VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN PHÚC ĐẠT
QUYỀN CỦA NGƢỜI ĐƢỢC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Quyền con ngƣời
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS Vũ Công Giao
HÀ NỘI, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn Thạc sĩ
Luật học “Quyền của người được thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay” là hoàn
toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Trong
quá trình xây dựng Luận văn, tôi có tham khảo một số bài viết, công trình nghiên
cứu và các tài liệu liên quan của các tác giả, cơ quan nhà nước, những số liệu và
trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Các thông tin, tài liệu trình bày trong Luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc.
Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của
PGS.TS. Vũ Công Giao.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên.
Tác giả Luận văn
NGUYỄN PHÚC ĐẠT
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA NGƢỜI ĐƢỢC THI
7
HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền của người được thi hành án dân sự
7
1.2. Nội dung quyền của người được thi hành án dân sự
11
1.3. Các điều kiện bảo đảm quyền của người được thi hành án dân sự
14
1.4. Mô hình tổ chức thi hành án dân sự và quyền của người được thi hành án dân sự
17
ở một số quốc gia trên thế giới và những giá trị tham khảo cho Việt Nam
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƢỜI ĐƢỢC THI
22
HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Cơ chế bảo đảm quyền của người được thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay
22
2.2. Kết quả, hạn chế trong bảo đảm quyền của người được thi hành án dân sự ở Việt
34
Nam hiện nay và nguyên nhân
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƢỜI
53
ĐƢỢC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Quan điểm bảo đảm quyền của người được thi hành án dân sự ở Việt Nam
53
3.2. Các giải pháp bảo đảm quyền của người được thi hành án dân sự ở Việt Nam
55
KẾT LUẬN
69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
71
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TAND
Tòa án nhân dân
THADS
Thi hành án dân sự
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự (THADS) là một trong những hoạt động quan trọng của
bộ máy nhà nước nhằm đảm bảo cho các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án,
Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh được thi hành trên thực tế.
Hoạt động THADS có hiệu quả góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật;
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và lợi ích của Nhà nước, qua
đó góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả
của bộ máy nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người.
Xác định tầm quan trọng của công tác THADS, từ khi thực hiện đường lối
đổi mới đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách, pháp
luật về THADS. Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa IX (2004) nêu rõ: “Tập trung thực hiện tốt công tác thi hành án, nhất là
thi hành án dân sự, khắc phục cơ bản tình trạng tồn đọng kéo dài.” [22, tr. 11],
Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020 đã nêu: “Xây dựng Bộ
luật thi hành án điều chỉnh tất cả các lĩnh vực thi hành án; xác định Bộ Tư pháp là
cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước thống nhất công tác thi hành án; từng
bước xã hội hoá hoạt động thi hành án.” [2, tr. 4]. Đặc biệt là trong Nghị quyết số
11-NQ/TW ngày 03/6/2017 tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, lần đầu tiên
THADS được xác định là một trong các hoạt động, lĩnh vực cần tăng cường tính
độc lập, tập trung triển khai thực hiện để góp phần vào quá trình hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng XHCN [18, tr. 12].
Thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, Hội đồng Nhà nước và Ủy ban
Thường vụ Quốc hội trước đây đã ban hành các văn bản pháp luật có hiệu lực pháp
lý cao để điều chỉnh các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực này như: Pháp lệnh
THADS năm 1989, Pháp lệnh THADS năm 1993, Pháp lệnh THADS năm 2004, và
1
đặc biệt là việc Quốc hội ban hành Luật THADS năm 2008, Luật sửa đổi, bổ sung
Luật THADS năm 2014.
Bên cạnh việc kế thừa, phát triển và pháp điển hóa các quy định về THADS
còn phù hợp, trên cơ sở rà soát, nghiên cứu, khảo sát, đánh giá tình hình thực tiễn
công tác THADS và tiếp thu có chọn lọc quy định của pháp luật về THADS của
một số nước trên thế giới, Luật THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) đã
quy định thêm nhiều nội dung mới, khắc phục được một số hạn chế, tồn tại của
Pháp lệnh THADS năm 2004. So với các văn bản pháp luật THADS được ban hành
trước đó, Luật THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định đầy đủ, chi
tiết và khoa học hơn các vấn đề về THADS, nhiều quy định về thủ tục thi hành án
đã thể hiện được quan điểm cải cách tư pháp, cải cách hành chính, tháo gỡ kịp thời
một số tồn tại, vướng mắc trong công tác THADS, bảo vệ tốt hơn quyền của người
được thi hành án, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà nước theo
bản án, quyết định về dân sự của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ
việc cạnh tranh, góp phần từng bước nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án, vì
vậy đã điều chỉnh hiệu quả hơn các quan hệ phát sinh trong THADS và phù hợp với
tình hình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay. Tuy nhiên, sau gần 8 năm triển khai
thực hiện và gần 3 năm sửa đổi, bổ sung, Luật THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung
năm 2014) cũng đã bộc lộ những bất cập, đặt ra nhiều vấn đề cần được nghiên cứu,
làm rõ thêm, trong đó có quy định về quyền của người được THADS.
Từ những lý do nêu trên, Học viên lựa chọn đề tài "Quyền của người được
thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài Luận văn Thạc sĩ của mình.
Với cách tiếp cận từ góc độ quyền con người, học viên mong muốn góp phần phân
tích, đánh giá tình hình thực tiễn và kiến nghị, đề xuất những giải pháp để giải quyết
các khó khăn, vướng mắc, tồn tại, hạn chế trong hoạt động THADS hiện nay, nhằm
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được THADS ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, liên quan đến những vấn đề lớn của quyền con người đã có
nhiều công trình nghiên cứu, bài viết của các nhà khoa học tiêu biểu, cung cấp cho
2
người đọc cơ sở lý luận, pháp lý, lịch sử về quyền con người như: “Quyền con
người” do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, 2011; “Quyền
con người, tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học” do GS.TS Võ Khánh Vinh
chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, 2011; “Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm
quyền dân sự chính trị” do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Khoa học xã hội,
2011; “Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền kinh tế, văn hóa và xã
hội” do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, 2011; “Giáo trình
lý luận và pháp luật về quyền con người”, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội,
Nxb Chính trị quốc gia, 2015.
Tuy nhiên, đối với nội dung Quyền của người được THADS, đây là một nội
dung hoàn toàn mới được quy định trong Luật sửa đổi, bổ sung Luật THADS năm
2014. Trước đây, các Pháp lệnh THADS năm 1989, 1993, 2004, thậm chí Luật
THADS năm 2008 chỉ quy định là quyền yêu cầu thi hành án, khi đó, các quyền của
người được thi hành án còn mơ hồ, chưa cụ thể và nằm rải rác ở các văn bản quy
phạm pháp luật THADS. Chỉ đến khi Luật sửa đổi, bổ sung Luật THADS năm 2014
được ban hành thì quyền của người được thi hành án mới được quy định một cách
đầy đủ, cụ thể. Do đó, cho đến nay, chỉ có một số ít công trình nghiên cứu khoa học
pháp lý đề cập đến vấn đề này như:
- "Những điểm mới của Luật Thi hành án dân sự 2008", Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2010 [14];
- "Một số điểm mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành
án dân sự 2014" của Nguyễn Phương Thảo [43];
- “Cơ sở lý luận và thực tiễn khắc phục án tồn đọng trong thi hành án dân sự
ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật học năm 2015 của Nguyễn Văn
Nghĩa [26];
- “Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự”, Luận văn Thạc sĩ Luật học năm
2012 của Phan Huy Hiếu [24];
- “Thi hành án dân sự - qua thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”, Lê Quỳnh Nga - Luận
văn Thạc sĩ Luật học năm 2014 của Lê Quỳnh Nga [25].
3
Nhìn chung các công trình khoa học trên đây đã làm sáng tỏ được một số
vấn đề lý luận chung về THADS cũng như về quyền của người được THADS. Tuy
nhiên, các công trình nghiên cứu này cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ nêu mục đích,
cơ sở áp dụng và giới thiệu nội dung một số quy định mà chưa phân tích một cách
toàn diện, tổng thể về các nội dung liên quan đến quyền của người được THADS.
Tuy vậy, đây vẫn là những tài liệu quan trọng được tác giả tham khảo khi thực hiện
nghiên cứu đề tài Luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là trên cơ sở phân tích, làm rõ những vấn
đề về lý luận và thực tiễn pháp luật về THADS, nhận diện được những hạn chế, bất
cập của pháp luật và các tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện pháp luật về
về quyền của người được THADS. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm
bảo đảm quyền của người được THADS ở nước ta trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu như vậy, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định trên
những khía cạnh sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền của người được THADS, như
khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở quyền của người được THADS.
- Phân tích, đánh giá những quy định của Luật THADS về quyền của người
được THADS và tình hình thực hiện các biện pháp bảo đảm quyền của người được
THADS trong thực tiễn hiện nay.
- Xác định và luận giải một số giải pháp nhằm hoàn thiện và thực hiện pháp
luật về biện pháp bảo đảm quyền của người được THADS.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp lý và thực trạng quyền của
người được THADS ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4
Nội dung nghiên cứu đề tài bao gồm nhiều vấn đề khác nhau. Tuy nhiên, do
giới hạn của một Luận văn Thạc sĩ, việc nghiên cứu chỉ tập trung vào những vấn đề
cơ bản nhất thuộc nội dung đề tài như khái niệm, đặc điểm, nội dung và ý nghĩa
quyền của người được THADS; cơ sở của việc pháp luật quy định quyền của người
được THADS; nội dung các quy định của Luật THADS về quyền của người được
THADS và thực tiễn thực hiện chúng trong khoảng 5 năm vừa qua.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm của Đảng, Nhà nước và tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Trong quá trình nghiên cứu, học viên sử dụng phương pháp tiếp cận dựa trên
quyền - phương pháp đặc thù khi nghiên cứu về quyền con người được sử dụng tại
Chương 1 để làm rõ các vấn đề lý luận về quyền của người được thi hành án dân sự,
đặc biệt là trong mối quan hệ giữa chủ thể của quyền và chủ thể có nghĩa vụ, trách
nhiệm thực hiện, bảo vệ quyền này. Bên cạnh đó, học viên cũng sử dụng các
phương pháp nghiên cứu truyền thống của khoa học xã hội như phương pháp tổng
hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, phương
pháp diễn dịch và phương pháp quy nạp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu tương đối toàn diện, có tính hệ
thống về những vấn đề liên quan đến quyền của người được THADS. Vì vậy, về
mặt lý luận, Luận văn bổ sung, làm rõ hơn cơ sở khoa học của việc ghi nhận, bảo
vệ, bảo đảm quyền của người THADS bằng pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu trong Luận văn là tài liệu tham khảo về
quyền của người được THADS trong các cơ sở nghiên cứu, cơ sở giáo dục và đào
tạo về quyền con người. Bên cạnh đó, các kết quả nghiên cứu trong Luận văn cũng
có thể trở thành tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan, tổ chức trong quá trình
nghiên cứu, tham mưu xây dựng chính sách, pháp luật về THADS.
5
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền của người được thi hành án dân
sự ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền của người được thi hành án dân sự ở
Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm quyền của người được thi hành án
dân sự ở Việt Nam hiện nay.
6
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA NGƢỜI
ĐƢỢC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền của ngƣời đƣợc thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự và
quyền của người được thi hành án dân sự
Theo quy định tại Điều 1 và 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi bổ
sung năm 2014), THADS là hoạt động của nhiều tổ chức và cá nhân, bao gồm cả cơ
quan THADS trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án,
Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Trọng tài thương mại.
Các bản án, quyết định được THADS bao gồm: bản án, quyết định về dân sự,
hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật
chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần
tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định của Tòa án giải
quyết phá sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành và phán quyết, quyết định của
Trọng tài thương mại hoặc những bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm được
thi hành án ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị [38].
Hoạt động THADS được thực hiện theo nguyên tắc và trình tự, thủ tục theo
quy định của Luật THADS, các văn bản hướng dẫn thi hành và các văn bản quy
phạm phát luật có liên quan.
Khoản 2 Điều 3 Luật THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy
định: “Người được thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng quyền, lợi
ích trong bản án, quyết định được thi hành” [38].
Thực tế hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về thời điểm phát sinh khái
niệm người được thi hành án, cụ thể:
Thứ nhất, khái niệm người được thi hành án phát sinh tại thời điểm cơ quan
THADS thụ lý yêu cầu thi hành án [41]. Yêu cầu thi hành án làm phát sinh quá
trình tổ chức thi hành án, đồng thời cũng làm phát sinh quyền, nghĩa vụ thi hành án
7
của các đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đặc biệt là quyền, lợi ích
của người được thi hành án theo nội dung bản án, quyết định của Tòa án (trừ trường
hợp chủ động tổ chức thi hành án). Do vậy, khái niệm người được thi hành án cũng
phát sinh từ thời điểm đó.
Thứ hai, khái niệm người được thi hành án phát sinh sau thời điểm hết thời
gian tự nguyện thi hành án [41]. Theo quan điểm này, khái niệm người được thi
hành án chỉ phát sinh sau thời gian người phải thi hành án tự nguyện thi hành, trừ
trường hợp có việc tẩu tán tài sản như quy định tại khoản 2 Điều 45 Luật thi hành
án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) [38]. Trước và trong thời gian tự
nguyện thi hành án, cá nhân, tổ chức có quyền, lợi ích theo bản án, quyết định phải
thi hành án chưa có quyền yêu cầu thực hiện bản án, quyết định đó.
Thứ ba, khái niệm người được thi hành án phát sinh từ rất sớm, tại thời điểm
bản án, quyết định có hiệu lực thi hành hoặc chưa có hiệu lực thi hành nhưng thuộc
trường hợp phải thi hành ngay [41]. Quan điểm này cho rằng, dù cá nhân, tổ chức
có quyền, lợi ích tự đôn đốc thi hành hay cơ quan có thẩm quyền đôn đốc thi hành
án; dù bản án được thi hành thông qua thủ tục tự nguyện hay không tự nguyện thi
hành án. Trong các vụ án dân sự, lao động, hôn nhân và gia đình có các tên gọi như
nguyên đơn, bị đơn; trong án hình sự có các tên gọi như bị can, bị cáo, người bị
hại… Dù tên gọi khác nhau nhưng sau khi bản án, quyết định được đưa ra thi hành
thì cơ quan, tổ chức, cá nhân được hưởng quyền lợi được gọi là bên được thi hành
án và ngược lại, cá nhân, tổ chức có nghĩa vụ, trách nhiệm phải thi hành được gọi là
bên phải thi hành án.
Quan điểm này còn trích dẫn Điều 49 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày
18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật THADS, quy định về thanh toán, chi, trả tiền, tài sản thi hành án: “Trường hợp
bản án, quyết định đang do cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành xác định
nhiều người được thi hành án nhưng chỉ một hoặc một số người yêu cầu thi hành án
mà tài sản của người phải thi hành án không đủ để thi hành nghĩa vụ tài sản theo
bản án, quyết định thì cơ quan thi hành án dân sự thanh toán cho người đã yêu cầu
8
thi hành án theo tỷ lệ mà họ được nhận, số tiền còn lại gửi vào ngân hàng theo loại
tiền gửi kỳ hạn 01 tháng, đồng thời thông báo và ấn định thời hạn không quá 01
tháng cho những người được thi hành án chưa yêu cầu về quyền yêu cầu thi hành
án, trừ trường hợp đã hết thời hiệu” [10]. Như vậy, theo quy định này thì khái niệm
người được thi hành án phát sinh ngay cả khi cá nhân, tổ chức được hưởng quyền,
lợi ích theo bản án, quyết định chưa yêu cầu thi hành án.
Người được thi hành án được đề cập nhiều trong Bộ luật dân sự năm 2015,
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Luật THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm
2014). Tuy nhiên, thời điểm phát sinh khái niệm người được thi hành án có quan
điểm khác nhau, mỗi quan điểm đều có lý lẽ riêng. Học viên đồng tình với quan thứ
ba, theo đó, khái niệm người được thi hành án phát sinh từ khi có bản án, quyết định
có hiệu lực thi hành án hoặc chưa có hiệu lực nhưng được cho thi hành án ngay, bởi
sau khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực hoặc chưa có hiệu lực nhưng
được cho thi hành án thì quyền, lợi ích của một bên đã được xác định cụ thể, đồng
thời xác lập nghĩa vụ, trách nhiệm đối với bên kia gọi là bên được thi hành án.
Người được THADS là một chủ thể của quyền con người, vì thế quyền của
người được THADS cũng là quyền con người. Ở những giai đoạn khác nhau trước
và trong quá trình tổ chức thi hành án, người được THADS cũng có những tâm lý,
nhu cầu, yêu cầu khác nhau, do vậy, ở mỗi giai đoạn, cần đáp ứng những yếu tố,
điều kiện thích hợp, đảm bảo để người được THADS có thể thụ hưởng các quyền,
lợi ích hợp pháp của mình một cách đầy đủ và toàn diện nhất.
Như vậy, có thể hiểu quyền của người được THADS là khả năng mà người
được THADS có thể khôi phục, thụ hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp của mình
đầy đủ và toàn diện nhất, bao gồm cả những quyền, lợi ích hợp pháp được tuyên
trong bản án, quyết định của Tòa án và cả những quyền trong quá trình tổ chức thi
hành án.
1.1.2. Đặc điểm quyền của người được thi hành án dân sự
Cũng như bất kỳ một quyền con người nào khác, quyền của người được
THADS có một số đặc điểm cơ bản thể hiện ở các thuộc tính của nó, cụ thể:
9
- Tính phổ biến: được thể hiện ở chỗ quyền của người được THADS là
những gì vốn có của người được THADS và được áp dụng bình đẳng cho tất cả
người được THADS mà không phân biệt đối xử vì bất kỳ lý do gì như: chủng tộc,
dân tộc, giới tính, tôn giáo, thành phần xuất thân,… [23, tr.27].
- Tính không thể tước bỏ: quyền của người được THADS cũng là quyền con
người, đã là quyền con người thì không thể bị tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện
bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước, trừ một số trường
hợp được pháp luật quy định [23, tr.28].
- Tính không thể phân chia: Các quyền của người được THADS đều quan
trọng như nhau, về nguyên tắc không có quyền nào được coi là có giá trị hơn quyền
nào. Tuy nhiên, trên thực tế, tùy từng bối cảnh, giai đoạn cụ thể có thể ưu tiên thực
hiện hoặc được chú ý bảo vệ một số quyền nhất định [23, tr.28].
- Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau: các quyền của người được THADS
không tồn tại biệt lập mà tồn tại trong mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau.
Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc
bảo đảm các quyền khác. Ngược lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực
tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác [23, tr.28].
- Thuộc về những giá trị xã hội biểu hiện cho một nền tư pháp (hiểu theo
nghĩa rộng) trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng
bước hiện đại, phục vụ nhân dân.
- Là giá trị xã hội đặt ra nghĩa vụ đối với tất cả mọi người phải tôn trọng bởi
họ có thể vi phạm.
- Là giá trị xã hội được ghi nhận và bảo vệ bằng Hiến pháp, pháp luật.
Bên cạnh các đặc điểm cơ bản trên, quyền của người được THADS còn có
các đặc điểm sau:
- Chủ thể được bảo vệ quyền là người được THADS, đó là cá nhân, tổ chức
được hưởng quyền, lợi ích trong bản án, quyết định về dân sự của Tòa án, Trọng tài
thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh được thi hành.
10
- Đối tượng được bảo vệ là các quyền của người được THADS: quyền tài
sản, quyền nhân thân, quyền tiếp cận thông tin, quyền khiếu nại, tố cáo, quyền được
bồi thường, quyền được chuyển giao quyền,...
- Mục đích bảo vệ là để khôi phục, thụ hưởng quyền, lợi ích chính đáng, hợp
pháp được tuyên trong bản án, quyết định của Tòa án và cả những quyền trong quá
trình tổ chức thi hành án.
1.2. Nội dung quyền của ngƣời đƣợc thi hành án dân sự
Các quyền của người được THADS có ý nghĩa quan trọng đối với người
được THADS, bởi lẽ, trong quan hệ dân sự trước đó, họ đã là chủ thể bị xâm phạm
quyền. Khi thực hiện quyền khởi kiện dân sự mục đích cuối cùng của họ cũng chỉ là
để đòi lại quyền, lợi ích chính đáng mà mình được hưởng. Tuy nhiên, không phải
trường hợp nào bên thua kiện (trở thành bên người phải thi hành án) cũng ngay lập
tức thi hành bản án, quyết định của Tòa án một cách tự nguyện và nhanh chóng
đúng trong thời hạn được ấn định. Có không ít trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức
có những hành vi can thiệp, cản trở, gây trở ngại hoạt động thi hành án, làm trái
pháp luật trong thi hành án… Đây được coi là các hành vi vi phạm trong hoạt động
THADS, được hiểu chung nhất là hành vi của cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện
với lỗi cố ý, vi phạm các quy định của pháp luật THADS và cản trở, gây trở ngại
cho hoạt động THADS, gián tiếp gây trở ngại cho việc tiếp cận các quyền của người
được THADS. Hay nói một cách khác, quyền của người được THADS là khả năng
mà người được THADS có thể khôi phục, thụ hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp
của mình đầy đủ và toàn diện nhất, bao gồm cả những quyền, lợi ích hợp pháp
được tuyên trong bản án, quyết định của Tòa án và cả những quyền trong quá trình
tổ chức thi hành án.
Mặc dù, trong quá trình tổ chức thi hành án, hoạt động THADS có lúc, có
nơi, có vụ việc cũng còn tình trạng xâm phạm đến quyền của người phải thi hành
án. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài nghiên cứu, Học viên chỉ tập trung vào phân
tích quyền của người được thi hành án, theo đó, áp dụng phương pháp tiếp cận dựa
trên quyền, có thể chia quyền của người được THADS thành hai nhóm:
11
- Thứ nhất, quyền, lợi ích hợp pháp đối với những nội dung mà bản án, quyết
định của Tòa án đã tuyên có hiệu lực pháp luật, theo đó bao gồm: quyền nhân thân,
quyền tài sản,...
Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể
chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác
[33, Điều 24]. Bên cạnh đó, từ Điều 26 đến Điều 39 Bộ luật dân sự năm 2015 đã
quy định các quyền nhân thân, cụ thể: quyền có họ, tên; quyền thay đổi họ, tên;
quyền xác định, xác định lại dân tộc; quyền được khai sinh, khai tử; quyền có quốc
tịch; quyền đối với hình ảnh cá nhân; quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn về
tính mạng, sức khỏe, thân thể; quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín;
quyền hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác; quyền xác định lại giới
tính, chuyển đổi giới tính; quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia
đình; quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình. Trong các Điều Luật này cũng
quy định thêm rất nhiều quyền nhân thân, ví dụ như: Điều 39 Bộ luật dân sự quy
định Quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình, cụ thể: (1) Cá nhân có quyền kết
hôn, ly hôn, quyền bình đẳng của vợ chồng, quyền xác định cha, mẹ, con, quyền
được nhận làm con nuôi, quyền nuôi con nuôi và các quyền nhân thân khác trong
quan hệ hôn nhân, quan hệ cha mẹ và con và quan hệ giữa các thành viên gia đình.
Con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha, mẹ đều có quyền và
nghĩa vụ như nhau đối với cha, mẹ của mình. (2) Cá nhân thực hiện quyền nhân
thân trong hôn nhân và gia đình theo quy định của Bộ luật này, Luật hôn nhân và
gia đình và luật khác có liên quan [33, Điều 39].
Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với
đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác [33,
Điều 115]. Như vậy, một mặt, quyền tài sản là tài sản; mặt khác, một quyền tài sản
phải bao gồm hai yếu tố: trị giá được bằng tiền và chuyển giao được trong giao lưu
dân sự. Bên cạnh đó, các quyền không thể được chuyển nhượng trong giao lưu dân
sự, do gắn liền với nhân thân của người có quyền, dù trị giá được bằng tiền (như
12
quyền được cấp dưỡng, quyền hưởng trợ cấp hưu trí,…) là quyền nhân thân gắn liền
với tài sản.
Đây là nhóm quyền đã bị xâm phạm trước khi có bản án, quyết định của Tòa án
hoặc phát sinh trong quá trình Tòa án giải quyết, xét xử. Tựu chung lại là hoạt động
THADS nhằm mục đích khôi phục, bảo vệ nhóm quyền này của người được THADS.
- Thứ hai, quyền, lợi ích hợp pháp trong quá trình tổ chức thi hành bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, theo đó bao gồm: quyền tiếp cận
thông tin, quyền về tài sản, quyền khiếu nại, tố cáo, quyền được bồi thường trong
hoạt động THADS,…
Các quyền chính trị bao gồm công lý trung lập trong pháp luật, chẳng hạn
như quyền lợi của người được THADS, trong đó có quyền được tổ chức thi hành án
công bằng; pháp luật đúng thủ tục và quy trình; quyền khiếu nại, tố cáo; quyền đòi
bồi thường hoặc khắc phục thiệt hại xuất phát từ lỗi của Chấp hành viên, cơ quan
THADS hoặc các cá nhân, tổ chức có liên quan;...Đây là nhóm quyền phát sinh
trong quá trình tổ chức thực hiện theo phán quyết của Tòa án, hay còn gọi là hoạt
động THADS.
Khiếu nại, tố cáo là một trong các quyền chính trị cơ bản của công dân, được
ghi nhận trong văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao như Hiến pháp, luật. Điều 30
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan,
tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ
chức, cá nhân”.
Luật THADS cũng quy định: Cơ quan, tổ chức và cá nhân vi phạm quy định
của Luật này mà gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật [38,
Điều 10]. Bên cạnh đó, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 quy
định rõ về Phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động THADS [30, Điều 38],
về Cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong hoạt động THADS [30, khoản 2 Điều
40]. Theo đó, xuất phát từ sai phạm của công chức, Chấp hành viên cơ quan THADS
mà nhiều trường hợp, quyền của người được THADS đã bị xâm phạm.
13
Quyền khiếu nại, tố cáo và quyền được bồi thường trong hoạt động THADS là
một trong số các phương thức để đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
(nhân dân) thực hiện quyền kiểm tra, giám sát và thực hiện quyền làm chủ của mình,
hướng tới bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, đặc biệt là khôi phục
quyền của người được THADS trước và trong quá trình tổ chức THADS, bảo đảm
pháp luật được thực thi nghiêm minh nhằm bảo vệ, bảo đảm quyền con người.
1.3. Các điều kiện bảo đảm quyền của ngƣời đƣợc thi hành án dân sự
Quyền con người là một khái niệm phức tạp, liên quan tới nhiều lĩnh vực như
đạo đức, chính trị, pháp lý…, phụ thuộc vào tổng thể của rất nhiều điều kiện khác
nhau. Các điều kiện để thực hiện quyền con người bao gồm như điều kiện chính trị,
điều kiện pháp lý, điều kiện kinh tế, điều kiện văn hóa, xã hội,… Đối với quyền của
người được THADS, đây là một phạm trù thuộc về quyền con người, do đó cũng
chịu ảnh hưởng bởi những điều kiện nêu trên, cụ thể:
1.3.1. Điều kiện chính trị
Điều kiện chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng trong mối quan hệ với
quyền của người được THADS nói riêng, cũng như quyền con người nói chung.
Chính trị và quyền con người là những yếu tố thuộc về phạm trù kiến trúc thượng
tầng và có mối quan hệ đồng đẳng, qua lại với nhau. Có thể thấy tính chất của chính
trị, văn hóa chính trị, đường lối, chủ trương, chính sách của đảng cầm quyền ảnh
hưởng rất lớn, có tính chất quyết định đối với sự phát triển quyền con người. Vì
vậy, suy cho đến cùng, nói đến chính trị là nói tới nhận thức về con người, thái độ
với con người.
Như đã nêu ở trên, quyền con người và chính trị là những yếu tố thuộc về
phạm trù kiến trúc thượng tầng và có mối quan hệ đồng đẳng, qua lại với nhau. Một
chế độ chính trị tiến bộ, dân chủ thường có mục tiêu vì con người, lấy con người
làm trung tâm để xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm tạo
mọi điều kiện tốt nhất bảo vệ và thúc đẩy việc thực hiện quyền con người, trong đó
có quyền của người được THADS.
14
Mặt khác, tham gia vào quá trình thúc đẩy dân chủ, quyền con người còn
phải kể đến các tổ chức, đoàn thể xã hội, giới truyền thông và toàn dân thông qua
vai trò giám sát, phản biện xã hội của các thiết chế này.
Từ nghĩa đó, việc thực hiện quyền con người nói chung, quyền của người
được THADS nói riêng không chỉ là trách nhiệm của nhà nước mà là trách nhiệm
của cả hệ thống chính trị.
1.3.2. Điều kiện pháp lý
Pháp luật đóng vai trò quan trọng hàng đầu, là cơ sở để quyền con người,
trong đó có quyền của người được THADS được ghi nhận, bảo vệ và bảo đảm sự
trên thực tế. Pháp luật và nhà nước, hai thành tố của thượng tầng chính trị - pháp lý,
luôn có mối quan hệ khăng khít, không thể tách rời nhau. Pháp luật ra đời cùng với
nhà nước, pháp luật là công cụ sắc bén để bảo vệ quyền con người, thể hiện ở các
quy định về quyền con người trong pháp luật và được bảo vệ, bảo đảm thực hiện
bằng bộ máy nhà nước. Một nhà nước “của dân, do dân và vì dân” thì pháp luật
cũng chính là ý chí, nguyện vọng của người dân. Người dân lập nên nhà nước, xây
dựng pháp luật cũng chính là để bảo vệ quyền của mình.
Pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, cùng với bộ máy
cưỡng chế, pháp luật sẽ có sức mạnh của quyền lực nhà nước và có thể tác động đến
tất cả mọi người [40, tr. 141]. Pháp luật là phương tiện để cụ thể hóa, chính thức hóa
và công khai hóa các giá trị xã hội của quyền con người; nếu không được ghi nhận,
bảo đảm bằng pháp luật thì quyền con người không có cơ sở pháp lý để thực hiện, khi
đó quyền con người chưa trở thành quyền thực sự. Và ngược lại, khi được luật hóa,
các quyền đó sẽ mang tính chất bắt buộc và được xã hội công nhận, bảo vệ.
Bên cạnh đó, pháp luật là tiền đề, nền tảng tạo cơ sở pháp lý để con người
đấu tranh bảo vệ quyền của mình. Quyền của người được THADS có thể bị “xâm
phạm lần thứ hai” bởi các chủ thể khác trong xã hội, đặc biệt là cơ quan nhà nước,
công chức nhà nước khi thực thi công vụ, bởi hoạt động của hệ thống cơ quan hành
chính nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật có nguy cơ xâm hại đến các quyền
con người rất cao. Chỉ có pháp luật, bằng các quy phạm pháp luật quy định chặt chẽ
15
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức,
cơ quan nhà nước mới tạo nên cơ sở pháp lý vững chắc để người được THADS đấu
tranh chống lại các hành vi xâm hại, bảo vệ quyền của mình.
Mặt khác, tầm quan trọng của pháp luật trong việc thực hiện và bảo vệ quyền
con người còn thể hiện trong mối quan hệ giữa pháp luật và các điều kiện bảo đảm
khác (chính trị, kinh tế, văn hóa,…) các điều kiện trên đều phải thông qua pháp luật,
thể hiện dưới hình thức pháp luật mới trở thành giá trị xã hội ổn định, được hiện
thực hóa trên quy mô toàn xã hội. Chỉ có như vậy thì các điều kiện đó mới phát huy
được vai trò của mình trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, quyền của
người được THADS.
1.3.3. Điều kiện kinh tế
Phát triển kinh tế là một trong những điều kiện không thể thiếu để đảm bảo
thực hiện quyền của người được THADS trên thực tế. Trình độ phát triển của nền
kinh tế bộc lộ qua các chỉ số đánh giá mức độ tăng trưởng, mức độ thu hẹp sự chênh
lệch giàu nghèo, mức độ ổn định của chu kỳ tăng trưởng, mức độ an toàn của môi
trường kinh tế đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững, mức độ kết hợp phát triển kinh
tế với đảm bảo an sinh xã hội… Các yêu cầu này càng đạt được ở trình độ cao thì
càng tạo ra cơ sở vật chất thuận lợi cho việc bảo đảm thực thi quyền con người trên
thực tế [39, tr. 107].
Thực tế minh chứng, nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi, kinh tế xã hội phát
triển, việc vận động đương sự tự nguyện thi hành án cũng rất thuận lợi. Còn nếu
điều kiện tự nhiên khó khăn, kinh tế kém phát triển dẫn tới việc ý thức chấp hành
pháp luật của một bộ phận người dân bị hạn chế và rất khó vận động trong việc tự
nguyện thi hành án.
1.3.4. Điều kiện văn hóa
Phát triển văn hóa giáo dục, nâng cao dân trí bảo đảm cho con người được
phát triển tự do và toàn diện, tạo điều kiện cho mọi người được độc lập, nghiên cứu
nâng cao nhận thức về mọi mặt, trong đó có văn hóa nhân quyền. Văn hóa là mục
tiêu của sự phát triển, văn hóa do con người sáng tạo ra, chi phối toàn bộ hoạt động
16
của con người và bao trùm tất cả các phương diện của đời sống như pháp luật, kinh
tế, quyền con người,... Văn hóa là hoạt động sản xuất nhằm cung cấp năng lượng
tinh thần cho con người, làm cho con người ngày càng hoàn thiện.
Quyền con người là giá trị chung của toàn nhân loại, nhưng văn hóa thì lại là
bản sắc của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, do vậy mà ít nhiều văn hóa cũng ảnh hưởng
tới nhận thức và thực hiện quyền con người. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc
thực thi quyền con người thì điều kiện văn hóa phải ngày càng phát triển và thay đổi
theo hướng tích cực. Phải hạn chế những tác động tiêu cực của văn hóa, biến đổi nó
theo chiều hướng tích cực bằng cách loại bỏ đi những giá trị đã lạc hậu, không phù
hợp và đưa vào nó những giá trị mới, phù hợp hơn. Cùng với đó, phải phát huy các
tác động tích cực của văn hóa và làm cho nó trở nên phù hợp với các mục tiêu vì
con người, với việc bảo đảm quyền con người.
1.4. Mô hình tổ chức thi hành án dân sự và quyền của ngƣời đƣợc thi
hành án dân sự ở một số quốc gia trên thế giới và những giá trị tham khảo cho
Việt Nam
Hiện nay trên thế giới, tùy theo thể chế chính trị, đặc điểm truyền thống, môi
trường pháp lý, điều kiện kinh tế - xã hội ở từng nước mà tổ chức THADS có thể
được thể hiện dưới hình thức là một tổ chức công hoặc do tư nhân đảm nhiệm.
Trong phạm vi nghiên cứu đề tại, Học viên chỉ xin trình bày mô hình tổ chức
THADS ở một số quốc gia trên thế giới để từ đó thấy được sự khác biệt về mô hình
tổ chức THADS sẽ có tác động như thế nào đến quyền của người được THADS.
1.4.1. Indonesia
Luật Indonesia không quy định bất kỳ cơ quan thi hành án cụ thể hoặc riêng
biệt nào. Việc thi hành các quyết định của Tòa án thuộc trách nhiệm của Tòa án
trong các vụ án dân sự. Indonesia có hai Bộ luật Tố tụng dân sự - Herziene
Indonesisch Reglement (HIR, áp dụng ở Java và Madura) và Reglement
Buitengewesten (RBg, có hiệu lực trong phần còn lại của Indonesia).
THADS ở Indonesia được thực hiện bởi Thẩm phán, Thẩm phán được sử
dụng sức mạnh cưỡng chế của bộ máy nhà nước để thi hành bản án. Nếu người phải
17
thi hành án không có hoặc không đủ tài sản để thi hành, thì theo yêu cầu của người
được THADS, Chánh án Toà án cấp quận, huyện có thể trao lệnh cho Thừa phát lại
để bắt người phải thi hành án để tạm giam. Người bị bắt có thể bị giam giữ trong
thời hạn 03 năm [27].
Như vậy có thể thấy, bên cạnh những quyền về tài sản, quyền nhân thân,
người được THADS ở Indonesia còn có quyền yêu cầu cơ quan, người có thẩm
quyền bắt giữ người phải THADS trong trường hợp người phải THADS không thực
hiện hết nghĩa vụ theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
1.4.2. Singapore
Việc tổ chức THADS ở Singapore do Tòa án đảm nhiệm. Hệ thống tổ chức
Tòa án ở Singapore gồm Tòa án tối cao và Tòa cấp dưới. Ở Tòa án tối cao và Tòa
cấp dưới có bộ phận thi hành án.
Nhân viên thi hành án vừa có nhiệm vụ thi hành án, vừa có nhiệm vụ tống
đạt giấy tờ, thực hiện các lệnh bắt giữ. Nhân viên thi hành án của Tòa án nào thì thi
hành bản án của Tòa án đó. Nhân viên thi hành án của Toà cấp dưới không có
quyền bắt giữ tàu biển và thi hành các bản án mà giá trị lên đến 250.000 đô la
Singapore; những bản án loại này do nhân viên thi hành án Toà tối cao thi hành.
Về thủ tục thi hành án dân sự: Khi có bản án, người được thi hành đến gặp
người phải thi hành để xem xét khả năng thi hành của họ và yêu cầu họ phải thi
hành. Nếu người phải thi hành án không thi hành, người được thi hành án muốn
được thi hành phải có đơn yêu cầu thi hành án gửi Toà án. Bên cạnh đó, người được
thi hành án hoặc người đại diện theo pháp luật phải trực tiếp chỉ cho nhân viên thi
hành án những tài sản mà người phải thi hành án phải trả cho người được thi hành
án, hoặc trong trường hợp thi hành các bản án về trả tiền thì chỉ cho nhân viên thi
hành án những tài sản của người phải thi hành án để nhân viên thi hành án kiểm kê,
dán niêm phong hoặc chuyển giao tài sản cho người khác giữ. Các chi phí cưỡng
chế thi hành án thì người phải thi hành án phải chịu, trường hợp tài sản của người
phải thi hành án không đủ thì có thể do người được thi hành án chịu [19].
18
Qua đó có thể thấy, ở Singapore, muốn bảo đảm quyền của mình, người
được THADS phải thực hiện rất nhiều trình tự, thủ tục như: gặp người phải thi
thành án để xem xét khả năng thi hành của họ, phải chủ động xác minh tài sản của
người phải thi hành án và cung cấp thông tin cho nhân viên thi hành án, thậm chí có
trường hợp phải chịu chi phí cưỡng chế,…
1.4.3. Trung Quốc
Hiện nay, cả THADS và THAHS ở Trung Quốc đều do Bộ Tư pháp thống
nhất quản lý. Theo GS-TS. Cheng Chunming – Đại học Luật và Khoa học Chính trị
Trung Quốc, ĐH Mont Pellier I thì công tác THADS ở Trung Quốc đang ở trong
tình trạng báo động, 75% bản án, quyết định hiện vẫn còn chưa được thi hành [27].
Để có một bản án, quyết định phải qua nhiều thủ tục phức tạp và mất thời gian; hiệu
quả pháp chế của bản án, quyết định của Toà án không thực sự được bảo đảm. Điều
này do nhiều nguyên nhân khác nhau như: chưa có sự tách biệt rõ ràng giữa cơ quan
xét xử với cơ quan thi hành án, tức là việc THADS vẫn do Toà án thực hiện, chồng
chéo về thẩm quyền,…
1.4.4. Pháp
Tại Pháp, THADS và THAHS đều do Bộ Tư pháp thống nhất quản lý. Tuy
nhiên, việc thi hành các bản án, quyết định về dân sự do các văn phòng Thừa phát
lại thực hiện mà trực tiếp là các Thừa phát lại và Thừa phát lại do Bộ trưởng Bộ Tư
pháp bổ nhiệm. Thừa phát lại được thiết lập ở 3 cấp: Hội đồng Thừa phát lại cấp
tỉnh, cấp vùng và cấp quốc gia. Các văn phòng Thừa phát lại được tổ chức và hoạt
động theo mô hình của các công ty thương mại. Tư cách Thừa phát lại rất linh hoạt,
họ vừa là viên chức tư pháp, viên chức công quyền, bổ trợ viên tư pháp vừa là một
nghề tự do, hoạt động với tư cách độc lập. Nguồn kinh phí hoạt động của các văn
phòng Thừa phát lại từ thù lao do các bên yêu cầu thi hành án trả mà Nhà nước
không phải mất một khoản tài chính nào chi trả lương cho họ. Mặc dù nằm ngoài bộ
máy nhà nước nhưng điểm đáng lưu ý đó là Thừa phát lại là lực lượng duy nhất ở
Pháp có quyền yêu cầu hỗ trợ của các lực lượng vũ trang công quyền trong trường
hợp cần thiết.
19
Qua đó có thể thấy, THADS tại Pháp là một ngành, nghề kinh doanh, người
được THADS tại Pháp có thể linh hoạt lựa chọn văn phòng Thừa phát lại nào mà họ
cho rằng sẽ bảo đảm quyền được THADS cho họ tốt nhất.
Từ những nghiên cứu, phân tích mô hình tổ chức thi hành án của một số
quốc gia nêu trên, học viên xin đưa ra một số kinh nghiệm mà Việt nam có thể tham
khảo, áp dụng:
Thứ nhất, phải từng bước chuyển giao cho một cơ quan thống nhất quản lý
công tác thi hành án (bao gồm THAHS, THADS, THAHC). Điều này tạo thuận lợi
hơn trong việc quá trình tổ chức THADS (xác minh điều kiện thi hành án, cưỡng
chế tài sản bảo đảm thi hành án, thi hành phần dân sự, tiền, tài sản, bảo vệ vật
chứng trong bản án, quyết định hình sự,...), đặc biệt là trong những vụ án tham
nhũng lớn, thay vì cần phải có sự phối hợp giữa nhiều cơ quan, đơn vị như hiện nay.
Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh việc xã hội hóa hoạt động THADS. Điều này tạo
điều kiện cho người dân, xã hội tham gia vào hoạt động tư pháp, người được
THADS có thêm sự lựa chọn đối với một số loại hình dịch vụ THADS thông
thường như tống đạt giấy tờ, xác minh tài sản, địa chỉ của người phải thi hành án…,
tạo điều kiện để bảo đảm quyền của người được THADS đúng pháp luật, nhanh
hơn, hiệu quả hơn. Ngoài ra, việc phải cạnh tranh với các “tổ chức thi hành án tư”
sẽ làm tăng chất lượng dịch vụ, các cơ quan thi hành án của Nhà nước sẽ có động
lực đổi mới phong cách, lề lối làm việc, khắc phục quan liêu, sách nhiễu, tiêu cực
trong thi hành án, từ đó giúp bảo đảm hiệu quả hơn quyền của người được THADS.
Tựu chung lại, dù là mô hình tổ chức THADS công hay THADS tư, dù cơ
quan THADS nằm trong Tòa án, Bộ Tư pháp hay do cả hai cùng quản lý thì cũng
đều có mục đích bảo vệ và bảo đảm quyền của người được THADS. Do những yếu
tố như chính trị, pháp lý, kinh tế, truyền thống văn hóa - xã hội,… mà quyền của
người được THADS có đôi chút khác nhau. Tuy nhiên, mô hình tổ chức THADS
nào cũng đều có những ưu, nhược điểm nhất định, nếu biết tiếp thu có chọn lọc
những kinh nghiệm, mô hình của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu
20
cầu chủ động hội nhập quốc tế, đáp ứng được xu thế phát triển của xã hội trong
tương lai, học viên tin rằng công tác THADS ở Việt Nam sẽ ngày một hiệu quả,
quyền của người được THADS sẽ được tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm một cách thực
chất và bền vững.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Trong hoạt động tư pháp, để bảo đảm hiệu lực các bản án, quyết định của
Tòa án là một yêu cầu khách quan, là nguyên tắc hiến định chỉ đạo toàn bộ tổ chức,
hoạt động thi hành án nói chung và hoạt động THADS nói riêng. Do vậy, THADS
là hoạt động của Nhà nước để đưa các bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực
của Tòa án, các cơ quan có thẩm quyền khác được tôn trọng và thực hiện trên thực
tế, nhằm bảo đảm quyền của người được THADS. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và
tổng kết thực tiễn công tác trong ngành THADS, Học viên bước đầu đưa ra khái
niệm về quyền của người được THADS, đặc điểm, nội dung quyền của người được
THADS cùng với lịch sử hình thành và phát triển quyền của người được THADS
qua các thời kỳ từ sau Cách mạng tháng Tám cho đến nay. Tiếp đó là một số điều
kiện ảnh hưởng tới quyền con người nói chung, quyền của người được THADS nói
riêng. Sau cùng là mô hình tổ chức THADS và quyền của người được THADS ở
một số nước trên thế giới Đó là toàn bộ nội dung của Chương 1 - Một số vấn đề lý
luận về quyền của người được THADS ở Việt Nam hiện nay, trên nền tảng lý luận
đó, Học viên sẽ vận dụng vào thực tiễn và đánh giá thực trạng bảo dảm quyền của
người được THADS ở Việt nam hiện nay trong phần tiếp theo của Luận văn.
21