoạt động này so với TDTHPL.
Như vậy, về cơ bản hoạt động thanh tra, kiểm tra là hoạt động mang
tính quyền uy, phục tùng giữa cơ quan cấp trên với cơ quan cấp dưới, giữa cơ
quan tiến hành thanh tra và đối tượng bị thanh tra. Mặt khác qua hoạt động
thanh tra, kiểm tra thì chủ thể bị thanh tra, kiểm tra có trách nhiệm buộc phải
thực hiện các yêu cầu, kết luận thanh tra, kiểm tra nếu không sẽ phải chịu các
hậu quả pháp lý bất lợi. Còn đối với hoạt động TDTHPL thì chỉ là hoạt động
nhằm xem xét, đánh giá thực trạng thi hành pháp luật và chỉ dừng lại ở việc
đề xuất, kiến nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm nâng cao hiệu quả thi
hành pháp luật.

Một điểm nữa khác với công tác thanh tra, kiểm tra là TDTHPL có
phạm vi rộng hơn. Trong quá trình thực hiện TDTHPL thì kết quả của hoạt
động thanh tra, kiểm tra là một trong những nguồn thông tin quan trọng cung
cấp cho quá trình tổ chức TDTHPL.
1.1.3. Nguyên tắc theo dõi thi hành pháp luật
Thứ nhất, hoạt động TDTHPL phải bảo đảm tính khách quan, công khai,
minh bạch.
Xuất phát từ mục đích của TDTHPL nên để đánh giá thực trạng của tình
hình thi hành pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân thì TDTHPL cần phải
thực hiện một cách khách quan, công khai, minh bạch. Bằng các hoạt động,
cách thức tiến hành các hoạt động TDTHPL nhằm thu thập, đánh giá thông
tin về TDTHPL một cách chính xác, khách quan để từ đó mới thấy rõ được
bức tranh về thực trạng thi hành pháp luật. Các hoạt động và kết quả
TDTHPL phải được công bố công khai và báo cáo TDTHPL phải phản ánh
trung thực các kết quả TDTHPL. Trên cơ sở đó mới đề xuất, kiến nghị các

13


giải pháp trúng và đúng vấn đề nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng
cao hiệu quả thi hành pháp luật
Thứ hai, TDTHPL phải được thực hiện thường xuyên, toàn diện, có
trọng tâm, trọng điểm.
Việc TDTHPL là nhằm đánh giá, xem xét pháp luật đi vào cuộc sống
như thế nào nên TDTHPL phải được thực hiện thường xuyên để kịp thời phát
hiện những bất cập, hạn chế từ quy định của pháp luật đến quá trình tổ chức
thi hành pháp luật từ đó kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật. TDTHPL
phải được thực hiện một cách toàn diện các nội dung TDTHPL như xem xét,
đánh giá từ các quy định của hệ thống pháp luật đến các điều kiện đảm bảo
cho TDTHP và mức độ tuân thủ pháp luật. Phạm vi TDTHPL theo quy định

rất rộng bao gồm tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên trên thực
tế, do điều kiện về nguồn lực tổ chức bộ máy, biên chế, kinh phí và trên cơ sở
nắm bắt những vấn đề “nóng”, vấn đề “nổi cộm” đang tồn tại nhiều bất cập,
hạn chế trong việc tuân thủ pháp luật để lựa chọn những vấn đề trọng tâm tổ
chức TDTHPL. Do đó, TDTHPL phải có trọng tâm, trọng điểm để sử dụng
phù hợp các nguồn lực và đảm bảo hiệu quả, ý nghĩa của TDTHPL góp phần
quan trọng trong nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước ở những ngành, lĩnh
vực được tổ chức TDTHPL.
Thứ ba, kết hợp theo dõi THPLPL theo lĩnh vực và theo địa bàn.
Để có cái nhìn toàn diện, đánh giá khách quan và chính xác về một lĩnh
vực thì TDTHPL cần phải tiến hành kết hợp theo dõi theo lĩnh vực và địa bàn
và phải được thực hiện một cách đồng thời để có cái nhìn xuyên suốt, toàn
diện về một lĩnh vực. Việc tổ chức TDTHPL ở một ngành, lĩnh vực cụ thể để
xem xét, đánh giá tình hình thi hành pháp luật về lĩnh vực đó ở các địa bàn
khác nhau. Từ đó mới có cái nhìn tổng thể, toàn diện và khách quan, chính
xác về tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực đó.

14


Thứ tư, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức trong
quá trình TDTHPL; không trùng lắp, chồng chéo với các hoạt động thuộc
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước đã được pháp luật quy
định
Nguyên tắc này đòi hỏi để TDTHPL không trùng lặp, chồng chéo và ảnh
hưởng tới hoạt động thuộc phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà
nước khác đã được pháp luật quy định. Mặt khác, TDTHPL là hoạt đặc thù
liên quan đến nhiều cơ quan, do đó hiệu quả phối hợp của các cơ quan, tổ
chức liên quan ảnh hưởng trực tiếp tới TDTHPL. Vì vậy, trong TDTHPL cần
sự phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan, tổ chức.

Thứ năm, huy động sự tham gia của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và nhân dân.
Để thu thập thông tin nhằm xem xét, đánh giá một cách toàn diện, khách
quan, chính xác về tình hình thi hành pháp luật thì ngoài các cơ quan nhà
nước cần huy động sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và nhân dân. Qua việc tham
gia của những đối tượng trên sẽ là nguồn cung cấp thông tin phong phú trong
quá trình TDTHPL. Sự đánh giá, giám sát, phản ánh và phản biện xã hội là
kênh thông tin quan trọng trong việc đánh giá tình hình thi hành pháp luật.
1.1.4. Mục đích, ý nghĩa của theo dõi thi hành pháp luật
Mục đích của TDTHPL là nhằm xem xét, đánh giá thực trạng thi hành
pháp luật, kiến nghị thực hiện các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp
luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
TDTHPL có các ý nghĩa như sau:
Thứ nhất, TDTHPL là một kênh thông tin quan trọng để đánh giá về
thực trạng thi hành pháp luật và mức độ tuân thủ pháp luật của cơ quan, tổ
chức, người dân. Thông qua TDTHPL giúp cho cơ quan nhà nước đánh giá

15


toàn diện, khách quan, kịp thời tình hình thi hành pháp luật để từ đó phân tích
nguyên nhân và có giải pháp hữu hiệu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước;
Thứ hai, TDTHPL nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền XHCN. Một trong những yêu cầu đặt ra trong việc xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN là Hiến pháp và các đạo luật
giữ vị trí tối thượng. Hệ thống pháp luật thể hiện đầy đủ, đúng đắn ý chí của
nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan. Nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp
và pháp luật là của tất cả công dân, không loại trừ đối với bất cứ ai. Hoạt động
TDTHPL nhằm giúp nhà nước phát hiện, xử lý những bất cập, tồn tại trong

quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện Hiến pháp và pháp luật. Thông qua
quá trình theo dõi, đánh giá việc đưa pháp luật vào thực thi trong đời sống xã
hội, các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân, công dân sẽ góp phần tìm ra
những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập của pháp
luật. Trên cơ sở đó, đóng góp ý kiến, kiến nghị và các giải pháp nâng cao hiệu
quả thi hành pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật, góp phần vào sự nghiệp
xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN;
Thứ ba, TDTHPL nhằm đáp ứng yêu cầu bảo đảm và phát huy dân chủ
trong đời sống xã hội. Theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, nhân dân thực
hiện quyền làm chủ của mình bằng việc kiểm soát quyền lực Nhà nước. Việc
kiểm soát đó bao gồm kiểm soát quyền lực nhà nước ở bên trong là kiểm soát
việc thực thi lập pháp, hành pháp và tư pháp. Kiểm soát quyền lực nhà nước
bên ngoài là nhân dân thông qua các tổ chức chính trị - xã hội và thông qua
các phương tiện thông tin đại chúng. Do vậy, TDTHPL là cơ chế hữu hiệu để
nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Người dân có thể trực tiếp tham
gia vào hoạt động TDTHPL thông qua việc theo dõi, phản ánh, kiến nghị việc
thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước bằng nhiều phương thức khác nhau

16


như phản ánh tình hình thi hành pháp luật trên các phương tiện thông tin đại
chúng, gửi đơn thư tới cơ quan có thẩm quyền hoặc thực hiện gián tiếp thông
qua các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp đại diện cho
mình;
Thứ tư, TDTHPL nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Trước yêu
cầu của công cuộc hội nhập quốc tế gắn kết với việc hoàn thiện thể chế,
TDTHPL là phương thức hiệu quả để xem xét, đánh giá kết quả thi hành pháp
luật trong thực tiễn đời sống như thế nào? Thông qua hoạt động TDTHPL,
các quy định, các văn bản pháp luật tồn tại nghiều bất cập, hạn chế, khiến

khuyết sẽ được kịp thời phát hiện để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới
nhằm thiết lập hành lang pháp lý đầu đủ, phù hợp, đáp ứng yêu cầu hội nhập
quốc tế.
1.2. Chủ thể và nội dung của theo dõi thi hành pháp luật
1.2.1. Chủ thể có trách nhiệm theo dõi thi hành pháp luật
Việc nghiên cứu về chủ thể có trách nhiệm TDTHPL có ý nghĩa quan
trọng đối với việc xác định vai trò, trách nhiệm của từng chủ thể trong
TDTHPL. Trên cơ sở xác định rõ phạm vi, trách nhiệm của từng cơ quan, tổ
chức, cá nhân mới có đánh giá tổng thể hiệu lực, hiệu quả của bộ máy thực
hiện TDTHPL từ đó kịp thời kiến nghị nhằm nâng cao trách nhiệm, hiệu quả
của chủ thể liên quan trong TDTHPL.
Theo quy định hiện hành thì các chủ thể có trách nhiệm TDTHPL chủ
yếu hiện nay gồm: Bộ Tư pháp; Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ và UBND các cấp.
* Bộ Tư pháp với trách nhiệm là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà
nước và tổ chức TDTHPL trên phạm vi cả nước có trách nhiệm cụ thể sau:
- Trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền
các văn bản QPPL về TDTHPL.

17


- Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ tiêu thống kê quốc gia làm
cơ sở cho việc xem xét, đánh giá tình hình thi hành pháp luật.
- Hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh trong việc thực hiện TDTHPL.
- Chủ trì, phối hợp với Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
và các cơ quan, tổ chức có liên quan TDTHPL trong phạm vi cả nước và
trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý liên ngành, có nhiều khó khăn,
vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành.

- Hằng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ về TDTHPL trong phạm vi cả
nước trước ngày 15 tháng 11.
- Thực hiện trách nhiệm TDTHPL trong các lĩnh vực quản lý nhà nước
thuộc phạm vi của Bộ Tư pháp.
* Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm cụ thể
sau:
- Chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các cơ quan, đơn vị trực thuộc
trong việc thực hiện TDTHPL.
- Ban hành Chỉ tiêu thống kê ngành làm cơ sở cho việc xem xét, đánh giá
tình hình thi hành pháp luật.
- Ban hành và tổ chức thực hiện kế hoạch TDTHPL của Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
- Bảo đảm các điều kiện cho việc thực hiện TDTHPL.
- Hằng năm báo cáo Bộ Tư pháp công tác TDTHPL trước ngày 15 tháng
10.
- Xử lý kết quả theo dõi tình hình thi hành pháp luật theo thẩm quyền
hoặc kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử lý kết quả theo dõi tình hình
thi hành pháp luật. Đồng thời có trách nhiệm xử lý kết quả theo dõi tình hình

18


thi hành pháp luật theo đề nghị của Bộ Tư pháp hoặc của Bộ, cơ quan ngang
Bộ trong phạm vi ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của mình.
Tổ chức pháp chế ở Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ tham mưu, giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ TDTHPL.
Các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ tham mưu, giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc

Chính phủ TDTHPL trong lĩnh vực được phân công.
* Ủy ban nhân dân các cấp
UBND các cấp có trách nhiệm theo dõi tình hình thi hành pháp luật
trong phạm vi quản lý ở địa phương, có trách nhiệm cụ thể như sau:
- Chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND cùng cấp, UBND cấp dưới trong việc thực hiện TDTHPL tại địa
phương.
- Ban hành và tổ chức thực hiện kế hoạch TDTHPL.
- Xử lý kết quả TDTHPL theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan,
người có thẩm quyền xử lý kết quả theo dõi tình hình thi hành pháp luật.
UBND cấp tỉnh có trách nhiệm xử lý kết quả theo dõi tình hình thi hành pháp
luật theo đề nghị của Bộ Tư pháp hoặc của Bộ, cơ quan ngang Bộ trong phạm
vi ngành, lĩnh vực của Bộ, cơ quan ngang Bộ. Đồng thời UBND cấp dưới có
trách nhiệm xử lý kết quả theo dõi tình hình thi hành pháp luật theo yêu cầu
của UBND cấp trên trực tiếp.
- Bảo đảm các điều kiện cho việc thực hiện TDTHPL.
- Hằng năm, UBND cấp tỉnh báo cáo Bộ Tư pháp công tác TDTHPL
trước ngày 15 tháng 10.

19


- UBND cấp huyện, cấp xã thực hiện việc báo cáo công tác TDTHPL
theo yêu cầu của UBND cấp trên trực tiếp.
Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã chủ trì,
phối hợp với cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện, công
chức chuyên môn thuộc UBND cấp xã TDTHPL trong phạm vi quản lý ở địa
phương.
Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện, công chức
chuyên môn thuộc UBND cấp xã tham mưu, giúp UBND cùng cấp TDTHPL

trong lĩnh vực được phân công.
* Các chủ thể khác tham gia thực hiện hoạt động theo dõi thi hành pháp
luật
Bên cạnh các chủ thể chủ yếu nêu trên thì TDTHPL còn do một số chủ
thể khác tham gia như: Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân có trách
nhiệm cung cấp thông tin về tình hình thi hành pháp luật của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân thông qua hoạt động công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, xét
xử; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cung cấp thông tin,
kiến nghị của nhân dân thông qua giám sát tình hình thi hành pháp luật và đề
xuất lĩnh vực trọng tâm theo dõi tình hình thi hành pháp luật; Hội luật gia Việt
Nam, Liên đoàn luật sư Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam, các hội nghề nghiệp cung cấp các ý kiến, kiến nghị về các vấn đề pháp
lý có liên quan đến TDTHPL; cơ quan thông tin đại chúng cung cấp ý kiến
phản ánh của dư luận xã hội về tình hình thi hành pháp luật; các cá nhân tham
gia vào hoạt động TDTHPL như có thể đến trực tiếp nơi tiếp công dân, gửi ý
kiến bằng văn bản để cung cấp thông tin, phản ánh và tham gia theo cơ chế
cộng tác viên.
Hiện nay để tham gia vào hoạt động TDTHPL thì pháp luật cũng quy
định trách nhiệm phối hợp của các Bộ, ngành, địa phương với các cơ quan, tổ

20


×