Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

tinh than tho moi qua bai mot thoi dai trong thi ca cua hoai thanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.84 KB, 7 trang )

Tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
– Hoài Thanh (1909 – 1982) là nhà phê bình văn học xuất sắc của văn học Việt Nam hiện
đại. Ông họạt động chủ yếu trong ngành văn hoá – nghệ thuật. Ông từng giữ nhiều chức
vị quan trọng và là nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại.
Năm 2000, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn hội nghệ thuật.
– Thi nhân Việt Nam là công trình được đánh giá là xuất sắc nhất của ông. Một thời đại
trong thi ca là tiểu luận mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam. Đó là bản tổng kết một cách sâu
sắc phong trào Thơ mới. Đoạn trích thuộc phần cuối của bài tiểu luận.
– Phân tích đoạn trích, chúng ta sẽ hiểu được tinh thần thơ mới trong tiểu luận mà tác giả
muốn gửi đến độc giả.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cái khó trong việc tìm ra tinh thần thơ mới
– Khi nói về cái khó trong việc tìm ra tinh thần thơ mới, tác giả đã viết: “Giá trong thơ cũ
chỉ có những trần ngôn sáo ngữ, những bài thơ chúc tụng, những bài thơ vịnh hết cái này
đến cái nọ, mà các nhà thơ mới lại chỉ làm những bài kiệt tác thì cũng tiện cho ta biết
mấy”. Như vậy, theo tác giả sự xáo trộn làm cho việc lựa chọn bài để so sánh, đề hiểu
được tinh thần thơ mới là không phải dễ.
– Tác giả đã đặt thơ mới vào trong dòng chảy của thơ ca dân tộc để thấy hết sự khó khăn
để hiểu tinh thần thơ mới: “Trời đất không phải dựng lên cùng một lần với chúng ta, hôm
nay đã phôi thai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ”. Cái cũ, cái
mới không thể phân biệt được một cách rạch ròi nên việc hiểu đầy đủ, rạch ròi về thơ mới
tất yếu phải gặp khó khăn.
– Tác giả đã chỉ ra cách nhận diện thơ mới và thơ cũ: Tác giả khẳng định phải so sánh
những bài thơ hay với những bài thơ hay, so sánh đối chiếu giữa thời đại với thời đại một
cách khái quát.
2. Điều cốt lõi làm nên tinh thần thơ mới
– Theo tác giả, điều cốt lõi làm nên tinh thần thơ mới là cái “tôi”: “Cứ đại thể thì tất cả
tinh thần thời xưa - hay thơ cũ - và thời nay - hay thơ mới - có thể gồm lại trong hai chữ



tôi và ta. Ngày trước là thời chữ ta, bây giờ là thời chữ tôi - “Xã hội Việt Nam từ xưa
không có cá nhân. Chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình, còn cá nhân, cái bản
sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả”.
“Cũng có những bậc kì tài xuất đầu lộ diện. Thảng hoặc họ cũng ghi hình ảnh họ trong
văn thơ. Và thảng hoặc trong văn thơ họ dùng đến chữ tôi để nói chuyện với người khác.
Song dầu táo bạo đến đâu họ cũng không một lần nào dám dùng chữ tôi để nói chuyện với
mình. Mỗi khi nhìn vào tâm hồn họ hay đứng trước loài người mênh mông hoặc họ không
tự xưng hoặc họ ẩn mình sau chữ ta”.
– Trong thơ mới đã xuất hiện chữ tôi với nghĩa tuyệt đối của nó. “Thi nhân ta cơ hồ đã
mất hết cái cốt cách hiên ngang ngày trước. Chữ ta với họ to rộng quá. Tâm hồn của họ
chỉ vừa thu trong khuôn khổ chữ tôi. Tác giả cho rằng khi cái tôi xuất hiện thì “người ta
lại còn thấy nó đáng thương, mà thật tội nghiệp nó quá”. Tác giả thấy nó tội nghiệp bởi vì
khi cái tôi xuất hiện nó lạ lẫm với mọi người vì từ trước người ta chỉ nói đến cái ta, hơn
nữa cái tôi lại sinh ra trong hoàn cảnh đất nước đắm chìm trong bóng đêm của sự xâm
lăng, chính vì thế mà nó trở nên tội nghiệp.
– Tác giả khẳng định “Chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế. Cùng
lòng tự tôn, ta mất luôn cả cái bình yên thời trước”. Cái tôi bây giờ mất hết cái cốt cách
hiên ngang ngày trước. “Đời chứng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề
sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát, lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong
trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, ta đắm say cùng Xuân
Diệu..”.
=> Tác giả đã chỉ ra nội dung và tinh thần thơ mới. Tác giả phát hiện ra cốt lõi của thơ
mới là chữ tôi và đánh giá cái tôi một cách sâu sắc, hài hoà. “Tất cả cái bi kịch đang diễn
ngấm ngầm, dưới những phù hiệu dễ dãi, trong hồn người thanh niên”. Các nhà thơ mới
đã mất niềm tin.
3. Cách giải quyết bi kịch của các nhà thơ mới
– Các nhà thơ mới tìm lại niềm tin bằng cách gửi vào tình yêu tiếng Việt. “Họ yêu vô
cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu
quê hương trong tình yêu tiếng Việt: Tiếng Việt, họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn



những thế hệ qua. Đến lượt họ, họ cũng muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn
khoăn riêng”.
– “Chưa bao giờ như bây giờ, họ cảm thấy tinh thần nòi giống cũng như các thể thơ xưa
chí biến thiên chứ không sao tiêu diệt”.
– “Chưa bao giờ như bây giờ họ thấy cần phải tìm về dĩ vãng để vin vào những gì bất diệt
đủ bảo đảm cho ngày mai”.
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
– Với nghệ thuật lập luận khoa học, chặt chẽ, thấu đáo và một văn phong tài hoa, tinh tế,
giàu cảm xúc, Một thời đại trong thi ca đã nêu rõ nội dung cốt yếu của “tinh thần thơ
mới” là chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó. Chữ tôi gắn liền với cá nhân, với cái riêng
cá thể khác với chữ ta gắn liền với tổng thể, cộng đồng, xã hội.
– Tác giả phát hiện và chỉ rõ cách giải quyết bi kịch của các nhà thơ mới. Họ tìm lại lòng
tin bằng cách gửi tâm hồn mình vào lòng yêu tiếng Việt, vào tình yêu quẻ hương, đất
nước.
– Những lập luận của bài viết luôn có sức thuyết phục cao vì nó gắn bó chặt chẽ giữa
những nhận định, những luận điểm có tính khái quát với những ví dụ có tính minh chứng
cụ thể, đa dạng, giàu tính thuyết phục.
Bài tham khảo:
Tinh thần thơ mới là một nội dung nổi bật được Hoài Thanh nói lên thật sâu sắc trong
phần cuối bài tiểu luận "Một thời đại trong thi ca".
Sau khi chỉ ra hình dáng câu thơ, nhạc điệu câu thơ, sự mềm mại, chỗ ngắt hơi, phép
dùng chữ, phép đặt câu,… của thơ mới, ông nói rõ tinh thần thơ mới là điều quan trọng
hơn ta hãy đi tìm. Ông đưa ra một tiêu chí là "phải sánh bài hay với bài hay"; ông chỉ ra
sự kế thừa của sự vật là "Hôm nay đã phôi thai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt
lại ít nhiều cái cũ". Vì các thời đại vẫn nối tiếp theo dòng chảy thời gian nên “muốn rõ đặc
sắc mỗi thời phải nhìn vào đại thể".
Tinh thần thơ mới theo Hoài Thanh biểu hiện rõ nhất ở chữ tôi. Trong thơ cũ là chữ ta,
còn trong thơ mới là chữ tôi. Tuy có chỗ giống nhau nhưng vẫn có chỗ khác nhau, đó là
điều chúng ta hãy cần tìm hiểu.



Cái tôi là bản ngã của mỗi con người mà ai cũng có, là sự tự ý thức về mình. Nó mang
theo một quan niệm chưa từng thấy: quan niệm cá nhân. Lúc đầu chữ tôi xuất hiện trên thi
đàn Việt Nam "thực bỡ ngỡ", như một kẻ "lạc loài nơi đất khách". "Chữ tôi vài cái nghĩa
tuyệt đối của nó" lúc đầu xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó đến một mình, "bao nhiêu
con mắt nhìn nó một cách khó chịu". Ngày một ngày hai, “mất dần vẻ bở ngỡ rồi được
"vô số người quen", cảm thấy "nó đáng thương", "nó tội nghiệp quá!".
Bài "Tình già" của Phan Khôi, bài "Trên đường đời", "Vắng khách thơ" (sau đổi thành
"Xuân về") của Lưu Trọng Lư là ba bài thơ mới được giới thiệu trên báo Phụ nữ tân văn
vào năm 1932. Sáu năm sau, 1938, tập "Thơ thơ" của Xuân Diệu ra đời. Ta có thế giớỉ
thiệu hai đoạn thơ làm ví dụ để thấy được "hình dáng câu thơ", thấy được cái tôi từ chỗ
"bỡ ngỡ" lúc đầu rồi về sau được "vô số người quen" như thế nào?
Năm vừa rồi
Chàng cùng tôi
Nơi vùng giáp Mộ
Trong gian nhà cổ
Tôi quay tơ,
Chàng ngâm thơ.
Vườn sau oanh giục gĩa,
Nhìn ra hoa đua nở,
Dừng tay tôi kêu chàng:
"Này, này! bạn! xuân sang"
Chàng nhìn xuân mặt hớn hở
Tôi nhìn chàng lòng vồn vã
(“Xuân về' – Lưu Trọng Lư)
Và đây là bốn câu thơ trích trong bài "Vội vàng” của Xuân Diệu Mỗi sáng sớm thần
vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa;

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân…


Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân, chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì
gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân "chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia
như giọt nước trong biển cả". Những bậc kì tài (như Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương,
Tú Xương,…), "thảng hoặc họ cũng ghi hình ảnh họ trong văn thơ", thẳng hoặc trong thơ
văn họ cũng dùng đến chữ tôi để nói chuyện với người khác" (1). Trong thợ cũ thường chỉ
có chữ ta, các thi sĩ "ẩn mình sau chữ ta một chữ có thể chí chung nhiều người".
Rượu đến cội cây ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan)
Gặp ta nay, xuân chớ lạ lùng
Tóc có khác nhưng lòng chẳng khác
Kế từ thuở biết xuân bốn mươi chín năm về trước
Vẫn rượu thơ non nước thú làm vui
Đến xuân này ta tuổi đã năm mươi
Tính trăm tuổi đời người, ta mới nửa
Rồi sau lại bao nhiêu xuân nữa
Mặc trời cho ta chửa hỏi chi
Sẵn rượu đào xuân uống với ta đi…
(Gặp xuân - Tản Đà)
Cái tôi của thơ mời là cái tôi đầy bi kịch. Cũng muốn nói đến cái khổ sở, thảm hại
trước "nỗi đời cay cực” của các nhà thi nhân. Cũng nói đến chuyện lên tiên được sống
trong giấc mơ tiên ("Tiếng sáo Thiên Thai" - Thế Lữ). Cũng nói đến say, đến cô đơn ("Say
đi em", "Phương xa",… - Vũ Hoàng Chương). Hoặc phiêu lưu trong trường tình:
Thuyền yêu không ghé bến sầu

Nhớ đêm thiếu phụ bên lầu không trăng
(Một mùa đông – Lưu Trọng Lư)


Hoặc điên cuồng, hoặc đắm say, hoặc bơ vơ, hoặc ngơ ngẩn buồn:
Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh,
Một vì sao trơ trọi cuối trời xa!
Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh
Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo.
Chế Lan Viên
Chiều đông tàn, lạnh xuống tự trời cao,
Không lửa ấm, chắc hồn buồn lắm đó.
Huy Cận
Trăng sáng, trăng xa, trông rộng quá!
Hai người, nhưng chẳng bớt bơ vơ
Xuân Diệu
Cái tôi làm cho nền hồn thơ giàu bản sắc của thơ mới, đồng thời cũng chứa đầy bi
kịch của thơ mới. Cách phân tích của Hoài Thanh vừa khái quát vừa cụ thể, rất tinh tế và
tài hoa. Cách dùng từ chính xác, cách dùng điệp từ, dùng tương phản để tạo giọng điệu và
cảm xúc, đọc lên nghe rất lí thú:
"Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta tìm bề sâu. Nhưng càng đi
sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu
Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu.
Những động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta
ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận".
Phải nắm được cái hồn của thơ mới, và phải rất tài hoa mới viết đúng và viết hay như
vậy. Hoài Thanh như dẫn hồn độc giả nhập vào hồn của thơ mới:
"Cả trời thực, trời mộng vẫn nao nao theo hồn ta.
Chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế. Cùng lòng tự tôn, ta mất
luôn cả cái bình yên thời trước".

Một điểm nổi bật nữa của thơ mới là đã góp phần hiện đại hoá tiếng Việt. Câu thơ co,
duỗi tự nhiên. Lời thơ giản dị, dễ hiểu, giàu cảm xúc và hình ảnh. Các nhà thơ mới đã gửi
gắm tấm lòng trân trọng và yêu quý tiếng Việt. Hoài Thanh đã dùng hình ảnh "tấm lụa" và


"tấm hồn bạch" để nói lên tình cảm đẹp đẽ đó:
"Bi kịch ấy họ gửi cả vào tiếng Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ
đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng Việt
họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ đã qua. Đến lượt họ, họ cũng muốn
mượn tấm hồn bạch chung để gửỉ nỗi băn khoăn riêng".
Đoạn cuối của bài tiểu luận "Một thời đại thi ca", Hoài Thanh đã trân trọng, quý trọng
bày tỏ niềm hi vọng đối với thơ mới và các nhà thơ mới "trong thất vọng sẽ nảy mầm hi
vọng". Thơ mới cũng như các nhà thơ mới kế thừa và phát huy truyền thống tinh thần nòi
giống, sẽ kế thừa những tinh hoa của thơ cũ, nền thơ cổ điển Việt Nam, “tìm về dĩ vãng để
vin về những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai”.
Điệp ngữ "Chưa bao giờ như bây giờ…”! cất lên ba lần làm cho giọng văn vang lên
tha thiết, ân tình.
Những năm 1943, 1944, thơ mới như bị "chững lại". Nhưng rồi Cách mạng tháng
Tám bùng nổ, kháng chiến chống Pháp diễn ra ác liệt đã thổi lửa cho thơ mới và thế hệ
những nhà thơ mới. Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ,… đã trở thành người
chiến sĩ trên mặt trận văn hoá, đã góp phần xứng đáng xây dựng và phát triển nền thơ ca
Việt Nam hiện đại.
Bảy thập niên sau, đọc "Thi nhân Việt Nam" của Hoài Thanh, ta hiểu thêm thơ mới, ta
yêu thêm lớp thi sĩ tiền chiến của "một thời đại thi ca".



×