Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Quyền của người được thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.02 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN PHÚC ĐẠT

QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐƯỢC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Quyền con người

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã
hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học:

PGS. TS Vũ Công Giao

Phản biện 1: Hoàng Văn Tú
Phản biện 2: Vũ Thư

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận
thạc sĩ họp tại: Học viện Khoa học xã hội 10 giờ 50 phút
ngày 08 tháng 08 năm 2015

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa


học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự (THADS) là một trong những hoạt động
quan trọng của bộ máy nhà nước nhằm đảm bảo cho các bản án,
quyết định về dân sự của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử
lý vụ việc cạnh tranh được thi hành trên thực tế. Hoạt động THADS
có hiệu quả góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật; bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và lợi ích của Nhà
nước, qua đó góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự xã hội, tăng
cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước trong việc tôn trọng,
bảo vệ và bảo đảm quyền con người.
Xác định tầm quan trọng của công tác THADS, từ khi thực
hiện đường lối đổi mới đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều
chủ trương, chính sách, pháp luật về THADS.
Thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, Hội đồng Nhà
nước và Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước đây đã ban hành các văn
bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao để điều chỉnh các quan hệ pháp
luật trong lĩnh vực này như: Pháp lệnh THADS năm 1989, Pháp lệnh
THADS năm 1993, Pháp lệnh THADS năm 2004, và đặc biệt là việc
Quốc hội ban hành Luật THADS năm 2008, Luật sửa đổi, bổ sung
Luật THADS năm 2014.
Bên cạnh việc kế thừa, phát triển và pháp điển hóa các quy
định về THADS còn phù hợp, trên cơ sở rà soát, nghiên cứu, khảo
sát, đánh giá tình hình thực tiễn công tác THADS và tiếp thu có chọn
lọc quy định của pháp luật về THADS của một số nước trên thế giới,
Luật THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) đã quy định
thêm nhiều nội dung mới, khắc phục được một số hạn chế, tồn tại của

Pháp lệnh THADS năm 2004. So với các văn bản pháp luật THADS
1


được ban hành trước, Luật THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm
2014) quy định đầy đủ, chi tiết và khoa học hơn các vấn đề về
THADS, nhiều quy định về thủ tục thi hành án đã thể hiện được quan
điểm cải cách tư pháp, cải cách hành chính, tháo gỡ kịp thời một số
tồn tại, vướng mắc trong công tác THADS, bảo vệ tốt hơn quyền của
người được thi hành án, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức và Nhà nước theo bản án, quyết định về dân sự của Tòa án,
Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, góp phần
từng bước nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án, vì vậy đã điều
chỉnh hiệu quả hơn các quan hệ phát sinh trong THADS và phù hợp
với tình hình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay. Tuy nhiên, sau gần
8 năm triển khai thực hiện và gần 3 năm sửa đổi, bổ sung, Luật
THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) cũng đã bộc lộ
những bất cập, đặt ra nhiều vấn đề cần được nghiên cứu, làm rõ thêm,
trong đó có quy định về quyền của người được THADS.
Từ những lý do nêu trên, Học viên lựa chọn đề tài "Quyền của
người được thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài
Luận văn Thạc sĩ của mình. Với cách tiếp cận từ góc độ quyền con
người, học viên mong muốn góp phần phân tích, đánh giá tình hình
thực tiễn và kiến nghị, đề xuất những giải pháp để giải quyết các khó
khăn, vướng mắc, tồn tại, hạn chế trong hoạt động THADS hiện nay,
nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được THADS ở
Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, liên quan đến những vấn đề lớn của quyền con
người đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết của các nhà khoa

học tiêu biểu, cung cấp cho người đọc cơ sở lý luận, pháp lý, lịch sử
về quyền con người như: “Quyền con người” do GS.TS Võ Khánh
2


Vinh chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, 2011; “Quyền con người, tiếp
cận đa ngành và liên ngành luật học” do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ
biên, Nxb Khoa học xã hội, 2011; “Những vấn đề lý luận và thực tiễn
của nhóm quyền dân sự chính trị” do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ
biên, Nxb Khoa học xã hội, 2011; “Những vấn đề lý luận và thực tiễn
của nhóm quyền kinh tế, văn hóa và xã hội” do GS.TS Võ Khánh
Vinh chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, 2011; “Giáo trình lý luận và
pháp luật về quyền con người”, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà
Nội, Nxb Chính trị quốc gia, 2015.
Tuy nhiên, đối với nội dung Quyền của người được THADS,
đây là một nội dung hoàn toàn mới được quy định trong Luật sửa đổi,
bổ sung Luật THADS năm 2014. Trước đây, các Pháp lệnh THADS
năm 1989, 1993, 2004, thậm chí Luật THADS năm 2008 chỉ quy
định là quyền yêu cầu thi hành án, khi đó, các quyền của người được
thi hành án còn mơ hồ, chưa cụ thể và nằm rải rác ở các văn bản quy
phạm pháp luật THADS. Chỉ đến khi Luật sửa đổi, bổ sung Luật
THADS năm 2014 được ban hành thì quyền của người được thi hành
án mới được quy định một cách đầy đủ, cụ thể. Do đó, cho đến nay,
chỉ có một số ít công trình nghiên cứu khoa học pháp lý đề cập đến
vấn đề này như:
- "Những điểm mới của Luật Thi hành án dân sự 2008", Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội năm
2010 [15];
- "Một số điểm mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Thi hành án dân sự 2014" của Nguyễn Phương Thảo [43];

- “Cơ sở lý luận và thực tiễn khắc phục án tồn đọng trong thi
hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật học
năm 2015 của Nguyễn Văn Nghĩa [26];
3


- “Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự”, Luận văn Thạc sĩ
Luật học năm 2012 của Phan Huy Hiếu [28];
- “Thi hành án dân sự - qua thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”, Lê
Quỳnh Nga - Luận văn Thạc sĩ Luật học năm 2014 của Lê Quỳnh
Nga [25].
Nhìn chung các công trình khoa học trên đây đã làm sáng tỏ
được một số vấn đề lý luận chung về THADS cũng như về quyền của
người được THADS. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này cũng
mới chỉ dừng lại ở mức độ nêu mục đích, cơ sở áp dụng và giới thiệu
nội dung một số quy định mà chưa phân tích một cách toàn diện,
tổng thể về các nội dung liên quan đến quyền của người được
THADS. Tuy vậy, đây vẫn là những tài liệu quan trọng được tác giả
tham khảo khi thực hiện nghiên cứu đề tài Luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là trên cơ sở phân tích, làm
rõ những vấn đề về lý luận và thực tiễn pháp luật về THADS, nhận
diện được những hạn chế, bất cập của pháp luật và các tồn tại, vướng
mắc trong thực tiễn thực hiện pháp luật về về quyền của người được
THADS. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm
quyền của người được THADS ở nước ta trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu như vậy, nhiệm vụ nghiên cứu được
xác định trên những khía cạnh sau đây:

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền của người được
THADS, như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở quyền của người
được THADS.
4


- Phân tích, đánh giá những quy định của Luật THADS về
quyền của người được THADS và tình hình thực hiện các biện pháp
bảo đảm quyền của người được THADS trong thực tiễn hiện nay.
- Xác định và luận giải một số giải pháp nhằm hoàn thiện và
thực hiện pháp luật về biện pháp bảo đảm quyền của người được
THADS.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp lý và thực trạng
quyền của người được THADS ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu đề tài bao gồm nhiều vấn đề khác nhau.
Tuy nhiên, do giới hạn của một Luận văn Thạc sĩ, việc nghiên cứu
chỉ tập trung vào những vấn đề cơ bản nhất thuộc nội dung đề tài như
khái niệm, đặc điểm, nội dung và ý nghĩa quyền của người được
THADS; cơ sở của việc pháp luật quy định quyền của người được
THADS; nội dung các quy định của Luật THADS về quyền của
người được THADS và thực tiễn thực hiện chúng trong khoảng 5
năm vừa qua.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm của
Đảng, Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp

nghiên cứu truyền thống của khoa học xã hội như phương pháp tổng
hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp phân
tích, phương pháp diễn dịch và phương pháp quy nạp. Bên cạnh đó,
tác giả còn sử dụng phương pháp tiếp cận dựa trên quyền - phương
5


pháp đặc thù khi nghiên cứu về quyền con người được sử dụng tại
Chương 1 để làm rõ các vấn đề lý luận về quyền của người được thi
hành án dân sự, đặc biệt là trong mối quan hệ giữa chủ thể của quyền
và chủ thể có nghĩa vụ, trách nhiệm thực hiện, bảo vệ quyền này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu tương đối toàn
diện, có tính hệ thống về những vấn đề liên quan đến quyền của
người được THADS. Vì vậy, về mặt lý luận, Luận văn bổ sung, làm
rõ hơn cơ sở khoa học của việc ghi nhận, bảo vệ, bảo đảm quyền của
người THADS bằng pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu trong Luận văn là tài liệu
tham khảo về quyền của người được THADS trong các cơ sở nghiên
cứu, cơ sở giáo dục và đào tạo về quyền con người. Bên cạnh đó, các
kết quả nghiên cứu trong Luận văn cũng có thể trở thành tài liệu tham
khảo hữu ích cho các cơ quan, tổ chức trong quá trình nghiên cứu,
tham mưu xây dựng chính sách, pháp luật về THADS.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền của người được thi
hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền của người được thi hành
án dân sự ở Việt Nam hiện nay.

Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm quyền của người
được thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay.

6


Chương 1
NHŨNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐƯỢC
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền của người được thi hành
án dân sự
1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự, người được thi hành án
dân sự và quyền của người được thi hành án dân sự
Theo quy định tại Điều 1 và 2 Luật Thi hành án dân sự năm
2008 (sửa đổi bổ sung năm 2014), THADS là hoạt động của nhiều tổ
chức và cá nhân, bao gồm cả cơ quan THADS trong quá trình tổ
chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án, Hội đồng xử lý vụ
việc cạnh tranh và Trọng tài thương mại.
Khoản 2 Điều 3 Luật THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm
2014) quy định: “Người được thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ
chức được hưởng quyền, lợi ích trong bản án, quyết định được thi
hành” [39].
Như vậy, có thể hiểu quyền của người được THADS là khả
năng mà người được THADS có thể khôi phục, thụ hưởng các quyền
và lợi ích hợp pháp của mình đầy đủ và toàn diện nhất, bao gồm cả
những quyền, lợi ích hợp pháp được tuyên trong bản án, quyết định
của Tòa án và cả những quyền trong quá trình tổ chức thi hành án.
1.1.2. Đặc điểm quyền của người được thi hành án dân sự
Cũng như bất kỳ một quyền con người nào khác, quyền của
người được THADS có một số đặc điểm cơ bản thể hiện ở các thuộc

tính của nó, cụ thể:
- Tính phổ biến: được thể hiện ở chỗ quyền của người được
THADS là những gì vốn có của người được THADS và được áp
dụng bình đẳng cho tất cả người được THADS mà không phân biệt
7


đối xử vì bất kỳ lý do gì như: chủng tộc, dân tộc, giới tính, tôn giáo,
thành phần xuất thân,… [24, tr.27].
- Tính không thể tước bỏ: quyền của người được THADS cũng
là quyền con người, đã là quyền con người thì không thể bị tước bỏ
hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ
quan và quan chức nhà nước, trừ một số trường hợp được pháp luật
quy định [24, tr.28].
- Tính không thể phân chia: Các quyền của người được
THADS đều quan trọng như nhau, về nguyên tắc không có quyền nào
được coi là có giá trị hơn quyền nào. Tuy nhiên, trên thực tế, tùy từng
bối cảnh, giai đoạn cụ thể có thể ưu tiên thực hiện hoặc được chú ý
bảo vệ một số quyền nhất định [24, tr.28].
- Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau: các quyền của người
được THADS không tồn tại biệt lập mà tồn tại trong mối liên hệ phụ
thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc
gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác.
Ngược lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặc
gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác [24,
tr.28].
Bên cạnh các đặc điểm cơ bản trên, quyền của người được
THADS còn có các đặc điểm sau:
- Chủ thể được bảo vệ quyền là người được THADS, đó là cá
nhân, tổ chức được hưởng quyền, lợi ích trong bản án, quyết định về

dân sự của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh được thi hành.
- Đối tượng được bảo vệ là các quyền của người được
THADS: quyền tài sản, quyền nhân thân, quyền tiếp cận thông tin,
8


quyền khiếu nại, tố cáo, quyền được bồi thường, quyền được chuyển
giao quyền,...
- Mục đích bảo vệ là để khôi phục, thụ hưởng quyền, lợi ích
chính đáng, hợp pháp được tuyên trong bản án, quyết định của Tòa
án và cả những quyền trong quá trình tổ chức thi hành án.
1.2. Nội dung quyền của người được thi hành án dân sự
- Thứ nhất, quyền, lợi ích hợp pháp đối với những nội dung mà
bản án, quyết định của Tòa án đã tuyên có hiệu lực pháp luật, theo đó
bao gồm: quyền nhân thân, quyền tài sản,...
Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân,
không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có
liên quan quy định khác [34, Điều 24].
Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền
tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và
các quyền tài sản khác [34, Điều 115].
Như vậy, một mặt, quyền tài sản là tài sản; mặt khác, một
quyền tài sản phải bao gồm hai yếu tố: trị giá được bằng tiền và
chuyển giao được trong giao lưu dân sự. Bên cạnh đó, các quyền
không thể được chuyển nhượng trong giao lưu dân sự, do gắn liền
với nhân thân của người có quyền, dù trị giá được bằng tiền (như
quyền được cấp dưỡng, quyền hưởng trợ cấp hưu trí,…) là quyền
nhân thân gắn liền với tài sản.
- Thứ hai, quyền, lợi ích hợp pháp trong quá trình tổ chức thi

hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, theo đó
bao gồm: quyền tiếp cận thông tin, quyền về tài sản, quyền khiếu nại,
tố cáo, quyền được bồi thường trong hoạt động THADS,…
Các quyền chính trị bao gồm công lý trung lập trong pháp luật,
chẳng hạn như: quyền được tổ chức thi hành án công bằng; pháp luật
9


đúng thủ tục và quy trình; quyền khiếu nại, tố cáo; quyền đòi bồi
thường hoặc khắc phục thiệt hại xuất phát từ lỗi của Chấp hành viên,
cơ quan THADS hoặc các cá nhân, tổ chức có liên quan;...Đây là
nhóm quyền phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện theo phán
quyết của Tòa án, hay còn gọi là hoạt động THADS.
Quyền khiếu nại, tố cáo và quyền được bồi thường trong hoạt
động THADS là một trong số các phương thức để đương sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thực hiện quyền kiểm tra, giám sát
và thực hiện quyền làm chủ của mình, hướng tới bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, đặc biệt là khôi phục quyền của
người được THADS trước và trong quá trình tổ chức THADS, bảo
đảm pháp luật được thực thi nghiêm minh nhằm bảo vệ, bảo đảm
quyền con người.
1.3. Các điều kiện bảo đảm quyền của người được thi hành
án dân sự
1.3.1. Điều kiện chính trị
Điều kiện chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng trong mối
quan hệ với quyền của người được THADS nói riêng, cũng như
quyền con người nói chung. Có thể thấy tính chất của chính trị, văn
hóa chính trị, đường lối, chủ trương, chính sách của đảng cầm quyền
ảnh hưởng rất lớn, có tính chất quyết định đối với sự phát triển quyền
con người. Từ nghĩa đó, việc thực hiện quyền con người nói chung,

quyền của người được THADS nói riêng không chỉ là trách nhiệm
của nhà nước mà là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
1.3.2. Điều kiện pháp lý
Pháp luật đóng vai trò quan trọng hàng đầu, là cơ sở để quyền
của người được THADS được ghi nhận, bảo vệ và bảo đảm sự trên
thực tế. Chỉ có pháp luật, bằng các quy phạm pháp luật quy định chặt
10


chẽ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của
các cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước mới tạo nên cơ sở pháp lý
vững chắc để người được THADS đấu tranh chống lại các hành vi
xâm hại, bảo vệ quyền của mình.
1.3.3. Điều kiện kinh tế
Phát triển kinh tế là một trong những điều kiện không thể thiếu
để đảm bảo thực hiện quyền của người được THADS trên thực
tế. Thực tế minh chứng, nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi, kinh tế xã
hội phát triển, việc vận động đương sự tự nguyện thi hành án cũng rất
thuận lợi. Còn nếu điều kiện tự nhiên khó khăn, kinh tế kém phát
triển dẫn tới việc ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận người
dân bị hạn chế và rất khó vận động trong việc tự nguyện thi hành án.
1.3.4. Điều kiện văn hóa
Quyền con người là giá trị chung của toàn nhân loại, nhưng
văn hóa thì lại là bản sắc của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, do vậy mà ít
nhiều văn hóa cũng ảnh hưởng tới nhận thức và thực hiện quyền con
người. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi quyền con người
thì phải hạn chế những tác động tiêu cực của văn hóa, biến đổi nó
theo chiều hướng tích cực bằng cách loại bỏ đi những giá trị đã lạc
hậu, không phù hợp và đưa vào nó những giá trị mới, phù hợp hơn.
Cùng với đó, phải phát huy các tác động tích cực của văn hóa và làm

cho nó trở nên phù hợp với các mục tiêu vì con người, với việc bảo
đảm quyền con người.
1.4. Mô hình tổ chức thi hành án dân sự và quyền của
người được thi hành án dân sự ở một số quốc gia trên thế giới và
những giá trị tham khảo cho Việt Nam
1.4.1. Indonesia
11


THADS ở Indonesia được thực hiện bởi Thẩm phán, Thẩm
phán được sử dụng sức mạnh cưỡng chế của bộ máy nhà nước để thi
hành bản án. Nếu người phải thi hành án không có hoặc không đủ tài
sản để thi hành, thì theo yêu cầu của người được THADS, Chánh án
Toà án cấp quận, huyện có thể trao lệnh cho Thừa phát lại để bắt
người phải thi hành án để tạm giam. Người bị bắt có thể bị giam giữ
trong thời hạn 03 năm [27].
1.4.2. Singapore
Việc tổ chức THADS ở Singapore do Tòa án đảm nhiệm. Ở
Singapore, muốn bảo đảm quyền của mình, người được THADS phải
thực hiện rất nhiều trình tự, thủ tục như: gặp người phải thi thành án
để xem xét khả năng thi hành của họ, phải chủ động xác minh tài sản
của người phải thi hành án và cung cấp thông tin cho nhân viên thi
hành án, thậm chí có trường hợp phải chịu chi phí cưỡng chế [11],…
1.4.3. Trung Quốc
Hiện nay, cả THADS và THAHS ở Trung Quốc đều do Bộ Tư
pháp thống nhất quản lý. Theo GS-TS. Cheng Chunming – Đại học
Luật và Khoa học Chính trị Trung Quốc, ĐH Mont Pellier I thì công
tác THADS ở Trung Quốc đang ở trong tình trạng báo động, 75%
bản án, quyết định hiện vẫn còn chưa được thi hành [27]. Để có một
bản án, quyết định phải qua nhiều thủ tục phức tạp và mất thời gian;

hiệu quả pháp chế của bản án, quyết định của Toà án không thực sự
được bảo đảm.
1.4.4. Pháp
Tại Pháp, THADS và THAHS đều do Bộ Tư pháp thống nhất
quản lý. Tuy nhiên, việc thi hành các bản án, quyết định về dân sự do
các văn phòng Thừa phát lại thực hiện mà trực tiếp là các Thừa phát
lại. Các văn phòng Thừa phát lại được tổ chức và hoạt động theo mô
12


hình của các công ty thương mại. Mặc dù nằm ngoài bộ máy nhà
nước nhưng điểm đáng lưu ý đó là Thừa phát lại là lực lượng duy
nhất ở Pháp có quyền yêu cầu hỗ trợ của các lực lượng vũ trang công
quyền trong trường hợp cần thiết.
Từ những nghiên cứu, phân tích mô hình tổ chức thi hành án
của một số quốc gia nêu trên, học viên xin đưa ra một số kinh nghiệm
mà Việt nam có thể tham khảo, áp dụng:
Thứ nhất, phải từng bước chuyển giao cho một cơ quan thống
nhất quản lý công tác thi hành án.
Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh việc xã hội hóa hoạt động THADS.
Chương 2
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI
ĐƯỢC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Cơ chế bảo đảm quyền của người được thi hành án
dân sự ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Hệ thống pháp luật về quyền của người được thi hành
án dân sự
Thứ nhất, các quy định về quyền, lợi ích hợp pháp của người
được THADS đối với những nội dung mà bản án, quyết định của Tòa
án đã tuyên có hiệu lực pháp luật, theo đó bao gồm: quyền tài sản,

quyền nhân thân,...
Thứ hai, các quy định về quyền, lợi ích hợp pháp của người
được THADS đối với quyền, lợi ích hợp pháp trong quá trình tổ chức
thi hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, theo
đó bao gồm: quyền tiếp cận thông tin, quyền về tài sản, quyền khiếu
nại, tố cáo, quyền được bồi thường trong hoạt động THADS,…
2.1.2. Hệ thống các thiết chế bảo đảm quyền của người
được thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay
13


Bộ Tư pháp, chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện
quản lý nhà nước về THADS.
Tổng cục THADS là cơ quan trực thuộc Bộ Tư pháp, thực
hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà
nước về công tác THADS trong phạm vi cả nước
Bộ Công an, có nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan, tổ chức,
cá nhân khác bằng nhiều hình thức để bảo vệ, bảo đảm quyền của
người được THADS trên thực tế (phối hợp xây dựng văn bản, phối
hợp cưỡng chế thi hành án,...) [39, Điều 169].
Ủy ban nhân dân các cấp tỉnh, cấp huyện, thành lập Ban
Chỉ đạo THADS để tham mưu cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng
cấp chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan có liên quan trong hoạt
động THADS trên địa bàn.
Tòa án nhân dân, trước hết là xét xử, bảo vệ lẽ phải, cũng là
bảo vệ quyền tài sản và nhân thân phi tài sản của người được
THADS, sau đó, trong hoạt động THADS, Tòa án nhân dân có nhiệm
vụ phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác bằng nhiều hình
thức để bảo vệ, bảo đảm quyền của người được THADS trên thực tế.
Viện Kiểm sát nhân dân, là cơ quan thực hành quyền công

tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong hoạt động THADS, Viện Kiểm
sát nhân dân có các nhiệm vụ, quyền hạn như: Phối hợp trong việc
ban hành văn bản quy phạm pháp luật về THADS; Kiểm sát THADS
theo quy định của pháp luật; Phối hợp trong việc tổng kết công tác
THADS [39, Điều 171].
2.2. Kết quả, hạn chế trong bảo đảm quyền của người được
thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Kết quả công tác THADS trong những năm gần đây
Trong 9 tháng đầu năm 2017, các cơ quan THADS đã giải
quyết xong số việc, tiền nhiều hơn và đạt tỷ lệ cao hơn cùng kỳ năm
2016 (tăng 2,2% về việc và tăng 9,86% về tiền). Tuy nhiên, số việc
14


và tiền có điều kiện thi hành đều giảm (giảm 3,64% về việc và giảm
9,20% về tiền); lượng án có điều kiện chuyển kỳ sau còn nhiều và
tăng so với cùng kỳ (tăng 45% về việc và 45,29% về tiền); số lượng
cán bộ bị xử lý kỷ luật vẫn còn tương đối nhiều; công tác hướng dẫn
nghiệp vụ, nhất là chỉ đạo đối với những vụ án lớn, giải quyết các vụ
việc THADS trọng điểm, các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo
dài còn chậm, chưa dứt điểm.
2.2.2. Kết quả, hạn chế trong bảo đảm quyền của người được
thi hành án dân sự ở Việt Nam trong thực tế
- Quyền sở hữu tài sản
Quyền sở hữu tài sản là quyền cơ bản của con người nói chung
và quyền của người được THADS nói riêng đã và đang từng bước
được thực hiện ở Việt Nam, Tuy nhiên, kết quả THADS còn bộc lộ
một số hạn chế như: số việc và tiền có điều kiện thi hành đều giảm
(giảm 3,64% về việc và giảm 9,20% về tiền); lượng án có điều kiện
chuyển kỳ sau còn nhiều và tăng so với cùng kỳ (tăng 45% về việc và

45,29% về tiền).
- Quyền nhân thân
Thi hành án giao người chưa thành niên cho người được giao
nuôi dưỡng theo bản án, quyết định của Tòa án là loại việc hết sức
phức tạp, bởi đối tượng thi hành án ở đây không phải là tiền hay tài
sản mà là con người, vì thế đây là loại việc rất đặc thù và cũng hết
sức nhạy cảm mà các cơ quan thi hành án thường xuyên gặp phải,
đặc biệt là hiện nay khi các vụ việc ly hôn phát sinh ngày càng nhiều.
Phổ biến và phức tạp như vậy nhưng pháp luật về THADS hiện hành
lại chưa có những quy định cụ thể nên trong quá trình tổ chức thi
hành án, các cơ quan THADS đã gặp không ít khó khăn, vướng mắc
cả về lý luận lẫn trong thực tiễn.
- Quyền khiếu nại, tố cáo

15


Trong 6 tháng đầu năm 2017, toàn Hệ thống THADS đã tiếp
nhận tổng số 4.118 đơn khiếu nại và 738 đơn tố cáo (Tổng cục
THADS tiếp nhận 1.773 đơn khiếu nại, 471 đơn tố cáo; các cơ quan
THADS tiếp nhận 2.345 đơn khiếu nại, 267 đơn tố cáo), tăng 499
đơn thư khiếu nại, tố cáo so với cùng kỳ năm 2016. Kết quả: Tổng
cục THADS đã giải quyết xong 42/52 việc thuộc thẩm quyền, đạt tỷ
lệ 80,76%; các cơ quan THADS địa phương đã giải quyết xong
1.403/1.614 việc thuộc thẩm quyền, đạt tỷ lệ 87%.
Bên cạnh những kết quả nói trên, công tác giải quyết khiếu nại,
tố cáo còn một số tồn tại, vi phạm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền của
đương sự, trong đó có quyền của người được THADS
- Quyền được bồi thường trong hoạt động THADS
Theo số liệu thống kê, từ khoảng thời điểm năm 2010 đến nay,

toàn hệ thống cơ quan THADS đã và đang theo dõi, giải quyết tổng
cộng là 61 vụ việc cơ quan THADS phải bồi thường cho đương sự,
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, trong số này, người được
bồi thường là người được THADS chiếm số lượng không nhỏ.
30/61 vụ việc đã thực hiện bồi thường cho cho đương sự,
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Số lượng vụ việc giải
quyết bồi thường dứt điểm ngày càng tăng lên; một số vụ việc phức
tạp, kéo dài nhiều năm đến nay đã được giải quyết dứt điểm, góp
phần khôi phục, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho cơ quan, tổ chức
và cá nhân.
Như vậy, có thể thấy, trong hoạt động THADS, không phải lúc
nào quyền của người được THADS cũng được bảo đảm theo bản án,
quyết định của Tòa án. Tuy nhiên, với chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quyền của người được
THADS đã có nhiều hơn các cơ sở pháp lý, các thiết chế để bảo vệ,
bảo đảm và khôi phục khi bị xâm phạm.

16


2.2.3. Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế trong việc bảo
đảm quyền của người được thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, nguyên nhân khách quan
- Bối cảnh tình hình thế giới và khu vực
Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn
biến phức tạp, tác động tiêu cực đến kinh tế - xã hội nước ta, việc
phát triển kinh tế không bền vững kéo theo đó là phổ biến việc xâm
phạm các quyền nhân thân, quyền tài sản, thể hiện qua việc các tranh
chấp dân sự, kinh tế, lao động, thương mại, án ly hôn ngày càng gia
tăng, tính chất vụ việc ngày càng phức tạp...

- Hệ thống pháp luật về THADS nói chung, bảo đảm quyền
của người được THADS nói riêng
Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành còn bộc lộ
nhiều khiếm khuyết, hạn chế như: Trình tự, thủ tục thi hành án còn
phức tạp, kéo dài, nhiều công đoạn; chưa tạo điều kiện để đương sự
chủ động tham gia tích cực vào trong quá trình thi hành án; thiếu
thống nhất với pháp luật có liên quan; chưa có nhiều quy định cụ thể
các biện pháp bảo vệ quyền lợi chính đáng của người được thi hành
án mà chủ yếu là các quy định bảo vệ quyền lợi đối với người phải
thi hành án, dẫn tới việc đương sự chây ỳ, cố tình kéo dài thi hành án
và không tự nguyện thi hành án;...
- Ngân sách, hỗ trợ tài chính cho công tác bảo đảm quyền của
người được THADS
Hiện nay, còn nhiều cơ quan THADS chưa được đầu tư xây
dựng kho vật chứng nên rất khó khăn trong công tác quản lý, bảo
quản vật chứng, tài sản của đương sự, nhiều trường hợp gây hỏng
hóc, mất mát, làm ảnh hưởng đến quá trình tổ chức thi hành án cũng
như ảnh hưởng tới quyền của người được THADS.
Thứ hai, nguyên nhân chủ quan

17


- Sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan
đến việc bảo vệ quyền của người được THADS
Thực tế cho thấy, ý thức, trách nhiệm phối hợp của một số
Chấp hành viên, cơ quan THADS, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan chưa cao, thậm chí không coi trọng công tác phối hợp, dẫn
đến công tác THADS chưa đạt hiệu quả như mong muốn, số lượng
án tồn đọng còn nhiều, không bảo vệ, bảo đảm quyền của người được

THADS.
- Bộ máy tổ chức của hệ thống cơ quan THADS, chất lượng
cán bộ, công chức trong hệ thống cơ quan THADS
Lượng án dân sự trong những năm gần đây có xu hướng liên
tục tăng, “năm sau cao hơn năm trước” và tính chất ngày càng phức
tạp, song đội ngũ công chức, Chấp hành viên của hệ thống cơ quan
THADS vẫn không được bổ sung tương ứng, hiện còn thiếu và yếu
so yêu cầu. Một bộ phận công chức còn hạn chế về năng lực và khả
năng gánh vác nhiệm vụ, chưa ý thức được việc bảo đảm thực hiện
công tác THADS, việc bảo vệ, bảo đảm quyền của người được
THADS, trách nhiệm đối với xã hội.
- Nhận thức của các tầng lớp về quyền con người nói chung,
quyền của người được THADS nói riêng và công tác tập huấn, tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền của người THADS
Ý thức pháp luật trong nhân dân vẫn còn nhiều hạn chế, một
bộ phận không nhỏ nhân dân trình độ nhận thức pháp luật kém. Việc
tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật THADS trên toàn quốc
cũng như tại một số địa phương chưa được thực hiện tốt, cán bộ
chính quyền cơ sở chưa nắm được vị trí, chức năng của cơ quan
THADS các cấp.

18


Chương 3
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI
ĐƯỢC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Quan điểm bảo đảm quyền của người được thi hành án
dân sự ở Việt Nam
Thứ nhất, bảo đảm quyền của người được THADS cần quán

triệt và tuân thủ các đường lối chỉ đạo của Đảng về bảo đảm quyền
con người và thi hành án nói chung, thi hành án dân sự nói riêng.
Thứ hai, bảo đảm quyền của người được THADS cần gắn liền
với việc bao đảm các quyền con người nói chung. Về vấn đề này,
Nhà nước Việt Nam luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.
Thứ ba, bảo đảm quyền của người được THADS cần gắn liền
với việc thực hiện các quyền hiến định trong Hiến pháp năm 2013.
Về vấn đề này, xuất phát từ chủ trương không ngừng phát triển quyền
con người, Nhà nước Việt Nam đã và đang xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật để bảo đảm các quyền con người được tôn trọng
và thực hiện một cách đầy đủ nhất.
Thứ tư, để nâng cao hiệu quả bảo đảm thực hiện quyền của
người được THADS, cần kết hợp và thực hiện đồng bộ nhiều biện
pháp như hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, quy trình tổ chức, thực
hiện pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy nhà
nước và việc tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật để nâng cao
nhận thức, ý thức trách nhiệm của các chủ thể có liên quan.
3.2. Các giải pháp bảo đảm quyền của người được thi hành
án dân sự ở Việt Nam
3.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền của
người được thi hành án dân sự ở Việt Nam
Thứ nhất, cần sửa đổi, bổ sung quy định về xác minh điều kiện
thi hành án
19


Cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung theo hướng:
(1) Về pháp luật thi hành án dân sự:
- Cần quy định cụ thể hơn về nội dung xác minh thi hành án.

- Để nâng cao trách nhiệm của các cơ quan hữu quan trong
việc cung cấp thông tin mà mình đang nắm giữ và phối hợp tốt trong
hoạt động THADS thì cần có quy định rõ hơn, cụ thể hơn, mạnh hơn
về chế tài xử lý đối với trường hợp chưa phối hợp.
- Hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các văn phòng Thừa phát lại
và cơ quan THADS trong tổ chức thi hành án, sử dụng kết quả xác
minh điều kiện thi hành án do Thừa phát lại cung cấp nhằm giảm tải
gánh nặng cho Chấp hành viên.
(2) Pháp luật về tài chính, ngân hàng, dân sự cần có quy định
mở rộng phạm vi các giao dịch phải thông qua tài khoản, hạn chế sử
dụng tiền mặt trong nhân dân; trong quy định của ngành Ngân hàng,
cần quy định ngân hàng có trách nhiệm bảo vệ bí mật thông tin khách
hàng, trừ trường hợp khách hàng là người phải thi hành án thì ngân
hàng có trách nhiệm cung cấp thông tin tài sản của người phải thi
hành án theo yêu cầu của Chấp hành viên.
(3) Quy định đồng bộ việc kê khai, đăng ký tài sản, xây dựng
hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký tài sản để sử dụng cho
việc tra cứu, cung cấp thông tin tài sản;
(4) Cần có quy định thống nhất, đồng bộ về cơ chế kiểm soát
nguồn thu nhập, tài sản của người phải thi hành án thông qua việc
đăng ký, kê khai tài sản nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác
minh tài sản.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung quy định về tạm đình chỉ thi hành án
Trong những trường hợp Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyết định tạm đình chỉ việc thi
hành án, thì cơ quan THADS vẫn có thể tiếp tục thi hành, cụ thể là

20



tiếp tục giao tài sản cho người trúng đấu giá (theo quy định pháp luật
tại Điều 103 Luật THADS).
Như vậy, với quy định pháp luật như đã nêu trên thực sự gây
khó khăn cho việc tổ chức thi hành án trên thực tế mà các cơ quan
hữu quan vẫn chưa thống nhất được phương án giải quyết. Việc quy
định chặt chẽ hơn đối với quy định về tạm đình chỉ THADS là cần
thiết, nhằm giải quyết những vướng mắc cho các cơ quan áp dụng
pháp luật.
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung quy định về cưỡng chế thi hành án
Để có thể tiến hành hoạt động cưỡng chế thi hành án thì Chấp
hành viên phải tiến hành nhiều thủ tục rất phức tạp và phải có mặt
đầy đủ thành viên Hội đồng cưỡng chế. Vì vậy, trong một số trường
hợp cần áp dụng khẩn cấp biện pháp cưỡng chế thì không đạt hiệu
quả, lợi dụng cơ hội này người phải thi hành án tìm mọi cách để tẩu
tán tài sản.
Vì vậy, trong một số trường hợp khẩn cấp, Học viên đề xuất
sửa đổi, bổ sung quy định Chấp hành viên có thể tiến hành cưỡng chế
cho dù thiếu thành phần Hội đồng cưỡng chế nhằm xử lý kịp thời,
phù hợp với tình hình lúc đó.
3.2.2. Nhóm giải pháp tăng cường ngân sách, hỗ trợ tài
chính cho công tác bảo đảm quyền của người được THADS
Thứ nhất, đề nghị Bộ Tài chính bảo đảm kinh phí cho hoạt
động THADS theo quy định.
Thứ hai, đề nghị Bộ Kế hoạch và đầu tư thẩm định, trình cấp
có thẩm quyền bố trí đủ nguồn vốn đầu tư công phù hợp với khả năng
cân đối vốn đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước trung hạn, hàng
năm.
Thứ ba, đề nghị Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các tổ chức tín
dụng thực hiện chặt chẽ khâu thẩm định tài sản bảo đảm để cho vay;


21


phối hợp hiệu quả với các cơ quan THADS trong tổ chức thi hành
các vụ việc liên quan đến tín dụng, ngân hàng.
3.2.3. Nhóm giải pháp đẩy mạnh sự phối hợp giữa các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc bảo vệ quyền của
người được THADS
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phối hợp cần tiếp
tục quán triệt đầy đủ nội dung Quy chế phối hợp liên ngành số
14/2013/QCLN/BTP-BCATANDTC-VKSNDTC ngày 9/10/2013
gắn với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, tổ chức.
Ủy ban nhân dân, Ban Chỉ đạo THADS các cấp tiếp tục tranh
thủ sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng để thực hiện có hiệu quả chức năng,
nhiệm vụ trong việc chỉ đạo công tác THADS tại địa phương.
3.2.4. Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng, cán bộ, công
chức, bộ máy tổ chức của hệ thống cơ quan THADS
Thứ nhất, xây dựng Đề án tinh giản biên chế trong toàn hệ
thống cơ quan THADS, hoàn thiện Đề án vị trí việc làm, hướng dẫn
và thực hiện việc rà soát bổ sung quy hoạch cán bộ, lãnh đạo, quản lý
theo nhiệm kỳ.
Thứ hai, tiếp tục kiện toàn tổ chức, bộ máy để đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ ngày một khó khăn, nhiều thử thách; thực hiện công tác
luân chuyển, điều động, chuyển đổi vị trí công tác đúng quy định, kịp
thời và hiệu quả.
Thứ ba, công tác bổ nhiệm, đào tạo bồi dưỡng, giải quyết chế
độ, chính sách đối với công chức tiếp tục thực hiện theo phân cấp,
bảo đảm tiến độ và đúng quy định của pháp luật.
Thứ tư, công tác đánh giá và phân loại công chức cần được
thực hiện thực đúng nguyên tắc, đúng quy định, kết quả đánh giá,

phân loại làm căn cứ để xét khen thưởng, đào tạo bồi dưỡng, quy
hoạch,...

22


3.2.5. Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức về quyền của
người được thi hành án dân sự ở Việt Nam
Thứ nhất, cần tiến hành nâng cao nhận thức về quyền của
người được THADS trong bộ máy nhà nước (chủ thể cơ bản nhất có
nghĩa vụ bảo đảm, bảo vệ, thúc đẩy quyền con người).
Thứ hai, cần tiến hành nâng cao nhận thức về quyền của người
được THADS cho nhân dân.
Thứ ba, tăng cường giáo dục quyền con người cần phải thực
hiện ngay và nhanh chóng.
3.2.6. Nhóm giải pháp tăng cường hợp tác quốc tế về công
tác thi hành án dân sự
Thứ nhất, tích cực hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nghiên cứu
khoa học về hoạt động THADS, quyền của người được THADS.
Thứ hai, tăng cường trao đổi kinh nghiệm về nghiệp vụ tổ chức
THADS, đặc biệt là kinh nghiệm thu hồi tiền, tài sản trong những vụ
án hình sự, tham nhũng lớn.
Thứ ba, tổ chức nhiều hơn nữa những Hội nghị, Hội thảo để
học tập, đánh giá, trao đổi kinh nghiệm về công tác THADS, bảo
đảm quyền của người được THADS với một số quốc gia trong khu
vực và trên thế giới.

23



×