Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

DẤU ẤN TƯỢNG TRƯNG TRONG THƠ BÍCH KHÊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.44 KB, 29 trang )

Dấu ấn tượng trưng trong thơ Bích Khê
Mở đầu
Vào thập niên 20, khi xã hội và con người Việt Nam đang trong bước chuyển
mình lớn thì thơ tượng trưng đã đến nước ta. Lúc đầu nó đi theo bước chân của kẻ
xâm lược, nhưng không lâu sau được đón nhận tại Việt Nam. Nguyên cớ nào khiến
nó có thể đơm hoa kết trái và có sức sống bền bỉ trong làn thơ Việt. Trước hết là do
những tác nhân lịch sử xã hội. Sau khi thực hiện xong công cuộc bình định, thực
dân Pháp liền bắt tay khai thác thuộc địa một cách ồ ạt dẫn đến việc hình thành các
đô thị kiểu mới làm xuất hiện các tầng lớp cư dân mới, có lối sống nhận thức, thị
hiếu thẩm mỹ phong phú, họ tạo thành một lực lượng công chúng văn học ngày
càng đông đảo, có nhu cầu thưởng thức những món ăn lạ.
Ngoài việc phát huy các giá trị truyền thống, sức mạnh nội sinh, các nhà thơ
đã chủ động tiếp nhận các yếu tố ngoại nhập. Thay vì tìm đến văn học Trung Hoa
như trước đây họ chọn con đường tiếp thu văn học phương Tây, cụ thể là Pháp.
Tuy nhiên để một trào lưu, khuynh hướng văn học ngoại lai sinh tồn trên mảnh đất
văn chương khác thì nó phải thích ứng, phù hợp với văn hóa của vùng đó. Thơ
tượng trưng có thể tồn tại trên đất Việt và duy trì sức ảnh hưởng bền bỉ là vì nó có
những điểm tương đồng với thơ Việt trong quan niệm về tính chất vũ trụ. Các thi sĩ
tượng trưng cho rằng vũ trụ là một chỉnh thể thống nhất tương giao, bí ẩn, giữa nó
và con người, vạn vật có mối liên hệ siêu việt. Điều này vốn không xa lạ với người
phương đông trong đó có Việt Nam. Ông cha ta coi vũ trụ như một chỉnh thể toàn
vẹn, trong đó con người là một tiểu vũ trụ trong cái vũ trụ ấy.
Không chỉ vậy thơ tượng trưng còn gặp thơ Việt ở chỗ đề cao tính nhạc và
tính hàm súc, khơi gợi của thơ. Nếu các nhà thơ tượng trưng từng tuyên bố “âm
nhạc trước mọi điều” thì các nhà thơ trung đại Việt Nam hẳn có một định đề “thi
trung hữu nhạc”.
Giải thích cho cuộc hội ngộ này còn là sự gần gũi ở lối tư duy. Thi phái tượng
trưng không nhận thức thế giới bằng tư duy phân tích mà bằng tư duy tổng hợp lối
tư duy ấy là thế mạnh của người phương đông.
Thơ tượng trưng du nhập vào Việt Nam qua con đường cưỡng bức văn hóa.
Tuy nhiên nhiên nhờ bản lĩnh, trí tuệ và lòng tự tôn dân tộc, tầng lớp tri thức đã


1


biết chọn lọc và tiếp thu. Vì thế, thơ tượng trưng nhanh chóng chiếm được tình
cảm của không ít thi nhân Việt Nam, làm nên cuộc hội ngộ mang tính lịch sử. So
với nhiều quốc gia khác, thơ tượng trưng Việt Nam có sức sống bền bỉ. Có thể nói,
thế kỷ 19 ở Pháp là thế kỷ của những phát triển khoa học, những cuộc cách mạng
nghệ thuật. Riêng lĩnh vực văn học, thế kỷ này chứng kiến sự nở rộ của các trào
lưu, trường phái lớn như lãng mạn, hiện thực, tượng trưng,.. làm thay đổi hoàn toàn
diện mạo văn chương Pháp. Trong đó có trường phái tượng trưng, có được thành
quả ấy thi phái tượng trưng gánh chịu bao dư luận. Mặc dù vậy các thi sĩ thuộc
phái này đã vượt qua mọi rào cản nhất là về tư duy nghệ thuật. Họ muốn bứt ra
khỏi hệ thi pháp của thơ lãng mạn, Thi Sơn đang thịnh hành. Các nhà thơ Việt Nam
cũng không ngoại lệ, từ khi du nhập vào nước ta nó đã chiếm được tình cảm của
không ít thi nhân Việt Nam, một phần do tính chất hiện đại của nó. Trải qua tám
thập kỷ, dòng thơ tượng trưng không ngừng vận động theo lịch sử có những giai
đoạn nó bị đẩy ra ngoại biên rồi lại trở về với trung tâm. Điều đó cho thấy được
sức hấp dẫn của lối thơ này. Từ lớp nhà thơ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Bích Khê,
Chế Lan Viên,…họ đã cùng nhau làm nên một khuynh hướng thơ tượng trưng
mang bản sắc Việt.
Chương 1: Sơ lược về Bích Khê - Một đỉnh núi lạ trong làn thơ Việt Nam
1.1. Bích Khê đến với thơ tượng trưng:
Phong trào Thơ mới (1932 – 1945) là một cuộc chạy "nước rút" của thơ Việt
để bắt kịp thơ hiện đại thế giới với hình mẫu là thơ lãng mạn Pháp thế kỷ XIX.
Nhưng Trước khi đến với Thơ mới, một thời gian dài (1931-1936), Bích Khê đã
viết ca trù, thơ Đường luật, và đăng trên các báo Tiếng Dân, Tiểu thuyết thứ
Năm, Người mới... Sau 1937, ông chuyển hẳn sang làm "thơ mới" do sự tác động
của Hàn Mặc Tử và chịu nhiều ảnh hưởng của nhà thơ vắn số này.
Thơ tượng trưng dùng các biểu tượng và sự ám gợi liên tưởng thay cho phát
ngôn trực tiếp. Các nhà thơ tượng trưng cố nắm bắt cảm xúc và trạng thái của trí

não nằm ngoài ý thức thông thường bằng cách làm rối cảm giác của họ. Bích Khê,
trong cơn trọng bệnh, vẫn nhờ người nhà khiêng ra đường để được thấy bóng cờ đỏ
sao vàng đi ngang qua ngõ nhà mình trong những ngày Cách mạng tháng Tám
1945 sục sôi. Bích Khê, mấy mươi năm chịu một tiếng buồn cho thân thế và sự

2


nghiệp của mình. Bích Khê, cho đến hôm nay, vẫn gần như là "người lạ mặt" trong
khi những nhà Thơ mới cùng thời ông đã được nói đến nhiều.
Bích Khê được xem như “một đỉnh núi lạ” trong làn thơ nên ngay từ khi mới
ra đời, thơ Bích Khê đã được đón nhận không như những nhà thơ khác. Người
thích thì khen hết lời, người không ưa vì chưa hiểu thì chê cũng đủ mọi nhẽ. Ngay
như Hoài Thanh trong cuốn Thi nhân Việt Nam phần giới thiệu về Bích Khê, sau
khi mạnh dạn buông lời “những câu thơ hay vào bậc nhất trong thơ Việt Nam” về
câu thơ: “Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm? / Nàng là hương hay nhan sắc lên
hương” rồi lại bảo: nhiều bài thơ của Bích Khê tôi không đọc, hoặc chỉ đọc đôi ba
bận, mà thơ người đọc vài lần thì coi như chưa đọc. Những người mê thơ Bích Khê
coi ông là “thi sĩ thần linh”, họ ca ngợi ông có những câu thơ hay nhất Việt Nam. Ở
Quảng Ngãi quê hương ông, người ta còn thành lập ra hội những người yêu thơ
Bích Khê.
Xuất hiện trên thi đàn với những cách tân được coi là vượt lên trên những
người đương thời. Thơ ông thường nói về cái bên trên của cuộc đời, nói về cõi
mộng, cõi tâm linh. Gần đây, một số nhà thơ Việt Nam đương đại cũng sáng tác
theo kiểu thơ này nhưng thực sự chưa ai đạt đến độ tâm linh, ảo mộng và trừu
tượng như Bích Khê. Bích Khê là nhà thơ tượng trưng, nói đến thơ ông, người ta
thường chú ý đến ba khía cạnh: vẽ tranh lõa thể bằng thơ; thơ của hương thơm và
nhạc điệu; bút pháp siêu thực, tượng trưng. Bích Khê đã đưa người đọc đến những
tầng bậc sâu thẳm của cảm nhận, đó không chỉ là mộng, là ảo mà còn là tiềm thức
và ảo giác nữa. Vì vậy tìm hiểu thế giới tượng trưng trong thơ Bích Khê không chỉ

để hiểu sâu hơn, đánh giá đúng hơn về thơ ông mà còn có được cơ hội hiểu đúng
hơn về nhiều hiện tượng thơ ca khác trong nền văn học Việt Nam đương đại. Vì
những lý do đó, nhóm chúng tôi chọn đề tài dấu ấn tượng trưng trong thơ Bích Khê
làm đề tài tiểu luận của mình.
1.2. Một số sáng tác chính:
Các sáng tác của Bích Khê gồm:
 Tinh Huyết (1939): tác phẩm duy nhất ra đời khi ông còn sống và rất được
người yêu thơ chú ý. Trong lời tựa tập thơ Tinh huyết của Bích Khê, Hàn Mặc
Tử viết: Ta có thể sánh văn thơ của Bích Khê như đóa hoa thần dị... Và đem phân
chất, ta sẽ thấy thơ chàng gồm có ba tính cách khác nhau: thơ tượng trưng, thơ
3


huyền diệu và thơ trụy lạc... Sự điên cuồng ấy uyên nguyên ở một phần thiên tài,
và ở một phần sự "Đau khổ"... Bốn tập thơ và một tập tự truyện chưa xuất bản,
gồm:
 Tinh Hoa (sáng tác từ 1938 đến 1944)
 Mấy dòng thơ cũ (tập hợp khoảng 100 bài thơ đường luật đã đăng trên các
báo từ 1931-1936)
Thơ Bích Khê mang rõ phong cách trường thơ loạn. Và tính chất tượng trưng
là đặc điểm quán xuyến toàn bộ thơ Bích Khê. Làm tăng tính chất tượng trưng ấy
là màu sắc được sử dụng êm dịu, chói chang hay huyền ảo; và âm thanh tạo nên
chất nhạc du dương cho khá nhiều bài. Tính tượng trưng đôi khi làm biến dạng hẳn
cảm giác thực của người đọc và gây nên những ảo giác, khi tiếp xúc với đối tượng
diễn tả của Bích Khê; cái chết rùng rợn thành hương sắc, khoái cảm xác thịt trở
thành ghê gợn, và ngay cả màu sắc, âm thanh cũng không còn là màu sắc, âm
thanh nữa mà trở nên hư hư, thực thực. Tuy nhiên, bút pháp tượng trưng đặc sắc và
luôn tìm tòi cái mới ấy, vẫn không che giấu được hai nguồn cảm hứng thường trộn
vào nhau và hằn rõ trong thơ Bích khê, đó là nhục cảm và cuồng loạn.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam thì với “Tinh huyết”, “Thơ mới” chuyển từ

lãng mạn sang tượng trưng và siêu thực. Ở “Tinh huyết” phần lớn là bí hiểm,
nhưng vẫn có thể nhìn thấy trong đó một hồn thơ đắm đuối, cuồng nhiệt. Nhà thơ
có nhiều tìm tòi đổi mới thơ ca theo hướng chủ nghĩa hiện đại, đi sâu vào cõi vô
thức. Có một số bài, một số câu ý tứ mới mẻ, nhạc điệu du dương.

Chương 2: Khái lược về chủ nghĩa tượng trưng
2.1. Khái niệm:
Chủ nghĩa tượng trưng là một trào lưu nghệ thuật cuối thế kỷ 19 tại Pháp.
Trào lưu này xem trí tưởng tượng là nguồn sáng tạo. Nó ra đời tại Pháp và lan dần
sang Châu Âu, Nga và Mỹ.
Trào lưu bắt nguồn từ thơ ca: thơ phải dùng các ngôn từ khó hiểu để kích thích
cảm quan, tạo ra sự huyền hoặc mê ly, tạo ra những liên tưởng từ sự huyền hoặc
mê ly nên ta gọi đó là tượng trưng. Dần dần, trào lưu lan đần sang hội họa phối hợp
ngẫu nhiên giữa những vệt màu để gây xúc cảm, tạo nên một cảnh tượng thần bí
như trong mơ.
4


2.2. Cơ sở hình thành:
Thơ tượng trưng ra đời ở Pháp khoảng giữa thế kỉ XIX. Cũng như bất kì hiện
tượng thi ca nào khác, sự sinh thành của thơ tượng trưng không nằm ngoài những
tác động của nhân tố thời đại (chính trị, xã hội, tư tưởng) và sự vận động tự thân
của văn học. Vì thế, lý giải cơ sở hình thành thi phái này không thể bỏ qua hai
nhân tố ấy.
2.2.1. Cơ sở chính trị, xã hội, tư tưởng:
Sau thành công của cuộc cách mạng 1789, nước Pháp lại chìm trong bão tố
chính trị. Chưa đầy một thế kỷ, người dân Pháp phải trải qua các chính sách cai trị
hết sức hà khắc. Đi cùng sự thay đổi liên tục các chỉnh thể là sự hình thành, lớn
mạnh của xã hội tư sản. Một mặt nó mang đến cho dân tộc nay một sắc diện mới
trẻ trung, năng động và hiện đại, nhưng mặt khác, đằng sau vẻ hào nhoáng ấy là

một sự thật chua chát như trong tiểu thuyết “Đỏ và đen” của Stendhal để từ đó gây
ra bao chuyện dở khóc dở cười. Để làm giàu, giai cấp tư sản không từ một thủ đoạn
nào, rũ bỏ mọi luân thường đạo lý. Xã hội tư sản trong sự phát triển của nó đã bộc
lộ đầy đủ tính đối kháng, thù địch giữa đời sống hiện thực và thế giới tinh thần con
người.
Trước thực trạng đó là một lối sống nổi loạn xuất hiện ngay trong lòng thủ đô
Paris. Ta bắt gặp những nhóm thanh niên ngổ ngáo, tụ tập ăn chơi. Cuốn vào lối
sống ấy có không ít văn nghệ sĩ họ tự nhận mình là những kẻ suy đồi nhưng thật ra
những phát ngôn ấy, suy cho cùng là sự biểu hiện thái độ khước từ mọi phép tắc,
kỷ cương về chính trị, xã hội, tôn giáo, nghệ thuật,… Đồng thời ẩn chứa cả tâm
trạng hoang mang, vỡ mộng, bế tắc trước thực tại. Và thái độ của văn nghệ sĩ đó là
muốn gửi một thông điệp về tình trạng của nước Pháp đó là cái đẹp đang có nguy
cơ bị diệt vong. Lời tỉnh ấy đã đặt ra yêu cầu là phải đổi mới mọi mặt đời sống
trong đó có văn học văn nghệ.
Nước Pháp thế kỷ 19 đã hàm chứa trong nó những lý do cần thiết cho sự xuất
hiện của trào lưu chủ nghĩa tượng trưng. Dưới bề mặt không ổn định của chính trị,
xã hội là những biến đổi sâu sắc trong tinh thần. Niềm hân hoan phấn khởi sau
thành công của cách mạng đã thay thế bằng tâm lý thất vọng, bi quan,... Nó như
một trạng thái tinh thần phổ quát trong giới văn nghệ sĩ, làm nảy sinh thái độ ứng
xử nổi loạn không chỉ trong lối sống mà cả trong sáng tạo nghệ thuật. Thế kỷ này
còn chứng kiến những hoài nghi của con người về khoa học và tính duy lý. Tất cả
5


góp phần cho sự ra đời của thi phái tượng trưng. Các nhà tượng trưng đã biểu hiện
một cách độc đáo cảm quan về thời đại khủng hoảng của xã hội tư sản, khủng
hoảng của đời sống, của văn hóa, của tư tưởng, của ngôn ngữ.
2.2.2. Cơ sở văn học:
Kế thừa và sáng tạo là quy luật tất yếu của văn học. Thơ tượng trưng cũng
không nằm ngoài quy luật ấy, nó vừa kế thừa vừa phủ định thơ lãng mạn và Thi

sơn. Trong việc kế thừa thơ lãng mạn, Thi sơn, các nhà thơ tượng trưng sớm nhận
ra có sự không thống nhất trong đường lối, quan điểm nghệ thuật, và bộc lộ những
hạn chế. Thơ lãng mạn nó quá chú trọng phô diễn tình cảm, nó đánh mất vẻ huyền
diệu của thơ. Điều này lại được thi phái tượng trưng khắc phục khi chủ trương
không miêu tả, kể lể. Với thơ Thi sơn các nhà thơ tượng trưng không tán đồng cách
xây dựng câu thơ. Sau này phái Thi sơn cũng bị bài xích. Tuy nhiên do kế thừa thơ
lãng mạn và Thi sơn mà trong thơ tượng trưng có sự ẩn dấu liên hệ với hai trường
phái đó.
2.3. Một số đặc điểm của chủ nghĩa tượng trưng và nguyên tắc sáng tác của thơ
tượng trưng:
Đặc điểm của chủ nghĩa tượng trưng:
+ Cơ sở lý luận của chủ nghĩa tượng trưng là chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
+ Ít quan tâm tới thiên nhiên.
+ Thiên về trí tưởng tượng.
+ Nghiêng về vấn đề tâm linh, siêu nhiên.
+ Chủ quan mô phỏng thế giới tự nhiên.
+ Về hội họa: hội họa tượng trưng thường dùng màu sắc dễ gây cảm xúc để
đánh vào cảm xúc người thưởng ngôn.
Năm 1886 Jean Moreas ( 1856- 1910) viết bài tuyên ngôn của chủ nghĩa
tượng trưng, thì thuật ngữ tượng trưng mới chính thức xuất hiện. Tuy nhiên trước
đó nhiều nhà thơ Baudelaire, Veclen,.. đã đặt nền móng cho chủ nghĩa tượng trưng.
Nhưng thuật ngữ để gọi tên nó là “Chủ nghĩa suy đồi”. Như vậy Jean Moreas
không phải là người đề xướng, mà chỉ là người mệnh danh cho chủ nghĩa tượng
trưng. Ông đã đặt ra nguyên tắc của thơ tương trưng:
6


Một là, thơ ca tượng trưng chủ nghĩa và hình thức của nó đã ra sức thể hiện
những quan niệm loại hình thức này không mang mục đích tự thân mà là phục vụ
cho việc biểu hiện quan niệm, và giữ vị trí phụ thuộc. Chủ nghĩa tượng trưng phản

đối chủ nghĩa tự nhiên mà cơ sở triết học của nó là chủ nghĩa thực chứng.
Hai là, thơ viết ra phải để cho người ta nhẩm đoán từng đoạn một, đó là ám
thị, đó là mộng tưởng, đó là sự vận dụng hoàn mĩ của tính kỳ diệu. Tượng trưng
chính là cấu tạo ra sự kỳ diệu này. Thơ mãi mãi là câu, đó chính là mục đích của
thơ văn. Nghĩa là tính cách biểu trưng cho các vật tự nó và các ý niệm nằm ngoài
dưới hạn của các tri giác cảm tính.
Ba là, vươn tới bản chất lý tưởng siêu thời gian của thế giới, cái vẻ đẹp siêu
nghiệm.
Bốn là, bác bỏ lý tưởng thẩm mỹ “ nghệ thuật vị nghệ thuật”.
Năm là, phản ứng lại phái Thi sơn, phái thơ chú trọng đến việc mô phỏng hiện
thực.
Sáu là, gợi ra những sắc thái tế nhị của cảm giác và tâm hồn.
Bảy là, mơ ước đạt được cái thực tại tiên thiên ở bên ngoài vũ trụ.
Cuối cùng, thơ tượng trưng rất giàu âm nhạc, chất nhạc trong thơ tượng trưng
còn mang tính mơ hồ, không xác định, kì diệu.
Tuy nhiên về sau ngôn ngữ thơ ca dần dần chỉ phục vụ cho âm hưởng, âm đã
hại ý. Về sau thơ không thể biểu đạt được đi đến chỗ trầm mặc. Không phải ngẫu
nhiên mà riêng ở Pháp đến những năm 90 chủ nghĩa tượng trưng đã thoái trào hẳn.
Năm 1891 Môrrea tuyên bố rời khỏi phái tượng trưng. Năm 1898 Malacmee qua
đời, ngọn cờ của chủ nghĩa tượng trưng coi như chấm dứt ở nơi nó phát tích.
2.4. Một số tác phẩm, tác giả tiêu biểu cho chủ nghĩa tượng trưng ở Pháp:
Charles Pirre Baudelaire ( 1821- 1867) sinh tại Paris là một cây viết hàng đầu
trong thi ca pháp. Tập thơ “Hoa ác” của ông từng gây ra cơn sốt ông đã cố dệt nên
và chỉ ra những liên hệ giữa cái ác và cái đẹp, bạo lực và khoái lạc.
Rimbaud ( 1854- 1891) là một trong những người sáng lập trường phái thơ
tượng trưng Pháp. Là nhà thơ có ảnh hưởng lớn tới văn học và nghệ thuật hiện đại.
7


Chương 3: Dấu ấn tượng trưng trong thơ Bích Khê

3.1. Tính biểu trưng cao:
Bích Khê xuất hiện trên thi đàn văn học Việt Nam với những cách tân rất
riêng, vượt lên trên những tên tuổi cùng thời. Bích Khê là nhà thơ tượng trưng nên
trong những trang thơ ông đặc tính biểu trưng và chúng xuyên suốt các tác phẩm
của nhà thơ tạo nên một hệ thống.
Bích Khê lấy trăng - hồn - ngọc làm biểu trưng của những cảm xúc nhiều
chiều nơi ông. Niềm vui hay nỗi buồn, hạnh phúc hay đau khổ, Bích Khê đều gửi
cả vào những hình ảnh ấy. Lạc vào vườn thơ Bích Khê, ta thấy tràn ngập hình
tượng trăng - hồn - ngọc. Có thể thấy, trăng - hồn - ngọc thường đi liền nhau trong
thi hứng của ông, chiếm lĩnh cả một không gian thơ rộng lớn. Rất nhiều bài thơ có
mặt ba hình tượng này: Mộng cầm ca, Nhạc, Tân hôn, Nghê thường, Tranh lõa thể,
Sắc đẹp, Người say rượu,... Có đến 16/62 bài thơ (được in trong Thơ Bích Khê Tuyển tập) có sự xuất hiện cùng lúc của trăng - hồn - ngọc. Chúng đi bên cạnh
nhau trong những giây phút thăng hoa nhất của thơ ông, làm nên những điểm nhấn
kết nối nhiều tầng bậc cảm xúc và tâm trạng nơi ông. Trong “Mộng cầm ca”, sự kết
hợp ấy thể hiện tâm trạng hào hứng của Bích Khê trước hình ảnh cuộc đời “bát
ngát và thơm như sữa lúa”:
Đâu đôi mắt mùa thu xanh tơ ngọc?
Lưới lông mi rờn rợn ánh tơ đêm!
Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng
Của gương hồ im lặng tợ bài thơ
Chân nhịp nhàng lòng nghe hương nằng nặng
Đây bài thơ không tiếng của đêm tơ.
Giữa trăng - hồn - ngọc, có một mối liên hệ vô hình nhưng hữu ý, qua chúng,
thiên nhiên và lòng người như quyện chặt vào nhau, dào dạt và tình tứ. Còn ở
“Nghê thường”, sự kết hợp ấy làm bật lên những phút giây lãng mạn đến tê mê tự
sâu thẳm tâm hồn thi nhân. Trong cái khoảnh khắc ấy, ông cảm thấy như “đêm ôm
hồn tôi chơi phiêu diêu” và giữa không gian “ngọc trăng xây vàng trên muôn
cành”, ông tình cờ “bắt gặp nàng thơ diện yêu kiều” rồi cùng nàng “nhịp nhàng lên
8



cung trăng”. Có khi lại là nỗi buồn thương vời vợi ở “Sọ người”, “Người say
rựợu”,... Trong mỗi bài thơ, sự kết hợp của trăng - hồn - ngọc đều gắn liền với
những cảm xúc rất cụ thể của Bích Khê. Nói cách khác, những biểu trưng ấy là linh
hồn thơ Bích Khê. Bởi ngoài sự kết hợp đặc biệt này, trong thơ ông, hầu như bài
nào cũng nhắc đến trăng, đến hồn, đến ngọc. Chúng gắn liền với nhạc, với hương,
với hoa, với nắng, với màu, với vị, với nhan sắc, với những nỗi niềm day trở trong
một sự tương hợp hài hòa làm nên một thế giới thơ mang sắc thái rất riêng của
Bích Khê, vừa lung linh vừa huyền bí, vừa rạng rỡ vừa quái dị. Điều này, một lần
nữa, biểu hiện sự nhất quán trong tư duy nghệ thuật của Bích Khê. Và đó còn là
biểu hiện sự tích hợp kỳ lạ chỉ có trong thơ tượng trưng.
Trăng - hồn - ngọc còn là biểu trưng của tình yêu và vẻ đẹp của người thiếu nữ
trong thơ Bích Khê. Với Bích Khê, tình yêu và vẻ đẹp thiếu nữ là thứ “nhan sắc”
tuyệt diệu mà tạo hóa dành tặng cho con người. Mỗi khi nói đến tình yêu và vẻ đẹp
thiếu nữ, hồn thơ Bích Khê lại dậy lên những cảm xúc hào hứng đến bất tận và
những lúc như thế, như một lẽ tự nhiên, hình tượng trăng - hồn- ngọc lại hiện ra.
Trong bài thơ “Tỳ bà”, “hồn” nói hộ Bích Khê tiếng nói của tình yêu:
Cây đàn yêu đương làm bằng thơ
Dây đàn yêu đương run trong mơ
Hồn về trên môi kêu: em ơi
Thuyền hồn không đi lên chơi vơi
Bởi đó không phải là tình yêu đang hiện hữu mà là tình yêu trong ký ức, tình
yêu đã mất. Thế nên, Bích Khê mượn “hồn” để có thể giãi bày hết những tiếc nuối,
những đau thương, những bi lụy, những ám ảnh chôn chặt trong lòng người. Không
chỉ có thế, trong phút giây nhớ nhung của những yêu đương mê đắm, “hồn” cũng
hiện lên trong nỗi niềm người chinh phụ:
Chàng ơi! hồn say trong mơ màng,
Hồn ta? hay là hồn tình lang?
(Hoàng hoa)


9


“Hồn” có mặt ở mọi nơi trong thế giới tâm hồn đa sầu, đa cảm của thi nhân
còn trăng và ngọc thì luôn đồng hành cùng cái đẹp. Từ dáng hình giai nhân đến
mắt, đến môi, đến cái nhìn, đến nụ cười,… đều được Bích Khê sánh với “trăng”,
với “ngọc”.
Thiếu nữ hiện ra mang theo cả một dòng sông trăng huyền diệu và từ dòng
sông trăng huyền diệu ấy chảy tràn ra thứ ánh sáng ngọc lấp lánh, kiêu sa, sang
trọng đầy quyến rũ. Và đây nữa, vẻ đẹp của nàng Tố Nữ trong tranh với:
Mắt ngời châu rung ánh sóng nghê thường;
Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc.
Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc.
Vài chút trăng say đọng ở làn môi.
(Tranh lõa thể)
Với Bích Khê, ở đâu có bóng dáng giai nhân, ở đó có “Tiếng ngọc, màu trăng
quấn quýt nường” (Hiện hình). Đến cả nụ cười cũng: “Cười thơm như ngọc dội
hương vang” , rồi “Cả đôi mắt ngọc hiện xanh mờ” (Châu), rồi “Màu hoa trăng
trang điểm cặp môi cười” (Cô gái ngây thơ)… trăng và ngọc, trong tư duy nghệ
thuật của Bích Khê, thực sự là biểu trưng tôn vinh vẻ đẹp của người thiếu nữ.
Ngoài trăng, hồn, ngọc là những biểu tương chính trong thơ ông, thì còn sử
dụng Phật - Mộ - Thần linh. Ba biểu tượng mang tính văn hóa này luôn có sức ám
ảnh nhất định đối với tư duy nghệ thuật của Bích Khê khi viết “Tinh Hoa”. Sau
những nỗ lực cách tân quyết liệt trong “Tinh Huyết”, cộng với việc sức khỏe ngày
một yếu đi, đến “Tinh Hoa”, thơ Bích Khê dần trở về với những suy ngẫm có chiều
sâu về quá khứ, hiện tại và tương lai. Bích Khê lấy Phật – Mộ - Thần linh để tạo
nên sự kết nối thần diệu với không gian – thời gian tâm tưởng, ông mở ra từ đây
những chiều kích khác nhau của không gian, thời gian gắn với tâm linh con người.
Trong bài thơ Tấm bia trước mộ thơ, bằng dự cảm của một người sắp đi xa, Bích
Khê hình dung ra một thế giới khác – thế giới bên trong những nấm mộ vừa vô

hình, vừa hữu hình.
10


Bích Khê đã mượn Phật – Mộ - Thần linh để đi về giữa hai thế giới: thực và
ảo mộng. Hình như thời gian này, ông đã cảm thấy mình rất gần với cái chết, cảm
giác ấy đã ám ảnh Bích Khê và phần nào chi phối tư duy nghệ thuật của ông, khi
ông luôn hướng ý nghĩ của mình về những hình ảnh mang tính tâm linh.
Phật - Mộ - Thần linh cũng là biểu hiện của tâm thức tích hợp các yếu tố văn
hóa Đông – Tây trong tư duy nghệ thuật Bích Khê. Ngũ Hành Sơn (Tiền, Hậu) là
bài thơ hội tụ đầy đủ tất cả những yếu tố đó. Ta bắt gặp ở đây một thế giới thần tiên
chốn Thiên Thai với hình ảnh những “tiên đồng bước giữa hoa”, rồi “trên nền sóng
rung rinh” là hình ảnh:
Những tiên nữ trắng tinh
Ngang thân làn biếc khỏa.
Một thế giới của tiếng “điểm kinh ngân thánh thót” hòa lẫn tiếng chuông
chùa chập chờn trong sương khói huyền hồ cùng hình ảnh:
Phật Như Lai thoạt hiện
Trên bảy sắc cầu vồng.
Từ trong những thế giới ấy, bóng dáng Phật – Mộ - Thần linh hòa quyện vào
nhau làm thành một không gian thơ đầy ắp các sắc màu văn hóa, khiến Ngũ Hành
Sơn trở nên huyền hoặc, quyến rũ hơn nhiều. Ngũ Hành Sơn (Tiền, Hậu) đã chứng
tỏ năng lực tư duy nghệ thuật mang tính tích hợp của Bích Khê đã đạt đến độ tinh
xảo hiếm thấy. Cùng một lúc, ông có thể dẫn dắt người đọc vào một không gian
văn hóa đa sắc màu, vừa hiện đại, vừa truyền thống. Đó là kết quả xứng đáng cho
những nỗ lực không ngừng, trên hành trình đi tìm cái mới cho thơ của Bích Khê.
Để giúp người đọc khám phá những điều bí ẩn của cuộc sống muôn màu
muôn vẻ, Bích Khê đã phát huy tối đa sức sáng tạo của mình bằng một bút pháp
nghệ thuật giàu âm sắc. Ông đã khẳng định tư duy nghệ thuật mới mẻ, riêng có của
mình qua thế giới các biểu trưng, biểu tượng với những biến ảo tuyệt vời. Đọc thơ

Bích Khê, đối diện với Trăng – Hồn – Ngọc hay Phật – Mộ - Thần linh, ta luôn có
cảm giác trí tưởng tượng của mình được khai mở và đặc biệt thích thú là được
đồng sáng tạo với nhà thơ, được sung sướng với những cảm nhận đa chiều đầy bất
ngờ thú vị qua các biểu trưng, biểu tượng đó của ông. Sẽ không cảm thấy thừa khi
11


nhắc lại, Bích Khê xứng đáng với các danh xưng “thi sĩ thần linh”, “đỉnh núi lạ”,
“đóa hoa thần dị” “thơm đủ mùi phước lộc” trên thi đàn Việt Nam thế kỷ XX mà
những người bạn thơ đã yêu quý và trân trọng dành tặng cho ông.
3.2. Không miêu tả vũ trụ mà tập trung vào vấn đề tâm linh hướng con người
vào thế giới huyền ảo, cõi mộng:
Trong thơ của Bích Khê, chúng ta có thể thấy rõ nó không miêu tả thiên nhiên,
vũ trụ mà chỉ tập trung vào vấn đề tâm linh: Họ mượn hình ảnh thiên nhiên để diễn
đạt một khái niệm khác. Lối diễn đạt này thường lặp đi lặp lại. Thơ tượng trưng
phủ nhận hiện thực, coi hiện thực hàng ngày là cái tầm thường, ít ý nghĩa, vì thế nó
hướng tới một thế giới huyền bí của cõi tâm linh con người, nơi người bình thường
không vươn tới và nhận biết được, chỉ thi sĩ là người có những khả năng kỳ diệu
mới có thể thâm nhập và biểu đạt được nó.
Charles Baudelaire có nói: “Tuổi trẻ ta xưa chỉ là một cơn bão giông mù mịt
với đôi khi một hai ánh nắng thoảng qua. Mưa dãi, sấm rền đã phá hoại cả vườn ta,
chẳng còn được bao nhiêu trái thơm hoa đẹp.” (Kẻ thù)
Thơ tượng trưng chủ yếu hướng tới khơi gợi cái bí ẩn kỳ diệu nên giải mã
các hình ảnh và biểu tượng thường là mục đích nghiên cứu thơ tượng trưng. Để
diễn tả được những bí mật thầm kín, kỳ lạ của đời sống tâm linh con người, thơ
tượng trưng phải tìm đến một thứ ngôn ngữ “phi thường” mang ý nghĩa đặc biệt,
kỳ ảo. Do đó, ngôn ngữ thơ tượng trưng phần nào mất đi ý nghĩa thông thường, trở
thành phương tiện thôi miên, khơi dậy những cảm giác mơ hồ không xác định, làm
thơ trở nên bí hiểm, mang tính hình thức và duy mỹ.
Có thể nhận thấy thế giới nghệ thuật trong thơ Bích Khê là một cấu trúc thế

giới mang tính tượng trưng. Bởi ta gặp trong đó một cõi đời đầy mộng ảo xa lạ với
cuộc sống hàng ngày, nơi tồn tại phiêu diêu của phần tâm linh bí ẩn, là một cõi trời
huyền bí của thế giới cái đẹp, thế giới thơ ca, trong sự hoà điệu nhịp nhàng tương
ứng của mọi màu sắc, hương thơm với những âm thanh và biểu tượng kỳ lạ.
Thơ Bích Khê là tiếng nói về cái bên trên cuộc đời. Thi nhân cho rằng sống
trong cõi mộng cuộc đời mới có ý nghĩa. Vì vậy, thế giới trong thơ ông đã được sắp
xếp lại theo một ma lực huyền diệu đầy quyến rũ. Xuất hiện trên thi đàn với những
cách tân được coi là vượt lên trên những người đương thời. Thơ ông thường nói về
cái bên trên của cuộc đời, nói về cõi mộng, cõi tâm linh. Bích Khê đã đưa người
12


đọc đến những tầng bậc sâu thẳm của cảm nhận, đó không chỉ là mộng, là ảo mà
còn là tiềm thức và ảo giác nữa. Một cõi đời thăng hoa thành cõi mộng. Bước vào
thơ Bích Khê ta như lạc vào cõi mộng. Trong thơ Bích Khê có đến 71 lần thi nhân
nhắc đến mộng và ba lần khẳng định “ngoài trời là mộng cả”. Cõi mộng ảo và
chiêm bao ấy được hữu hình qua nhiều tên gọi: “mộng tiên, mộng người, mộng
vừng trăng, mộng cầm ca, mộng ảnh, mộng quỳnh dao, mộng thiên tài, mộng cố
hương”,...
Mộng, theo tâm lí học, vừa là sản phầm của quá trình tưởng tượng, vừa là sự
nhập thân của chủ thể vào quá trình tưởng tượng đó. Cõi mộng là một thế giới tách
biệt với hiện thực, thể hiện những ý muốn chủ quan, những khát vọng riêng tư mà
không chịu sự kiểm soát của lí trí. Khi nhập thân vào cõi mộng, con người hoàn
toàn tin vào sự tồn tại khách quan của những thứ huyền ảo do chính mình tưởng
tượng ra. Điều này phù hợp với quan niệm về thế giới thơ ca tượng trưng với mục
đích chính là chối bỏ hiện thực để diễn tả một thế giới siêu nghiệm đầy bí ẩn của
cõi tâm linh con người thể hiện qua những cảm giác và những kí ức chập trùng,
qua những biểu tượng mơ hồ, bí ẩn, qua cái hư ảo,...
Vì thế, mọi dấu vết của cuộc đời thực trong thơ Bích Khê đều hóa thành mộng
ảo, chiêm bao: tiếng đàn tì bà hay như từ cõi khác vọng về, mỹ nhân đẹp như chỉ

có trong giấc mộng, người say rượu hóa thành người đi đuổi bắt nàng thơ trong
giấc say,... Mộng là một thực thể trong cõi tinh thần, có vận động, có cảm giác: yêu
bằng mộng là mơ tim sáng láng, mộng rứng bồi hồi, mộng bay ngàn dặm với thơ
bay. Mộng là thứ men nồng say đắm lòng người: Tôi miên man uống lại mộng
quỳnh dao.
Cõi mộng chính là hữu hình hóa của thế giới tâm linh sâu thẳm và vô thức bí
ẩn với những ảo giác lạ kì. Thế giới ấy thật bao la khôn cùng với một không gian thời gian không xác định, không vị trí không giới hạn, mở ra hai chiều vô biên và
vĩnh viễn. Đó là không giác bát ngát, vô bến bờ: không gian là bát ngát, cõi mê ly
không bờ bến. Cõi mộng ấy là nơi hội tụ đủ mọi hồn từ hồn thi sĩ, hồn thơ, hồn xạ
hương, hồn tình lang, hồn nàng đến hồn thu, hồn hoa, hồn xạ hương, hồn vũ trụ.
Cõi mộng là đường đưa người thơ đến xứ sở huyền diệu (cõi thơ). Một cõi trời
huyền diệu và bí ẩn với những âm thanh kì diệu, sắc màu “phương phi” và sự
tương giao cảm giác. Theo Hàn Mặc Tử: “Thi sĩ Bích Khê là người có đôi mắt rất
13


mơ, rất mộng, rất ảo, nhìn vào thực tế thì thực tế trở thành chiêm bao, nhìn vào
chiêm bao thì lại thấy xô sang địa hạt kì diệu”. Nếu cõi chiêm bao ấy là thế giới
tâm linh bí ẩn thì địa hạt huyền diệu này chính là khu vườn nghệ thuật. Con người
ở cõi miền tâm linh và mộng ảo ấy dường như không còn ở trạng thái ý thức mà đã
hoàn toàn đắm mình trong vô thức. Các trạng thái ngất ngây, đê mê, ngây ngây,
phiêu diêu, tê mê… là phổ biến. Say là đỉnh điểm của vô thức luôn được đẩy đến
tận cùng với say im, say no, say nghiền, say lươt mướt, say ngấm, say mất mây, say
mơ và chết say. Ở trạng thái này, con người thoát khỏi mọi ràng buộc thể chất, mất
dần ý thức mà hoà nhập tột cùng trong những ấn tượng và cảm giác. Phút say là
phút tâm hồn thi nhân thăng hoa, nhập hẳn vào cõi mộng, bước sang miền Sáng
tạo, lạc vào địa hạt huyền bí của Nghệ thuật:
Ôi say khướt mới dào tuôn ý tứ
Ôi điên rồ mới hớp ánh trăng sao.
(Vạn xuân)

Cõi Tâm linh, vô thức ấy chính là đường đưa người thơ đến xứ sở Huyền diệu
hay còn gọi là cõi thơ - một nét tượng trưng riêng biệt trong thơ Bích Khê.
Nơi đây, thế giới hòa tan trong Nhạc. Thi nhân từng tuyên bố: Ngoài trời là
nhạc cả. Vậy nên, âm nhạc bao trùm thấm đượm và tan hòa vào cảnh vật và con
người:
Đàn thơ cơ hồ lên cung âm điệu
Đàn giây trinh bạch khóc mướt trong mơ
...
Nàng ơi đừng động, có nhạc trong giây
Nhạc gây hoa mộng, nhạc ngát trời mây.
( Nhạc )
Một khúc mộng cầm ca cất lên, dù chỉ là trong ảo giác, nhưng đã khiến cả một
bầu trời huyền diệu hợp về. Nơi đó có dạ lan, hồn xạ hương, hơi thở hoa hồng,
không gian tơ,... Mọi hoạt động, cử chỉ con người trong thế giới này đều là nguồn
14


cội của âm thanh: Nàng hé môi ra bay điệu nhạc, Mắt ngời châu rung ánh sáng
nghê thường. Thiên nhiên, từ nắng gió đến hương hoa, màu sắc đều trở thành
những kí hiệu của nhạc: Ôi nắng vàng thơm rung rinh điệu ngọc. Nhạc chính là
nhịp điệu của cõi trời huyền diệu này.
Nhạc không chỉ là nhịp điệu của thế giới huyền diệu mà còn là nhịp điệu của
vũ trụ, của thế giới tâm linh sâu thẳm, là nhịp điệu của hồn thơ, của sáng tạo. Bên
bầu trời đầy nhạc, thế giới huyền diệu còn rực rõ ánh sáng, chan chứa hào quang.
Tự nó đã huyền ảo, lung linh, mỹ lệ: Trăng dệt gấm mà sao thêu kim tuyến,...
Không chỉ là thế giới hòa điệu âm thanh và sắc màu, thế giới này còn được
xây nên dưới cái nhìn tương ứng cảm giác. Nơi đây, mọi sự vật đều được cảm nhận
qua các cảm giác về âm thanh, sắc màu, mùi vị tương giao, một biểu hiện của cách
cảm nhận thế giới độc đáo mà Bôđơle, một trong những đại biểu của trường phái
thi ca tượng trưng Pháp đã phát hiện và đề cao. Con người được biểu tượng qua âm

thanh (miệng như đàn, nói ra thành điệu nhạc), qua hương thơm (nàng là hương
hay nhan sắc lên hương), những cảm giác sắc ngọt (cười trắng thủy tinh, mắt rất
mát). Một lần nũa tính biểu tượng trong thơ tượng trưng góp phần thể hiện được
thế giới huyền ảo, cõi mộng trong thơ Bích Khê - biểu tượng đã làm nên tính bí ẩn
và huyền diệu: đẹp mà khó hiểu.
Xứ sở huyền diệu còn được định hình qua sắc đẹp giai nhân: Đêm ru huyền
ngủ mê trên mái tóc, Vài chút trăng say đọng lại ở làn môi, Suối tóc mát nhúng
trong vùng mộng tuyết, Mỗi cái ngó là một vì sao mọc, Mỗi liếc yêu là phảng phất
mùi hương. Lòng khát khao chiếm lĩnh người đẹp trong một loạt bài thơ: Cô gái
ngây thơ, Tranh lõa thể, Thơ bay,... không nên hiểu đơn giản là chuyện trụy lạc và
cuồng dâm mà chính là niềm say mê cái đẹp tột cùng đến mức mê sảng, mất lí trí,
là nỗi khát khao điên cuồng chinh phục cái đẹp và nghệ thuật, bởi đối với thi nhân,
người đẹp chính là Thơ ca!
Thế giới thơ, theo thi nhân, là một cõi trời xa với một không gian bất tận và
vĩnh viễn. Thơ là tinh hoa, là bí ẩn của trời đất, là nhịp điệu của vũ trụ, là chốn
tương giao của mọi vẻ đẹp: nhạc điệu, sắc màu, hương thơm và giai nhân. Thơ là
những ảo giác kì diệu. Đó là một thế giới vĩnh hằng của Mộng, của Tâm linh, của
Thơ ca. Chính vì lẽ đó, cấu trúc thế giới nghệ thuật thơ Bích Khê mang tính tượng
trưng.
15


3.3. Sự tương quan về màu sắc, âm thanh và ánh sáng:
Khi nói đến thế giới tượng trưng trong thơ của Bích Khê đó là sự tương hợp
giữa các giác quan - cả thị giác, thính giác, vị giác, xúc giác, khứu giác - cũng
chính là sự tương hợp giữa các đối tượng của chúng. Do đó mà âm thanh, màu sắc,
hương thơm, cơ thể… có thể hòa hợp trong một thực thể. Đối tượng phản ánh của
thơ ca được hiện lên nhiều chiều, nhiều sắc thái, câu thơ lúc đó trở nên sống động
và quá trình tri giác nghệ thuật cũng trở nên phong phú và hấp dẫn. Tất cả luôn
quấn quýt, đan xen, kết hợp với nhau, thậm chí hòa tan vào nhau để hình thành

tượng trưng của Bích Khê.
Điều làm nên “thần dị” này là sự kết tinh, gặp gỡ giữa hai lối tư duy thơ, thơ
Đường và thơ tượng trưng của phương Tây trong ngòi bút Bích Khê. Sự kết tinh đó
thể hiện trên nhiều phương diện, hòa trộn trong câu thơ từ nhạc điệu, hình ảnh,
màu sắc, hương vị… làm cho thơ Bích Khê mang một vẻ đẹp dị thường, “hay vào
loại bậc nhất trong thơ Việt Nam”.
Bên cạnh sự cách tân theo xu hướng “Hiện đại” đã trở thành một đòi hỏi cấp
bách của thời đại, Bích Khê không lệ thuộc hoàn toàn vào lối thơ tượng trưng của
phương Tây mà luôn trở về với cội nguồn Á Đông. So sánh hai thi phẩm của Bích
Khê, nhà thơ Quách Tấn đã nhận định: “Tinh huyết mang nhiều sắc thái của Tây
phương, còn Tinh hoa chứa nhiều khí vị của Đông phương”. Cái “sắc thái của Tây
phương” đã kết hợp một cách hài hòa với “khí vị của Đông phương” để sinh ra một
tiếng thơ đặc biệt “Của âm điệu, mơ màng run lẩy bẩy / Một hỗn hợp đẹp xô bồ
say dậy” mà trong đó có sự phối màu tuyệt diệu với đủ các gam màu:
Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng
Vàng sao nằm im trên hoa gầy
Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông
Lam nhung ô! màu lưng chừng trời;
Xanh nhung ô! màu phơi nơi nơi.
Ô trời hôm nay sao mà xanh?...
(Tỳ bà)
Những câu thơ tài hoa của Bích Khê không dừng lại ở việc miêu tả màu sắc:
“Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông”. Mà sự tài hoa của Bích Khê còn biểu lộ ở
nhiều chỗ khác, chẳng hạn trong bốn câu thơ sau mà ta thấy tràn đầy những hương

16


và sắc: màu xanh của da trời, màu vàng của ánh trăng, màu nhung của mây, sao
sáng như kim cương và mùi hương ngào ngạt của dạ lan:

Nhung mây tê ngời sao kim cương,
Dạ Lan tê ngời say men hương
(Nghê thường)
Nói về sự Giao cảm giữa thơ và họa trong thơ Bích Khê, nhà phê bình văn
học Thụy Khuê có những nhận xét rất tinh tế:
“Khó phân biệt được lúc nào ông dùng bút để viết, lúc nào ông vung cọ để vẽ,
lúc nào ông vung đũa để đánh nhạc. Và cũng cần phân biệt nhạc trong thơ Bích
Khê khác với nhạc trong thơ Hàn Mặc Tử : nhạc trong thơ Hàn là nhạc thầm trong
mỗi chữ, nhạc trong thơ Bích Khê là nhạc nổi trong thanh âm lạ, âm bằng. Ở
những bài thật hay, thơ Bích Khê là sự hoà âm giữa các điệu nhạc cổ, như điệu
hoàng hoa, điệu mộng cầm, bằng những màu sắc tân kỳ của hội họa hiện đại :
Lam nhung ô! màu lưng chừng trời;
Xanh nhung ô! màu phơi nơi nơi.
Vàng phai nằm im ôm non gầy;
Chim yên eo mình nương xương cây.
Đây mùa Hoàng hoa, mùa Hoàng hoa:
Đông nam mây đùn nơi thành xa...
Oanh già theo quyên quên tin chàng!
Đào theo phù dung: thư không sang!
Ngàn khơi, ngàn khơi, ta, ngàn khơi:
Làm trăng theo chàng qua muôn nơi;
Theo chàng ta làm con chim uyên;
Làm mây theo chàng bên nhung yên….
(Hoàng hoa)
Bài Hoàng hoa thể hiện rõ sự giao cảm giữa hai ngành nghệ thuật: thơ và họa.
Nhà thơ như một cánh chim, bay qua các khung cảnh khác nhau, trình bày trước
mắt ta những bức tranh khác nhau, trong cùng một khoảnh khắc, Vàng phai nằm
im ôm non gầy/ Chim yên eo mình nương xương cây/ Đây mùa Hoàng hoa, mùa
Hoàng hoa/ Đông nam mây đùn nơi thành xa...


17


Những bức tranh trên đây, phần nhiều là ấn tượng, chỉ khơi gợi một cảm xúc,
mà không mô tả, ví dụ, trong bức: Vàng phai nằm im ôm non gầy, chúng ta không
thể thấy rõ hiện tượng vàng phai nằm im ôm non gầy, như thế nào, mà chỉ mơ hồ
cảm thấy một ấn tượng nào đó. Những câu thơ tiếp theo cũng thế: Chim yên eo
mình nương xương cây, rồi đến Đây mùa hoàng hoa, mùa hoàng hoa/ Đông nam
mây đùn nơi thành xa, là những bức tranh gây ấn tượng lãng mạn. Cảm tưởng mờ
sương tỏa lên từ những bức tranh ấy, trong câu Vàng phai nằm im ôm non gầy, thì
sự mờ sương toả ra ở những chữ vàng phai nằm im. Ai nằm im? - một màu nằm
im. Và màu gì? - màu vàng. Nhưng không hoàn toàn là màu vàng mà màu vàng
phai.
Ở một khía cạnh khác, Bích Khê sử dụng thuyết tương hợp để đi đến việc
thống nhất của các hoạt động nghệ thuật lại với nhau. Bích Khê chủ động mở rộng
biên độ của thơ, đưa cả âm nhạc, hội họa, kiến trúc, vũ điệu… vào trong thơ, khiến
thơ ông không chỉ là thơ mà còn là nhạc điệu, bức tranh, lâu đài… ngôn ngữ không
chỉ là ngôn ngữ, mà còn là âm thanh, màu sắc đường nét của hội họa.
Nơi đây, thế giới hoà tan trong Nhạc. Thi nhân từng tuyên bố: Ngoài trời là
nhạc cả. Vậy nên, âm nhạc bao trùm thấm đượm và tan hoà vào cảnh vật và con
người:
Đàn thơ cơ hồ lên cung âm điệu
Đàn giây trinh bạch khóc mướt trong mơ

Nàng ơi đừng động, có nhạc trong giây
Nhạc gây hoa mộng, nhạc ngát trời mây
(Nhạc)
Một khúc mộng cầm ca cất lên, dù chỉ là trong ảo giác, nhưng đã khiến cả một
bầu trời huyền diệu hợp về. Nơi đó có hương dạ lan, hồn xạ hương, hơi thở hoa
hồng, không gian tơ, mắt mùa thu xanh tơ ngọc… Mọi hoạt động, cử chỉ con

người trong thế giới này đều là nguồn cội của âm thanh: Nàng hé môi ra bay điệu
nhạc, Mắt ngời châu rung ánh sáng nghê thường. Thiên nhiên, từ nắng gió đến
hương hoa, màu sắc đều trở thành những ký hiệu của nhạc: Ôi nắng vàng thơm
rung rinh điệu ngọc; Nắng có nhạc chớp đầy hương lạ; Gió đi chới với trong
khung trắng, Lộ nửa vần thơ nửa điệu ca. Nhạc chính là nhịp điệu của cõi trời
huyền diệu này. Nhịp điệu ấy được đo bằng xao động của cảnh vật: rung rinh điệu
ngọc, những cánh hồng đơm, nhẹ nhàng, gợn gợn… Nhạc chan chứa lan truyền
18


mọi nơi mọi chốn, từ miền vũ trụ bao la đến chốn tiềm thức tâm linh bí ẩn
mà thiên đường là biểu tượng: Muôn ngọc nữ uốn mình lượn sóng xiêm nghê,
Diễm lệ Hằng Nga bước xuống đền, Điệu ca thần diệu vẳng đưa lên. Nơi đây, giai
nhân dìu thi sĩ trong ý nhạc diệu huyền. Đó chính là phút giây sáng tạo được hữu
hình hoá: Cô dẫn hồn tôi trên sóng múa.
Không chỉ là một thế giới hoà điệu âm thanh và sắc màu, thế giới này còn
được xây nên dưới cái nhìn tương ứng cảm giác. Nơi đây mọi sự vật đều được cảm
nhận qua các cảm giác về âm thanh, sắc màu, mùi vị tương giao, một biểu hiện của
cách cảm nhận thế giới độc đáo mà Bôđơle, một trong những đại biểu của trường
phái thơ ca tượng trưng Pháp đã phát hiện và đề cao. Con người được biểu tượng
qua âm thanh (miệng như đàn, nói ra thành điệu nhạc), qua hương thơm (nàng là
hương hay nhan sắc lên hương), những cảm giác sắc ngọt (cười trắng thuỷ tinh,
mắt rất mát). Ánh trăng được nhân linh hoá qua từng hành động: trăng nhòm sấp
ngã, trăng ngủ, trăng rờn, trăng ôm niềm tóc bạc, trăng say, trăng bỗng ngây khờ.
Cõi vô thức của tâm linh với những ý niệm vô hình thoắt thành cụ thể qua hình
ảnh, màu sắc: mộng trắng phau, mộng nở hoa, mộng trắng như ngà, hồn hé nhạc
thắm như hoa, hồn về trên môi… Âm thanh, hương thơm, màu sắc và cảm giác của
làn da, hơi thở… tất cả đều chuyển hoá, tan hoà, cộng hưởng, dẫn người đọc đi vào
vùng siêu cảm. Mùi hương có trọng lượng, có hơi ấm, có âm thanh và ánh
sáng: Hương ngọt ngào ánh sáng chớp mau mau; Vườn thơm khua sắc mát; Thân

nhịp nhàng lòng nghe hương nằng nặng; Cười thơm như ngọc dội hương vang;
Nắng vàng thơm rung rinh điệu ngọc. Mùi hương tràn ngập, bao phủ nơi
đây: thơm như sữa lúa, hồn xạ hương, hơi thở hoa hồng, đỉnh trầm hương. Nơi đây
thực sự là cõi đẹp tuyệt vời, nơi ngự trị của thơ ca.
Trong thơ Bích Khê không chỉ tồn tại của những hình ảnh của hương và sắc:
màu xanh của da trời, màu vàng của ánh trăng, màu nhung của mây, sao sáng như
kim cương và mùi hương ngào ngạt của dạ lan mà còn có hình ảnh của thân thể,
thân thể trong thơ Bích Khê thấm đượm hồn, cảm xúc thân thể đầy mỹ cảm. Hình
ảnh nói về thân thể con người được láy đi láy lại trong thơ Bích Khê: “với cái nhìn
con người và thế giới mơn trớn, đắm say như vậy, thơ Bích Khê tạo tác cả một thế
giới hình ảnh riêng”. Tác giả còn chỉ ra: “hình ảnh trong thơ Bích Khê trước hết là
hình ảnh tượng trưng siêu thực. Chúng có thể được xây dựng theo lối so sánh, ẩn
dụ, lối “so sánh cụt”, “ẩn dụ cụt” khiến cho chúng thành kỳ dị độc “kép”, đứt đoạn,
rất phức tạp, rất bất ngờ trong một trạng thái tinh thần dường như nửa tỉnh nửa mê
sảng. Theo đó nhiều hình ảnh trở thành biểu tượng phức hợp đa nghĩa và cũng theo
19


đó tạo ra một thế giới hình ảnh thơ theo kiểu Bích Khê: thượng giới, trần gian và
địa ngục đều đẹp, buồn và gợi nhục cảm và khẳng định tài năng của Bích Khê
được thể hiện trong việc xây dựng những biểu tượng, tượng trưng được nhào nặn
từ những hình ảnh cũ hay nói cách khác là lạ hóa.
Đó là nét độc đáo nổi bật ở hệ thống hình ảnh tượng trưng trong thơ Bích Khê
là dung hợp rất nhiều ý nghĩa khác nhau thậm chí đối lập nhau, các lớp ý nghĩa này
liên tục gia tăng và dịch chuyển, biến hóa ngay trong một văn bản, tương ứng với
nhau trên dây truyền của ngữ nghĩa.
Tóm lại, trong các bài thơ của Bích Khê đó là một cõi trời huyền diệu và bí
ẩn với những âm thanh kỳ diệu, sắc màu “phương phi” và sự tương giao cảm giác.
3.4. Ngôn ngữ và tính nhạc:
3.4.1. Ngôn ngữ:

Từ xưa đến nay, không một nhà văn, nhà thơ nào không coi trọng ngôn ngữ
bởi nó là “yếu tố thứ nhất của văn học”( M. Gorki). Không có ngôn ngữ thì sẽ
không có văn học, và tùy thuộc vào từng thể loại mà ngôn ngữ có chức năng và
đặc trưng riêng. Nếu văn xuôi lấy ngôn ngữ làm phương tiện biểu đạt ý nghĩa, thì
thơ lấy ngôn ngữ làm cứu cánh tự tại. Sáng tạo thơ trước hết là sáng tạo chữ nghĩa
làm lộ vẻ đẹp của chữ nghĩa: “ Thơ là chức năng ngôn từ của thẩm mỹ”.
Mỗi thời đại, khuynh hướng thì có một mã ngôn ngữ gắn riêng với quan niệm
thi ca của thời đại khuynh hướng đó. Thơ cổ điển chịu sự chi phối của nguyên tắc
thơ họa, thơ luật, thơ nói chí tỏ lòng, nên ngôn ngữ của nó đòi hỏi phải khúc triết,
trau chuốt, gọt giũa kỳ công tinh xảo. Còn thơ văn lãng mạn thì ngôn ngữ thường
có tính diễn cảm, tuôn chảy theo dòng thác trữ tình. Còn đối với thơ tượng trưng
không mô tả, kể lể, giải bày và khám phá sự thống nhất, huyền vi của vũ trụ. Do đó
mà ngôn ngữ trong thơ tượng trưng phải mang tính biểu tượng, gợi cảm, tương
hợp, đồng thời có xu hướng đẩy tới chỗ bí hiểm. Chính vì thế mà nó phù hợp với
quan niệm thơ chỉ gợi chứ không tả.
Thơ Bích Khê đã thể hiện đúng quan niệm đó. Ngôn ngữ trong thơ ông là sự
tương giao giữa cái vô hình và cái hữu hình, nhà thơ thường kết hợp một từ chỉ cái
trừu tượng với một từ chỉ cái cụ thể, tạo cho cái trừu tượng một hình hài. Ông đã
hữu hình hóa cái vô hình như trong “sắc đẹp” là một minh chứng:
20


Mộng rất xanh, mộng rất xanh, rất xanh
Choáng thời gian vây môn đầu thục nữ
Vẻ đẹp bí nhiệm và hiện đại của ngôn ngữ thơ tượng trưng đã tạo ra một lực
hấp dẫn thu hút nhiều thế hệ thi sĩ Việt Nam, nhất là các nhà thơ thuộc nhóm
trường thơ loạn. Họ không chỉ có những phát ngôn có tính nổi loạn mà còn sáng
tạo ra những thi phẩm có lời thơ đẹp. Bích Khê một trong các nhà thơ loạn, là
người ý thức được sâu sắc và thực hiện thành công nhất cuộc đổi mới ngôn ngữ
thơ. Ông chủ trương đưa thơ về cội nguồn, bản thể của nó, ngôn ngữ mang một vẻ

đẹp nguyên sơ và có một sức mạnh tự thân, bí nhiệm:
Lời truyền song đánh điện khắp muôn trời
Chữ bí mật chữa ngầm bao chất nổ.
( Nàng bước tới_Bích Khê)
“Chữ bí mật” mà ông muốn chinh phục là thứ chữ được sáng tạo trên cơ sở
của lắp ghép ngôn từ. Nhà thơ sắp xếp các chữ vốn không liên quan về nghĩa đứng
cạnh nhau theo nguyên tắc tư duy liên tưởng, từ đó làm xuất hiện những từ mới nó
ẩn chứa một nguồn năng lượng siêu việt có khả năng đánh thức mọi giác quan đưa
người đọc vào vùng siêu cảm:
Ôi sắc đẹp! anh hoa hồn vũ trụ!
Phẩm tràng sinh! Tinh chất khi âm dương!
Mi làm long phí lòng muôn trinh nữ.
Muôn tài hoa nghiêng trước vẻ thiên hương.
(Đồ mi hoa_ Bích Khê)
Ngôn ngữ ông đã thoát ra khỏi ngôn ngữ lãng mạn, nó là tiếng nói của tiềm
thức tri giác, thi nhân sáng tác trong trạng thái mộng ảo. Ông cứ để cho ngôn ngữ
bay nhảy tự nhiên, phát huy giá trị tự thân.
Nhiều tác phẩm của Bích khê như: Tỳ bà, Hoang hoa, Nghê thường, Duy
tâm,.. đúng là những lời ca man dại. Câu thơ có cấu trúc lỏng lẻo, không theo logic
thông thường, những hư từ, liên từ bị lược bỏ, có những câu thơ sáp vào nhau một
cách ngẫu nhiên:
Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trăng
(Mộng cầm ca)
Hay:
Buồn sang cây tùng thăm đông quân,…
(Tỳ bà).
21


Chính sự kết hợp này đã mở ra một thế giới vô tận: “thế giới thơ Bích Khê

đúng như ông tự ý thức là một cõi trời dĩ nhiên một cõi trời ở ngoài trời” nó làm
người ta mê hoặc.
Với loại thơ này, ngôn ngữ chính là phương tiện giúp con người nhận
thức. “Tinh huyết” và “Tinh hoa” của Bích Khê là sự hiện thực hoá những tiềm
năng sinh ra ý tưởng của ngôn ngữ.
Cảm thức tự do đã giúp cho thi nhân có một cái nhìn, cải tạo ngôn từ theo cái
nhìn thế giới nghệ thuật của riêng mình. Bích Khê bao giờ cũng vật chất hoá, biến
tất cả những gì thuộc thể lỏng, thể hơi thành vật rắn. Nước mắt được ví như ngọc,
dòng châu, pha lê ...
Hỡi đôi mắt! Nơi người là ngọc thạch.
(Đôi mắt)
Vật thể hoá những thể lỏng thành thể rắn, vật thể sáng, ánh nhiều màu sắc vì
tất cả những cái ấy tượng trưng cho nội tâm Bích Khê. Mặt khác, với những vật
vốn bản chất ban đầu là vật thể rắn thì Bích Khê lại lỏng hoá, hơi hoá. Hai quá
trình cảm nhận thế giới ngược chiều nhau. Thực hiện hai quá trình ngược chiều đó:
vật hoá, lỏng hoá chính là quá trình tượng trưng. Muốn thực hiện quá trình đó phải
sử dụng ngôn ngữ, đặc biệt sử dụng hình ảnh ẩn dụ.
Nghệ thuật ẩn dụ ở Bích Khê thật độc đáo. Nhà thơ nào cũng sử dụng ẩn dụ,
nhưng ẩn dụ ở Bích Khê không lẫn được với ai khác trong làng Thơ mới. Điều này
góp phần tạo nên phong cách thơ ông. Đi sâu vào thế giới nghệ thuật của Bích
Khê, ta thấy nghệ thuật ẩn dụ thần kỳ hoá ngọn bút. Những hình ảnh thơ:
Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc
(Tranh loã thể).
Hình ảnh ẩn dụ “Hàng đũa” đã thay thế cho từ “ngọc” làm cho ý nghĩa thêm
sâu sắc. Sự vật như có hồn, đầy sinh khí qua câu thơ:
Những vú nõn: đồi cong thon, nho nhỏ
Với đôi dòng suối sữa trắng như tinh
(Sắc đẹp)
Từng câu chữ hiện lên dưới cái nhìn rất riêng của Bích Khê. Với ẩn dụ thông
thường, người ta thường nói đến đôi môi tươi, đỏ hay là những nụ cười hồng. Còn

riêng Bích Khê thì lại là nụ cười trắng, nụ cười đầy ám ảnh để lại trong lòng độc
giả sự xót xa lan toả từ từng câu chữ: “Nụ cười ai trắng như hoa lê” (Nghê
thường). Ở đây không lặp lại những ẩn dụ cũ mà đi sâu vào thức nhận ngôn từ:
Muôn thớ đàn run trên da thịt tuyết
22


Đàn và thơ kết thành giây tinh huyết
(Ăn mày)
Ẩn dụ còn làm cho một hình ảnh thơ từ tĩnh chuyển sang động, giàu sức gợi
cảm xúc:
Sữa trắng như tuyết pha
Nhi nhỉ nơi một vú...
(Ngũ Hành Sơn).
Những hình ảnh ẩn dụ đã tạo nên trường hô ứng, tạo nên sự nhất quán trong
thơ. Người đọc cảm nhận sau những ngôn từ ấy là một vẻ đẹp tâm hồn.
Với Bích Khê, ẩn dụ là một sáng tạo, biến nghệ thuật ngôn từ thành chất liệu,
vật liệu trong thơ ông. Chính nghệ thuật ẩn dụ độc đáo góp phần tạo nên phong
cách thơ ông. Bích Khê thực hiện một cuộc cách mạng ngôn từ gợi dậy cái vô
thanh, vô hình ẩn sâu trong con người hữu hình. Hệ thống biểu tượng, ẩn dụ luôn
thay đổi hình thức thơ, chứa đựng thế giới thơ mênh mông giàu nghĩa và gợi cảm.
Điều này mang lại vẻ đẹp thăng hoa sáng tạo mới lạ từ bản năng của thi sĩ.
Bích Khê là nhà thơ đã khai phá những vùng đất mới trong thơ, đem lại cho
người đọc những cảm giác mới mẻ về thơ, đi đến sự khoái lạc trong tâm hồn. Thơ
của Bích Khê như một đoá hoa thần dị, dội vào lòng người một nỗi đau khổ tuyệt
vọng. Qua lớp ngôn từ độc đáo phủ bởi màu sắc truỵ lạc, ta như thấy được những
cơn ham mê, khoái lạc cuồng loạn trong tâm hồn nhà thơ:
Nàng ở mô! Xiêm áo bỏ đâu đây?
Đến triển lãm tấm thân kiều diễm
( Tranh lõa thể )

Những đau đớn, tuyệt vọng, điên cuồng nung nấu trong máu huyết nhà thơ
như ứa ra trên những dòng thơ khao khát. Thi nhân không những đưa cảm giác vào
tâm linh mà còn ca ngợi cái đẹp, lăn xả vào cái đẹp để hưởng thụ một cách say sưa,
cuồng nhiệt qua sự điên dại của thân xác:
Người hiện ra để hình dung ánh sáng
Chụp hồn hoa háo hức giữa đêm thu ?
( Đôi mắt )
Thi nhân đã thành thực nói lên sự khao khát của tâm hồn đến cao độ, điên
cuồng như muốn chụp, vồ, ôm, riết chặt, rồi xé nát để hưởng thụ. Ở trong thơ Bích
Khê, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp trong thể chất đưa cảm giác của thi nhân
đến cuồng loạn:
Đâu đôi mắt mùa xuân tợ ngọc ?
23


Vú non non ? Da dịu dịu, êm êm ?...
( Mộng Cầm ca )
Tiếng thơ Bích Khê còn thể hiện khao khát đắm đuối của tâm hồn thoát tục để
đi vào lĩnh vực thơ tượng trưng:
Vườn thơm khua sắc mát
Rồng uốn vóc tùng cong
Áo bạch mai khoát khoát
Môi đào chờ khoái lạc
Hồn tôi như đỉnh hương
( Xuân tượng trưng )
Bích Khê đáng với danh hiệu : “Nhà thơ đỉnh cao của nghệ thuật ngôn từ”.
3.4.2. Tính nhạc :
Thơ tượng trưng không chỉ mang tính khơi gợi, tính lỏng mà còn đề cao tính
nhạc. Baudelaire - người mở đầu cho thơ tượng trưng gọi vũ trụ là “Rừng biểu
tượng”, là những tương ứng theo trục dọc và trục ngang: “Hương thơm, màu sắc,

thanh âm tương ứng nhau”. Chủ nghĩa tượng trưng đề cao âm nhạc trong thơ vì họ
quan niệm âm nhạc là nghệ thuật cao siêu nhất. Thật ra, ở phương Đông, truyền
thống “trung thi hữu nhạc” cũng đã xuất hiện từ lâu, song yếu tố nhạc trong thơ
phương Đông truyền thống chỉ xuất hiện bên cạnh các yếu tố khác. Còn trong thơ
lãng mạn, từ yếu tố nhạc truyền thống, các nhà thơ đã ảnh hưởng chủ nghĩa tượng
trưng nên có xu hướng biến mỗi từ trong thơ thành một bán âm của nhạc. Các thi sĩ
tượng trưng một khi đã xem âm nhạc là linh hồn, bản thể thơ thậm chí có ước
muốn biến thơ thành nhạc, thì việc tìm tòi sáng tạo nhạc tính cho thơ ắt hẳn trở
thành một mối quan tâm thường trực. Và thực tế đã cho thấy, từ khi thơ tượng
trưng hiện diện ở Việt Nam các nhà thơ theo khuynh hướng này không ngừng
mang vào thơ những giai điệu mới lạ. Tính nhạc ở trong thơ được xây dựng trên
nguyên tắc của sự phối thanh, ngắt nhịp, hiệp vần. Tuy nhiên nó có sợ đột phá các
nhà thơ như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử,… và thơ Bích Khê là người chơi lối thơ
bình thanh thuần nhị và có nghề nhất. Ông giúp bạn đọc có ý niệm đầy đủ về lối
thơ này những tác phẩm như Tỳ bà, Nhạc, Nghê thường,.. đạt tới mức độ cao nhất
của nghệ thuật thuần thúy và tượng trưng. Âm nhạc tràn ngập trong thơ của ông.
Hơn ai hết, Bích Khê là người đặc biệt quan tâm đến âm nhạc và thử nghiệm
âm nhạc cho thơ tượng trưng Việt Nam. “Cái đáng cho ta yêu Khê, bắt ta tìm đến
24


anh, phải lôi anh ra khỏi lãng quên, đó là chất nhạc của thơ anh” (Chế Lan Viên Thơ Bích Khê - 1988). Trong hàng loạt bài thơ đậm chất nhạc phải kể đến “Hoàng
hoa” (Tinh huyết).
Ở “Hoàng hoa”, chất nhạc bao trùm lên toàn bài bởi “bán âm” toàn vần bằng,
rồi lại tương giao quyện cùng màu sắc.
Lam nhưng ô!màu lưng chừng trời
Xanh nhung ô! Màu phơi nơi nơi
Vàng phai nằm im ôm non gầy
Chim yên neo mình ôm xương cây
Nhưng đây là màu của trực giác mang tính biểu tượng: “màu lưng chừng

trời”, “màu phơi nơi nơi”, “màu ôm vai gầy”. Nghĩa là màu lam kiểu lưng chừng
trời, màu xanh kiểu phơi nơi nơi, màu vàng kiểu ôm vai gầy chứ không phải
kiểu “Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc” (Hàn Mặc Tử) hay là “in như chiếc lá
hết thì tươi xanh” (Xuân Diệu). Nghĩa là một loại màu tượng trưng thật sự, một
loại màu không thể vẽ lại bằng hội hoạ.
Nhạc tính ở đây còn được Bích Khê “kí âm” bằng kiểu lặp ngữ, lặp từ, lặp vần
thường thấy trong âm nhạc. Đọc lại thử những câu này ta thấy hình như không thể
ngâm mà phải hát “ Đây mùa hoàng hoa, mùa hoàng hoa”, rồi “Ngàn khơi, ngàn
khơi, ta, ngàn khơi” hoặc những câu đầy âm vang “Làm mây theo chàng lên yên
nhung”, “Non yên tên bay ngang muôn đầu”, “Ai xây mồ hoa chôn đời tươi.
Muốn hát nhưng nó lại là thơ. Đó chính là thơ tượng trưng vậy.
Cách ngắt nhịp trong thơ của ông cũng thể hiện rõ tính nhạc như trong bài
Hoàng hoa:
Ai xây /bờ xanh/ trên xương người
Ai xây/ mồ hoa/ chôn đời tươi”?
Ta thấy trong bài cách ngắt nhịp chủ yếu là 2/2/3. Ta đọc câu thơ như tràn đầy
tính nhạc với sự đều đặn nhẹ nhàng và êm dịu.
Ông còn là người khám phá thể hiện tính nhạc ở thể thơ tám chữ. Thể thơ tám
chữ bao giờ cũng bị cắt đôi ra thành 4/4 và tạo nhịp đôi trong một câu thơ
Nhẹ nhàng, nhịp nhàng/ thở đều trong thơ
Màu trắng không gian/ như gờn gợn sóng
(Nhạc)
Chính âm nhạc đó như lời hùng biện, mang tính ám gợi ở tâm hồn người đọc.
Đấy chính là đặc trưng âm nhạc của thơ tượng trưng Bích Khê. Không có âm thanh
ồn ào, giòn giã nhưng về nhịp điệu dữ dội, mạnh có nhiều nghịch âm, bằng bằng,
25


×