Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc vào xây dựng khôi thống nhất trong mặt trận tổ quốc ở Thị Xã Hồng Lĩnh, Tỉnh Hà Tĩnh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 130 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

VÕ HỒNG NHUNG

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI
ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VÀO XÂY DỰNG KHỐI
THỐNG NHẤT TRONG MẶT TRẬN TỔ QUỐC Ở
THỊ XÃ HỒNG LĨNH, TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Đà Nẵng - Năm 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

VÕ HỒNG NHUNG

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI
ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VÀO XÂY DỰNG KHỐI
THỐNG NHẤT TRONG MẶT TRẬN TỔ QUỐC Ở
THỊ XÃ HỒNG LĨNH, TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


Người hướng dẫn khoa học: TS. NGÔ VĂN HÀ

Đà Nẵng - Năm 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Võ Hồng Nhung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài.................................................................................... 1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................. 3
5. Bố cục đề tài ...................................................................................................... 3
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu ......................................................................... 3
CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC9
1.1. NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH ............................................................................ 9
1.1.1. Truyền thống yêu nước nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân
tộc Việt Nam................................................................................................................. 10
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân
dân đối với sự phát triển của lịch sử ........................................................................... 13
1.1.3. Thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam và
phong trào cách mạng thế giới .................................................................................... 15

1.2. NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TRONG TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ............................................................................................ 19
1.2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc .......................... 20
1.2.2. Đại đoàn kết dân tộc có ý nghĩa chiến lược quyết định thành công của
cách mạng ..................................................................................................................... 21
1.2.3. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu và là nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng .............................................................................................................................. 25
1.2.4. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân ....................................... 27
1.3. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG KHỐI THỐNG NHẤT
TRONG MẶT TRẬN DÂN TỘC ............................................................................. 33


1.3.1. Vai trò của Mặt trận dân tộc thống nhất trong sự nghiệp cách mạng .. 33
1.3.2. Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng khối
liên minh công - nông - trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng................................. 39
1.3.3. Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm lợi
ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân .................... 43
1.3.4. Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp
thương dân chủ, đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững...................................... 50
1.3.5. Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đại đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, giúp
đỡ nhau cùng tiến bộ .................................................................................................... 51
1.4. Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC CỦA HỒ CHÍ MINH 53
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................... 56
CHƯƠNG 2. TÌNH HÌNH XÂY DỰNG KHỐI THỐNG NHẤT TRONG
MẶT TRẬN TỔ QUỐC Ở THỊ XÃ HỒNG LĨNH, TỈNH HÀ TĨNH HIỆN
NAY .............................................................................................................................. 58
2.1. MỘT SỐ NÉT VỀ THỊ XÃ HỒNG LĨNH, TỈNH HÀ TĨNH ........................ 58
2.1.1. Lịch sử hình thành .................................................................................... 58
2.1.2. Điều kiện tự nhiên .................................................................................... 60
2.1.3. Dân số và lao động ................................................................................... 61

2.2. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG KHỐI THỐNG NHẤT TRONG MẶT TRẬN
TỔ QUỐC THỊ XÃ HỒNG LĨNH, TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY ....................... 62
2.2.1. Những thành quả đạt được trong chương trình hành động của Mặt trận
Tổ quốc Thị xã Hồng Lĩnh, Tỉnh Hà Tĩnh từ năm 2009 đến nay ........................... 62
2.2.2. Tồn tại, hạn chế......................................................................................... 79
2.3. NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN ................................... 81
2.3.1. Nguyên nhân thành công ......................................................................... 81
2.3.2. Nguyên nhân hạn chế ............................................................................... 82


2.3.3. Kinh nghiệm thực tiễn.............................................................................. 83
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................... 85
CHƯƠNG 3. XÂY DỰNG KHỐI THỐNG NHẤT TRONG MẶT TRẬN
TỔ QUỐC THỊ XÃ HỒNG LĨNH, TỈNH HÀ TĨNH THEO TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH .......................................................................................................... 86
3.1. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT CỦA
HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY DỰNG KHỐI THỐNG NHẤT Ở MẶT TRẬN
TỔ QUỐC THỊ XÃ HỒNG LĨNH, TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY......................... 86
3.2. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG KHỐI THỐNG NHẤT
TRONG MẶT TRẬN TỔ QUỐC Ở THỊ XÃ HỒNG LĨNH, TỈNH HÀ TĨNH
HIỆN NAY ................................................................................................................... 97
3.2.1. Phương hướng xây dựng khối thống nhất trong Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam ............................................................................................................................... 97
3.2.2. Một số mục tiêu về xây dựng khối thống nhất trong Mặt trận Tổ quốc
ở Thị xã Hồng Lĩnh trong thời gian tới ....................................................................100
3.2.3. Giải pháp xây dựng khối thống nhất trong Mặt trận Tổ quốc ở Thị xã
Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay............................................................................102
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .........................................................................................116
KẾT LUẬN ...............................................................................................................118
TÀI LIỆU THAM KHẢO

QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI (Bản sao)
PHỤ LỤC


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhà yêu nước, nhà cách mạng vĩ đại, danh nhân
văn hoá thế giới, người khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, người
là vị cha già kính yêu của dân tộc. Trước khi ra đi, Người để lại cho chúng ta
một di sản văn hoá vĩ đại, một hệ thống tư tưởng có giá trị về nhiều mặt.
Trong những tư tưởng đó, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc là một tư tưởng cơ
bản, nhất quán, xuyên suốt trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của
Người, nó là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam và là
một di sản quý báu cho dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giành độc
lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là sự kế thừa truyền
thống đoàn kết dân tộc, sự vận dụng sáng tạo tư tưởng đoàn kết của chủ nghĩa
Mác-Lênin vào thực tiễn Việt Nam. Và cũng chính là sự thể hiện tính độc lập,
tự chủ, sáng tạo của Người. Thiên tài của Hồ Chí Minh là ở chổ đã khơi dậy
và phát huy đến đỉnh cao sức mạnh của cả cộng đồng xã hội – từ lực lượng
chí cốt của cách mạng đến các tầng lớp trung gian, của từng con người, để tạo
thành tổng hợp lực, chĩa mũi nhọn đấu tranh vào các thế lực thù địch ngoan
cố, phản động nhất.
Xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, tạo ra cho đất nước ta nhiều thuận lợi,
song cũng đặt ra cho chúng ta không ít những khó khăn và thách thức. Các
thế lực thù địch vẫn đang ráo riết thực hiện âm mưu diễn biến hòa bình, gây
bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài dân chủ, “nhân quyền” “dân tộc” nhằm
chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân

ta. Trong bối cảnh đó, tư tưởng đại đoàn kết của người lại càng có giá trị lý
luận và thực tiễn hơn bao giờ hết.


2

Thị xã Hồng Lĩnh - Hà Tĩnh là một mảnh đất địa linh nhân kiệt, nằm
dưới chân dãy núi Hồng Lĩnh với 99 ngọn nổi tiếng, cận kề với dòng sông
Lam huyền thoại. Trong những năm qua Mặt trận Tổ quốc Thị xã Hồng Lĩnh
đã có nhiều nỗ lực trong công tác tuyên truyền, vận động nhân dân đoàn kết,
thực hành tiết kiệm, làm cho kinh tế của huyện nhà không ngừng phát triển,
kết cấu hạ tầng đô thị không ngừng nâng cao, văn hoá - xã hội có nhiều khởi
sắc, quốc phòng, an ninh được giữ vững, chính trị ổn định. Song, so với yêu
cầu của thực tiễn đòi hỏi thì việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận
trong tình hình mới vẫn còn những hạn chế, chưa phát huy được tối đa sức
mạnh của khối đoàn kết toàn dân. Việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
đại đoàn kết dân tộc, từ đó vận dụng vào việc xây dựng Mặt trận Tổ quốc ở
Thị xã Hồng Lĩnh có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn vấn đề “Vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc vào xây dựng khối thống nhất trong Mặt
trận Tổ quốc ở Thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay” làm đề tài luận văn
tốt nghiệp cao học chuyên ngành triết học.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Luận văn phân tích, làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc, từ đó vận dụng vào xây dựng khối thống nhất trong Mặt trận Tổ quốc ở
Thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
- Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
- Phân tích tình hình xây dựng khối thống nhất trong Mặt trận Tổ quốc ở

Thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh thời gian qua.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp để góp phần xây dựng khối
thống nhất trong Mặt trận Tổ quốc ở Thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh thời


3

gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
- Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, trong
đó tập trung chủ yếu vào việc xây dựng khối thống nhất trong Mặt trận dân
tộc và vận dụng tư tưởng này vào xây dựng khối thống nhất trong Mặt trận Tổ
quốc ở Thị xã Hồng Lĩnh, Tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: quy
nạp và diễn dịch, phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử…
5. Bố cục đề tài
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương với 9 tiết.
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Chương 2. Tình hình xây dựng khối thống nhất trong Mặt trận Tổ quốc ở
Thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
Chương 3: Xây dựng khối thống nhất trong Mặt trận Tổ quốc Thị xã
Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu

Đại đoàn kết dân tộc là một nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, được nhiều người quan tâm, nghiên cứu. Chúng ta có thể kể đến một số
công trình nghiên cứu tiêu biểu như:
“Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh” do PGS Phùng Hữu Phú chủ


4

biên, cùng các tác giả: GS Vũ Dương Ninh, PGS Lê Mậu Hãn, PTS Phạm
Xanh, Nxb Chính trị Quốc gia, 1995. Tác phẩm gồm 5 phần: phần thứ nhất:
Những cơ sở và quá trình hình thành chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh,
phần 2: Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh trong cách mạng giải phóng
dân tộc, phần 3: Đại đoàn kết Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ
chủ nghĩa xã hội, phần 4: Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh - những nội
dung cơ bản, phần 5: Kế thừa, phát triển chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh
trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thống nhất. Cuốn
sách khẳng định vấn đề đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một chiến
lược thực sự, có nội dung cụ thể, rộng lớn chứ không chỉ là vấn đề sách lược,
và Người đã vận dụng nó rất đúng đắn, hiệu quả để tổ chức cả một dân tộc
chiến đấu giành độc lập tự do, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng xã hội mới.
Với nội dung phong phú, công trình nghiên cứu của tập thể tác giả do
Phùng Hữu Phú làm chủ biên chắc sẽ giúp bạn đọc nghiên cứu sâu sắc hơn
chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh, và từ đó nhận rõ việc Đảng ta vận
dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng chiến lược ấy vào hoàn cảnh cách mạng
hiện nay.
Tác phẩm “Tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc” của PGS.TS Trần Quang Nhiếp, Nxb Công an Nhân dân, 2006. Cuốn
sách gồm 3 phần: phần 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và
tuyên truyền tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh, phần 2: Nội dung chính
của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và vấn đề đặt ra về tuyên truyền tư tưởng

đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, phần 3: Phương hướng, biện pháp
nghiên cứu, tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc hiện
nay. Nhìn chung tác phẩm trình bày một cách có hệ thống và toàn diện tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh đó tác giả đưa ra những
phương hướng, biện pháp tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết


5

dân tộc hiện nay.
“Chủ tịch Hồ Chí Minh với đại đoàn kết dân tộc và mặt trận dân tộc
thống nhất” của Vũ Trọng Kim, http://123.30.190.43/tiengviet/tulieuvankien/
4lanhtu/details.asp?topic=3&subtopic=91&leader_topic=&id=BT126123702
5, ngày 11/6/2012. Bài viết đã đề cập tới cống hiến lớn lao của Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng đối với dân tộc ta và các dân tộc bị áp bức trên thế giới đó
là việc đề xướng thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất. Bên cạnh đó bài viết
chỉ ra lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia và
toàn vẹn lãnh thổ, là "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Từ đó rút ra bài học cho chúng ta là nếu biết vận dụng tư tưởng đại đoàn kết
dân tộc của Người vào thực tiễn cách mạng Việt Nam thì việc dù khó khăn
biết mấy cũng sẽ vượt qua.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc” của PGS.NGND Lê Mậu
Hãn, />&cn_id=194924, ngày 24/05/2006. Bài viết khẳng định độc lập, tự do và tư
tưởng cách mạng vĩ đại của Hồ Chí Minh là chìa khoá để mở đường hội tụ
thắng lợi của chiến lược: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công,
thành công, đại thành công”. Và để thực hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc,
trước hết phải có cương lĩnh đúng đắn phù hợp với thực tiễn của đất nước qua
các thời kỳ cách mạng khác nhau. Khối quần chúng đông đảo chỉ trở thành
sức mạnh vô địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu cao cả, được tổ
chức lại thành một khối vững chắc trên cơ sở của Mặt trận dân tộc thống nhất,

được hình thành và phát triển ngày càng hoàn thiện trong tiến trình cách
mạng. Và sau khi cách mạng thành công, nhà nước của dân, do dân tộc và vì
dân tộc được thành lập, chiến lược đại đoàn kết quốc gia dân tộc không chỉ
được thực thi bằng cách tập hợp lực lượng quần chúng rộng rãi, phong phú về
nội dung và hình thức tổ chức mà còn phải liên hiệp quốc dân ở trong Quốc


6

hội, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan hành chính cao nhất của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam).
“Đồng chí Võ Văn Kiệt với tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh” của PGS.TS
Phạm Hồng Chương, />-Traodoi/2012/18820/Dong-chi-Vo-Van-Kiet-voi-tu-tuong-dai-doan-ket.aspx,
ngày 22/11/2012. Bài viết không đi sâu vào phẩm chất và những đóng góp to
lớn của đồng chí với cách mạng Việt Nam như đã được Đảng ta khẳng định,
mà chỉ xin được đề cập tới một nhân tố hàng đầu và căn bản nhất, đã tạo nên
phẩm chất Võ Văn Kiệt. Đó là việc đồng chí đã “thường xuyên kiên trì học
tập, nghiên cứu và thực hành thành công tư tưởng, đạo đức, phong cách” nhất
là tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí rất thành công
trong hoạt động lý luận và thực tiễn phong phú của mình.
“Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc theo tư tưởng Hồ Chí Minh” của Thượng tá Ngô Quốc Hải
và Nguyễn Bình Minh, ngày 17/02/2012. Bài viết đã khẳng định trong tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến
lược, quyết định thành công của cách mạng. Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của
Người, trong các giai đoạn cách mạng trước đây cũng như hiện nay, Đảng ta
luôn coi trọng và hết sức chăm lo tăng cường đại đoàn kết dân tộc.
“Giương cao ngọn cờ Đại đoàn kết Hồ Chí Minh vững bước vào thời kỳ phát
triển mới” của GS.TS Phùng Hữu Phú, http://123.30.190.43/tiengviet/tulieuvankien

/4lanhtu/details.asp?topic=3&subtopic=91&leader_topic=&id=BT1261236690
ngày 11/06/2012. Bài viết của tác giả đã đề cập đến những phương pháp và
nguyên tắc mà Người đã vận dụng trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt


7

Nam. Đó là: “Dĩ bất biến ứng vạn biến”; “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết;
tất cả do con người, vì con người”; “Trong bầu trời không có gì quý bằng
nhân dân”; “Quan san muôn dặm một nhà”; “Giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của
Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
“Giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc tỉnh Hà
Tĩnh” của Nguyễn Thị Lam, ngày 30/01/2015. Bài viết đã đưa ra được một số thực trạng
của Mặt trận Tổ quốc tỉnh Hà Tỉnh hiện nay, từ đó đã đưa ra được một số giải
pháp để khắc phục những tồn tại và hạn chế.
“Mặt trận Thị xã Hồng Lĩnh với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”
của chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Thị xã Hồng Lĩnh - Lê Bá Lợi, theo
tháng 09/2009.
Bài viết đã đề cập đến những thành quả của việc thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở trong những năm qua. Đồng thời qua 5 năm thực hiện Quy chế dân chủ
ở cơ sở, tác giả đã rút ra một số vấn đề để thực hiện tốt Quy chế dân chủ. Đó
là: thứ nhất, muốn thực hiện tốt Quy chế dân chủ trước hết cần làm tốt công
tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, nhằm nâng cao nhận thức cho
nhân dân. Thứ hai, cần có cơ chế và cụ thể hóa hoạt động giám sát, phản biện
xã hội. Thứ ba, việc chỉ đạo lấy phiếu tín nhiệm cán bộ chủ chốt Hội đồng
nhân dân xã, phường bầu cần mở rộng thành phần và có văn bản chỉ đạo cụ
thể; càng mở rộng thành phần càng dân chủ. Thứ tư: để dân chủ được phát
huy, trước hết phải nâng cao công tác quản lý điều hành của chính quyền theo
đúng pháp luật. Thứ năm: cần bảo đảm điều kiện hoạt động cho Mặt trận.
“Mặt trận Tổ quốc Thị xã Hồng Lĩnh lấy sức dân lo cho dân” của Lê Bá

Lợi, theo 15/04/2014. Bài viết của tác giả đã tổng kết


8

những thành quả đạt được của Mặt trận Thị xã từ năm 2008 - 2013 qua các
phong trào và các cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư”, “Ngày vì người nghèo”, “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc” và phong trào “Xây dựng và chỉnh trang đô thị văn minh, hiện đại”.
Đồng thời đề ra một số phương hướng trong thời gian tới.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đây mang tính khái quát cao,
nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu khai thác từng khía cạnh của vấn đề đại đoàn
kết dân tộc. Đây là những thuận lợi để cho bản thân tôi nghiên cứu vấn đề
này. Tuy nhiên, tính tới thời điểm hiện tại chưa có công trình nào đi sâu làm
rõ việc vận dụng tư tưởng này vào xây dựng Mặt trận Tổ quốc ở Thị Xã Hồng
Lĩnh, Tỉnh Hà Tĩnh.


9

CHƯƠNG 1

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
1.1. NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Đại hội đại biểu các dân tộc
thiểu số lần đầu tiên được tổ chức tại thủ đô Hà Nội vào ngày 3/12/1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đến dự đại hội và có buổi nói chuyện với các đại biểu.
Người nói rất ngắn gọn, nhưng đã tập trung nêu bật vấn đề đó là phải xây
dựng khối đoàn kết giữa các dân tộc thiểu số. Người cho rằng: “Nhờ sức đoàn
kết tranh đấu chung của tất cả các dân tộc, nước Việt Nam ngày nay được độc

lập, các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng dân tộc Việt Nam, tất cả đều
như anh chị em trong một nhà, không còn có sự phân chia nòi giống, tiếng nói
gì nữa. Trước kia các dân tộc để giành độc lập phải đoàn kết, bây giờ để giữ
lấy nền độc lập càng cần đoàn kết hơn nữa…” [16, tr. 117].
Cũng trong ngày 3/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết một bức
thư gửi các đại biểu về dự Đại hội các dân tộc thiểu số lần thứ nhất. Trong
thư, Người nhấn mạnh: “Xưa kia, nước ta còn chế độ nhà vua, thì triều đình ít
chăm nom đến các dân tộc thiểu số. Trong thời kỳ Pháp thuộc, thì chúng xui
dân tộc này chống dân tộc kia. Chúng làm cho đồng bào ta chia rẽ. Chúng tìm
mọi cách đè nén bóc lột các dân tộc ta. Ngày nay, nhờ sự đoàn kết chặt
chẽ giữa các dân tộc, nhờ sự hy sinh phấn đấu của tất cả đồng bào, mà chúng
ta tranh được quyền tự do độc lập, và xây nên nước Dân chủ Cộng hòa. Từ
đây về sau, các dân tộc đã đoàn kết càng phải đoàn kết thêm, đã phấn đấu
càng phải phấn đấu nữa, để giữ gìn quyền độc lập cho vững vàng để xây dựng
một nước Việt Nam mới. Khi khó nhọc chúng ta cùng gắng sức, lúc thái bình
chúng ta cùng hưởng chung…" [16, tr. 162]


10

Trên đây là một trong những minh chứng cho việc kiên trì, dày công xây
dựng, vun đắp khối đại đoàn kết dân tộc của Người, trên cơ sở các dân tộc
phải được bình đẳng như nhau, sống có tình, có nghĩa với nhau, thương yêu,
đùm bọc nhau và phải giúp đỡ nhau như anh em một nhà. Tư tưởng, quan
điểm về công tác dân tộc, chính sách dân tộc và đoàn kết dân tộc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh thể hiện giá trị nhân văn cao cả, là cội nguồn sức mạnh cho mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt
Nam đã khẳng định: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn
diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả

của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện
cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức
mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc… Tư tưởng Hồ Chí Minh
soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh
thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Trong những tư tưởng đó, tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc là nét nổi bật
xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động và hệ thống tư tưởng của Người, nó đã trở
thành một di sản quý báu cho dân tộc Việt Nam trong đấu tranh giành độc lập
dân tộc và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Tư tưởng này của Người được hình thành
dựa trên nhiều cơ sở về mặt lý luận và thực tiễn rất phong phú, cụ thể là:
1.1.1. Truyền thống yêu nước nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng
của dân tộc Việt Nam
Đất nước ta, một dải đất hẹp nằm trọn trong vành đai nhiệt đới gió mùa,
quay mặt ra biển đông, lưng tựa vào Trường Sơn hùng vĩ. Do điều kiện địa lý,


11

tự nhiên và vị trí quan trọng của mảnh đất này, những cư dân người Việt từ
thuở xa xưa vừa được thừa hưởng sự ưu đãi của đất trời, vừa phải đối mặt với
những thử thách khắc nghiệt của thiên tai, địch họa. Lịch sử dựng nước và giữ
nước diễn ra trên mảnh đất này là sự nối tiếp hàng ngàn năm những cuộc đấu
tranh không mệt mỏi chống hạn hán, bão lụt, chống chiến tranh xâm lược của
các thế lực nước ngoài. Từ trong cuộc đấu tranh trường kỳ đó đã sớm nảy
sinh và định hình ý thức cộng đồng, ý thức tập thể và cao hơn là ý thức dân
tộc. Ý thức này ngấm vào máu thịt của con người Việt Nam và được trao
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, để tạo thành truyền thống đoàn kết

nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng trên nền tảng của chủ nghĩa yêu nước.
Truyền thống này đã được minh chứng qua lịch sử hàng nghìn năm dựng
nước và giữ nước của dân tộc. Đặc biệt trong truyền thuyết “Lạc Long Quân
và Âu Cơ” sinh ra bọc trăm trứng, nở ra trăm con, đã nói lên nguồn gốc và
đặc điểm hình thành dân tộc Việt Nam. Chúng ta tự hào rằng chúng ta là
“Con Rồng cháu Tiên”. Truyền thống ấy đã thấm sâu vào tình cảm, tâm hồn
và tư tưởng của mỗi con người Việt Nam.
Yêu nước nhân ái, đoàn kết cộng đồng với các thế hệ người Việt Nam
đã trở thành một tình cảm tự nhiên:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”
hay là
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
đã trở thành triết lý nhân sinh:
“Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
đã trở thành phép ứng xử và tư duy chính trị:


12

“Nhà - Làng - Nước thống nhất”
“Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”
Những điều đó đã phần nào ghi đậm dấu ấn cấu trúc xã hội truyền thống:
gia đình gắn kết cộng đồng làng xã (Nhà - Làng - Nước), gắn với cộng đồng
cả nước, cho nên dân ta có câu: “Nước mất thì nhà tan”
Những giá trị nhân bản sâu sắc và quý giá đó không chỉ được phản ánh
trong kho tàng văn học dân gian mà còn được thể hiện qua tư tưởng của
những người anh hùng giải phóng dân tộc qua các thời kỳ lịch sử như: Hai Bà

Trưng, Bà Triệu, Lý Nam Đế, Mai Thúc Loan, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt,
Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,… Nó đã nâng lên thành phép đánh
giặc, giữ nước “tập hợp bốn phương manh lệ”, “trên dưới một lòng, cả nước
chung sức”, “tướng sĩ một lòng phụ tử”, “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền
gốc”, “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”,…
Truyền thống đó của dân tộc lại được tiếp nối trong tư tưởng tập hợp lực
lượng toàn dân của các nhà yêu nước trong cuộc đấu tranh chống thực dân
Pháp xâm lược và các thế lực phong kiến tay sai vào cuối thế kỉ XIX - đầu thế
kỉ XX như: Đinh Công Tráng, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Thiện Thuật,
Phan Đình Phùng, Hoàng Hóa Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,…Hồ
Chí Minh sinh ra và lớn lên trên mảnh đất giàu truyền thống đấu tranh cách
mạng Nghệ Tĩnh. Qua quá trình tìm hiểu lịch sử dân tộc và quá trình hoạt
động tìm đường cứu nước, lãnh đạo cách mạng nước nhà thì Người đã sớm
tiếp thu truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết quý báu đó. Người
khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý
báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy
(yêu nước) lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn
(đoàn kết), nó lướt qua mọi sự hiểm nguy, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ
bán nước và lũ cướp nước” [18, tr.171]. Rõ ràng truyền thống yêu nước -


13

nhân nghĩa - đoàn kết là cơ sở quan trọng hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về đại đoàn kết dân tộc.
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần
chúng nhân dân đối với sự phát triển của lịch sử
Thời đại của Hồ Chí Minh sinh ra và hoạt động là thời đại cách mạng vô
sản, là thời đại của chủ nghĩa cộng sản từ học thuyết đã trở thành hiện thực
sinh động. Đặt trong bối cảnh đó, chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết khoa

học, tiên tiến nhất thời đại, có sức hấp dẫn, chinh phục hàng triệu triệu khối
óc, trái tim nhân loại. Sức hấp dẫn của hoc thuyết đó chính là ở chổ các nhà
sáng lập đã đặt giai cấp vô sản - giai cấp làm thuê, bị bóc lột trong xã hội tư
bản - trở thành chủ thể sáng tạo của lịch sử, sáng tạo ra một thế giới mới tự
do, bình đẳng, bác ái thực sự, không có người bóc lột người. Trong cuộc đấu
tranh lật đổ chế độ tư bản, giai cấp vô sản “chẳng mất gì hết, ngoài những
xiềng xích trói buộc họ. Họ sẽ giành được cả thế giới” [13, tr. 646]. Trong
Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản Mác và Ăngghen đã đưa ra một khẩu hiệu
chiến đấu vang dội: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại”.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khi nói tới sứ mệnh lịch sử giải phóng loài người
của giai cấp vô sản đã chỉ rõ, ở trong mỗi nước, giai cấp vô sản là giai cấp cách
mạng nhất, ngoài ra còn có những tầng lớp bị giai cấp tư sản bóc lột cũng làm
cách mạng như tiểu nông, tiểu tư sản thành thị. Giai cấp vô sản lãnh đạo cách
mạng phải đoàn kết với những người bị áp bức, hình thành “nhân dân” trong
nước. Để đảm bảo thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử, giai cấp vô sản cần phải
có một bộ tham mưu ở mỗi nước và trên phạm vi thế giới để vạch đường chỉ
lối. Chính C. Mác và Ph. Ăngghen đã sáng lập Đồng minh những người cộng
sản và soạn thảo bản tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản nổi tiếng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra vai trò của quần chúng, chỉ ra vị trí của
liên minh công nông trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và đi đến khẳng định:


14

cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch
sử, vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại, giai cấp vô sản
muốn thực hiện vai trò lãnh đạo cách mạng thì phải tập hợp liên minh công
nông, đây là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng. Khi nói về sự
đoàn kết của giai cấp vô sản thì C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đã đề cập ngay
tới vấn đề tập hợp lực lượng cách mạng quốc tế. Ngay ở câu mở đầu của

tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ông nói rõ: Vô sản các nước, đoàn kết lại!.
Đến đầu thế kỉ XX, V.I. Lênin đã phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác và
Ph. Ăngghen về đoàn kết trong điều kiện lịch sử mới. Lênin đưa ra khẩu hiệu
“Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Và cũng chính
ông là người đề ra các nguyên tắc xây dựng đảng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, trong đó có nguyên tắc về sự thống nhất, đoàn kết về
chính trị, tư tưởng và tổ chức là nhân tố bảo đảm sụ sống còn của đảng, hạt
nhân của đoàn kết là đoàn kết toàn dân tộc.
Vào năm 20 của thế kỉ XX, Hồ chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác Lênin. Động lực thúc đẩy Người tin theo Lênin, tin theo Quốc tế Cộng sản
trước hết là vì đối với Người, Lênin là “hiện thân của tình anh em bốn bể”; là
vì chủ nghĩa Mác - Lênin đã đề cập đến sự cần thiết và con đường tập hợp,
đoàn kết các lực lượng cách mạng toàn thế giới, lực lượng cách mạng từng
nước vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Một mặt cần nhấn mạnh
rằng, chính nhờ có những nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lê nin mà Hồ Chí
Minh có cơ sở khoa học để đánh giá chính xác những yếu tố tích cực và
những hạn chế của các di sản truyền thống dân tộc, văn hóa nhân loại, của tư
tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà
cách mạng lơn trên thế giới, từ đó có điều kiện để xây dựng một tư tưởng đại
đoàn kết hoàn chỉnh. Song, mặt khác lại phải thấy một sự thật rằng với Hồ
Chí Minh trước sau chủ nghĩa Mác - Lê nin dù vô cũng quan trọng, dù là


15

“kim chỉ nam”, là “cẩm nang thần kỳ” nhưng không phải là giáo điều. Người
chăm chú học tập, tiếp thu những tinh hoa của chủ nghĩa Mác xít về liên minh
công - nông, về quan hệ giữa phong trào cách mạng vô sản các nước tư bản
chủ nghĩa với phong trào giải phóng dân tộc ở thuộc địa… đồng thời trên
nhiều phương diện, nhất là việc nhận thức, giải quyết mối quan hệ dân tộc giai cấp, cách mạng thuộc địa - cách mạng chính quốc… Người có nhiều sáng
tạo riêng rất độc đáo, hiệu quả. Và cũng do vậy, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc

của Người bao giờ cũng mang sắc thái riêng - sắc thái Hồ Chí Minh, sắc thái
Việt Nam.
Hồ Chí Minh trên cơ sở tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng
sáng tạo vào Việt Nam. Người thực hiện xây dựng khối liên minh giai cấp;
thành lập Mặt trận; đoàn kết quốc tế, coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận
của cách mạng thế giới. Người thực hiện tài tình cuộc chiến tranh nhân dân
đánh thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Người kêu gọi toàn dân kháng chiến,
toàn quốc kháng chiến, toàn dân kiến quốc. Người chủ trương không phân
biệt già, trẻ, gái, trai, hễ là người Việt Nam đều đứng lên chống thực dân
giành quyền độc lập. Với Người, đoàn kết là một chân lý rõ ràng và được mở
rộng theo một trình tự phát triển từ con người của cộng đồng tới giai cấp và
vượt ra ngoài giai cấp; vượt qua mọi khác biệt về tôn giáo, chính kiến, xuyên
suốt và bao trùm tất cả mọi mối quan hệ; lấp lánh suốt thời gian và toả sáng
mọi không gian.
Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh là chiến lược đúng đắn sâu sắc
cho việc tìm bạn đồng minh cho giai cấp vô sản và góp phần làm nên thắng
lợi hoàn toàn cho cách mạng Việt Nam.
1.1.3. Thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt
Nam và phong trào cách mạng thế giới


16

Về mặt thực tiễn, tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh được hình thành
trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm và nắm bắt những đòi hỏi khách quan
của phong trào cách mạng Việt Nam, phong trào cách mạng thế giới - đặc biệt
là phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa.
Hồ Chí Minh là biểu tượng của sự kết hợp hài hòa hoạt động lý luận và
hoạt động thực tiễn. Đối với Người, thực tiễn bao giờ cũng là điểm xuất phát
và là nhân tố thường xuyên kiểm chứng, điều chỉnh hoạt động lý luận. Cuộc

đời và sự nghiệp Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về tinh thần xâm
nhập, quan sát, phân tích, tổng kết thực tiễn, để từ đó suy nghĩ, xác định
phương hướng chủ trương để đưa hoạt động thực tiễn đi đúng quỹ đạo và đạt
hiệu quả cao nhất. Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh chủ yếu và trước hết
xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn cách mạng Việt Nam, Cách mạng thuộc địa.
Cuối thế kỷ XIX, triều đình nhà Nguyễn đã ở vào buối xế bóng với chế
độ phong kiến mục nát, khiến đất nước rơi vào tay thực dân Pháp. Thực dân
Pháp xâm lược đất nước ta bọn chúng dùng chính sách thâm độc chia để trị để
chia rẽ sức mạnh của dân tộc ta, nhằm khoét sâu mối hằn thù, chia rẽ lương giáo. Thế nhưng, chỉ một ngày sau khi nước nhà độc lập, trong phiên họp
Chính phủ đầu tiên, một trong 6 nhiệm vụ nêu ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định “Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào
Giáo và đồng bào Lương, để dễ bề thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên
bố: Tín ngưỡng tự do và Lương Giáo đoàn kết” [16, tr. 17]. Chính tư tưởng
đại đoàn kết này của Người mà trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, nhiều chức sắc và đông đảo tín đồ các tôn
giáo đã nhiệt tình tham gia và ủng hộ cách mạng với những tên tuổi đã trở
thành quen thuộc: linh mục Phạm Bá Trực, hòa thượng Thích Đôn Hậu, “vua
Phật” Lưu Công Dang, Ni trưởng Huỳnh Liên, cư sĩ Tâm Minh Lê Đình
Thám v.v…


17

Qua đó chúng ta có thể thấy rằng để chống lại chính sách chia để trị của
thực dân Pháp, chúng ta chỉ có thể dùng sự đồng tâm hiệp lực, đoàn kết hết
thảy người Việt Nam yêu nước không phân biệt giai cấp, tôn giáo, dân tộc…
cùng nhau đứng lên đánh đuổi bọn xâm lược, giành lại độc lập cho dân tộc.
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược nổ súng tại Đà Nẵng, phong trào chống
lại chúng dưới những hình thức khác nhau của nhân dân ta liên tiếp nổ ra. Sự
tiếp nối của phong trào kháng Pháp để chứng tỏ tinh thần yêu nước và sự quật

cường của cả một dân tộc không chịu khuất phục. Cuốn vào dòng xoáy của
phong trào cứu nước đó không chỉ có những người cần lao bị áp bức, bóc lột
mà còn cả những vị khoa bảng nổi tiếng như các tiến sỹ: Phạm Văn Nghị,
Phan Đình Phùng, Tống Duy Tân, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng và tầng
tầng lớp lớp những phó bảng, cử nhân, tú tài như Phan Chu Trinh, Phan Bội
Châu, Lương Văn Can, Nguyễn Quyến… Trong đội ngũ những ngưởi xả thân
cho độc lập dân tộc có mặt cả những ông vua yêu nước: Hàm Nghi, Thành
Thái, Duy Tân; có mặt cả những địa chủ lớn: Trần Chánh Chiếu; các tín đồ
Thiên chúa giáo: Nguyễn Trường Tộ, Mai Lão Bạng; các thổ ty vùng dân tộc
ít người: N’Trang Lơng, Đèo Cát Hãn…
Từ các phong trào Cần Vương thuộc hệ tư tưởng phong kiến cuối thế kỷ
XIX, qua phong trào Đông Du, Duy Tân theo xu hướng tư sản đầu thế kỷ XX,
đến cuộc khởi nghĩa Yên Bái, phong trào chống thuế ở Trung Kỳ mang đậm
tính chất quần chúng… Các bậc anh hùng nghĩa hiệp Việt Nam thừa lòng yêu
nước và lòng quả cảm, nhưng trước sau đều phải nhận lấy sự thất bại. Thực
tiễn hào hùng và bi thương của phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX đã chứng minh rằng tinh thần yêu nước chống ngoại xâm
của nhân dân ta đời nào cũng có, rằng sức mạnh đoàn kết đánh giặc luôn tiềm
ẩn trong mỗi người Việt Nam, song bước vào thời đại mới để có thể đánh bại
các thế lực đế quốc chủ nghĩa xâm lược không chỉ dựa vào sức mạng đoàn kết


18

tự phát. Thời đại mới, cuộc chiến đấu mới đòi hỏi phải có một sức mạnh đoàn
kết tự giác, có tổ chức của cả một dân tộc. Bi kịch của đất nước, của dân tộc
ta lúc này là ở chổ thiếu một giai cấp, một vĩ nhân đủ tầm, đủ sức xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân, chiến đấu chống kẻ thù xâm lược dưới ngọn cờ
của một tư tưởng tiên tiến. Hồ Chí Minh ở thời điểm đầu thế kỷ XX chưa có
đủ khả năng để lý giải thấu đáo nguyên nhân thành bại của phong trào yêu

nước chống Pháp, song bằng sự mẫn cảm chính trị đặc biệt, Người đã cảm
nhận được những hạn chế trong chủ trương tập hợp lực lượng, tìm chọn đồng
minh của các nhà yêu nước tiền bối, những nhu cầu khách quan mới của lịch
sử dân tộc. Đây chính là điểm xuất phát để Người “Muốn đi ra ngoài, xem
nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở
về giúp đồng bào ta” [32, tr.13]. Bôn ba khắp năm châu, bốn biển, tắm mình
trong những phong trào đấu tranh yêu nước và cách mạng của các dân tộc,
các nước tư bản. Người rút ra những bài học kinh nghiệm đấu tranh là không
thể thiếu sự đoàn kết chặt chẽ của những người cùng khổ thành khối sức
mạnh vững chắc.
Từ 1911 đến 1941 Hồ Chí Minh đã hầu như đi khắp hết các châu lục.
Cuộc khảo nghiệm thực tiễn rộng lớn và công phu đã giúp Người nhận thức
một sự thực: các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc
đấu tranh của họ chưa đi đến thắng lợi bởi vì các dân tộc bị áp bức chưa biết
tập hợp lại, chưa có sự liên kết chặt chẽ với giai cấp công nhân ở các nước tư
bản, đế quốc, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức.
Đến với Lênin, đến với cách mạng tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh nhận ra
nhiều yếu tố, nhiều điều kiện mới, trong đó nếu những người Bônsêvích Nga
không thực hiện đoàn kết thì không thể đánh thắng 14 đế quốc, không thắng
nổi thù trong giặc ngoài để bảo vệ nhà nước non trẻ đầu tiên vừa mới ra đời.


19

Sau thắng lợi đó của Cách mạng tháng Mười Nga, Người đã hướng suy
nghĩ của mình về nước Nga có chuyện lạ đời, biến người nô lệ thành người tự
do. Từ đó người tin theo Lênin và tin theo Quốc tế cộng sản.
Người cũng đặc biệt chú ý đến cách mạng của hai quốc gia Ấn Độ và
Trung Quốc, phong trào cách mạng của hai nước này có thể để lại cho Việt
Nam nhiều bài học bổ ích về tập hợp lực lượng. Đó là đoàn kết các dân tộc,

các giai cấp, các đảng phái, các tôn giáo… Nhằm thực hiện mục tiêu của từng
giai đoạn, từng thời kỳ đấu tranh yêu nước, cách mạng.
Những kinh nghiệm quý báu rút ra từ thành công hay thất bại của các
phong trào dân tộc dân chủ, nhất là từ thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng
Mười Nga năm 1917, đó là những cơ sở thực tiễn cho việc hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
1.2. NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TRONG TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện một
cách cụ thể, sinh động và có sức thuyết phục cao. Xuất phát từ lợi ích của Tổ
quốc, của nhân dân, Người chủ trương đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn kết
thật sự với mọi người yêu nước, những người tán thành độc lập, tự do, thống
nhất, không phân biệt tầng lớp, đảng phái, tôn giáo, dân tộc, không phân biệt
trước đây họ đã từng theo phe phái nào. Trong bức thư gửi Đại hội các dân
tộc thiểu số miền Nam tổ chức tại Plâycu ngày 19 - 4 - 1946, lúc mà toàn dân
bước vào cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp với muôn vàn
khó khăn. Người viết: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai
hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu
Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ
cùng nhau, no đói giúp nhau... Ngày nay nước Việt Nam là nước chung của
chúng ta. Trong Quốc hội có đủ đại biểu các dân tộc. Chính phủ thì có Nha


×