Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Phát triển kinh tế tư nhân tại huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CAO TRẦN SÁNG

PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
TẠI HUYỆN NGHI XUÂN, TỈNH HÀ TĨNH

Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số

: 60.34.04.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS ĐINH TRỌNG THẮNG

HÀ NỘI, 2017


LỜI CẢM ƠN
Đề tài nghiên cứu “Phát triển kinh tế tư nhân tại huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà
Tĩnh” được hoàn thành, cùng với sự nỗ lực, cố gắng của bản thân, tôi xin được gửi lời
trân trọng cảm ơn và biết ơn sâu sắc tới Thầy giáo hướng dẫn khoa học Tiến sỹ Đinh
Trọng Thắng, người đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo tôi trong quá trình tôi triển khai đề tài
và viết luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn Ban Giám đốc Học Viện Khoa học xã hội thuộc Viện
hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, các thầy cô giáo, đặc biệt là các thầy cô trong
Khoa kinh tế, những người đã truyền đạt cho tôi những kiến thức bổ ích trong quá
trình học tập và rèn luyện tại học viện.


Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô trong Hội đồng xét tên đề tài và Hội
đồng chấm luận văn Thạc sỹ đã góp ý giúp tôi hoàn thiện tốt hơn luận văn của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Huyện uỷ, HĐND, UBND huyện Nghi
Xuân; các phòng: Thống kê, Tài chính - Kế hoạch, Lao động - Thương binh & Xã hội;
Chi cục Thuế và các cơ quan, ban ngành, đoàn thể huyện Nghi Xuân cùng những cơ sở
kinh tế tư nhân trên địa bàn huyện Nghi Xuân đã cung cấp những số liệu cần thiết và
giúp đỡ tôi trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu tại địa bàn.
Trong quá trình học tập và thực hiện luận văn tôi đã được rất nhiều sự giúp đỡ
của các bạn bè, đồng nghiệp và gia đình.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình và ghi nhận những tình cảm quý
báu đó.
Hà Nội, tháng 7 năm 2017
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Cao Trần Sáng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ TƯ NHÂN ................................................................................................... 6
1.1. Cơ sở lý luận về kinh tế tư nhân .......................................................................... 6
1.2. Cơ sở thực tiễn phát triển kinh tế tư nhân ......................................................... 14

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TẠI
HUYỆN NGHI XUÂN, TỈNH HÀ TĨNH ...................................................... 22
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện Nghi Xuân ................................ 22
2.2. Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh ............ 28

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TẠI HUYỆN

NGHI XUÂN, TỈNH HÀ TĨNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ........... 61
3.1. Những căn cứ đề xuất giải pháp ........................................................................ 61
3.2. Một giải pháp phát triển kinh tế tư nhân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh ....... 64

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 80


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

AEC

Cộng đồng kinh tế ASEAN

ASEM

Diễn đàn hợp tác kinh tế Á-ÂU

Bq

Bình quân

CN

Công nghiệp


DN

Doanh nghiệp

DNTN

Doanh nghiệp tư nhân

DT

Doanh thu

DV

Dịch vụ

ĐVT

Đơn vị tính

EU

Liên minh Châu Âu

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

GO


Giá trị sản xuất

KD

Kinh doanh

KTTN

Kinh tế tư nhân

LN

Lợi nhuận

NN

Nông nghiệp

PTKT

Phát triển kinh tế

SX

Sản xuất

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn


TPP

Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương

UBND

Uỷ ban nhân dân

WTO

Tổ chức thương mại thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Biểu 2.1. Tổng giá trị sản xuất phân theo khu vực KT theo giá hiện hành .... 25
Biểu 2.2. Tổng giá trị sản xuất phân theo khu vực kinh tế theo giá 2010. ..... 25
Biểu 2.3. Vốn đầu tư trên địa bàn ................................................................... 27
Biểu 2.4. Số cơ sở kinh tế cá thể phi, nông, lâm nghiệp và thủy sản ............ 29
Biểu 2.5; 2.6. Số doanh nghiệp, HTX đang hoạt động tại thời điểm 31/12 theo
loại hình doanh nghiệp .................................................................................... 30
Biểu 2.7. Tổng hợp tình hình vốn các cơ sở KTTN đăng ký kinh doanh ....... 33
Biểu 2.8. Số lao động trong các cơ sở kinh tế cá thể phi, nông, lâm nghiệp và
thủy sản phân theo ngành kinh tế .................................................................... 34
Biểu 2.9. Số lao động trong các doanh nghiệp, HTX ngoài nhà nước phân theo
nghành kinh tế ................................................................................................. 36
Biểu 2.10. Giá trị sản xuất nông nghiệp phân theo ngành kinh tế theo giá hiện
hành ................................................................................................................. 37
Biểu 2.11. Giá trị sản xuất thủy sản phân theo ngành hoạt động theo giá hiện
hành ................................................................................................................. 38
Biểu 2.12. Giá trị sản xuất lâm nghiệp phân theo ngành hoạt động theo giá hiện hành

......................................................................................................................... 39
Biểu 2.13. Số trang trại có điến 1/7/2016 phân theo ngành hoạt động và phân
theo xã, thị trấn ................................................................................................ 40
Biểu 2.14. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp theo giá hiện hành ................ 41
Biểu 2.15. Tổng mức bán lẻ hàng hóa phân theo loại hình kinh tế và phân theo nhóm
hàng theo giá hiện hành..................................................................................... 42
Biểu 2.16. Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống phân theo loại hình kinh tế và
phân theo nhóm hàng theo giá hiện hành ........................................................ 43
Biểu 2.17. Số lượng lao động trong các cơ sở KTTN năm 2016.................... 47
Biểu 2.18. Vốn sản xuất kinh doanh của các cơ sở KTTN năm 2016 .............. 48
Biểu 2.19. Doanh thu, lợi nhuận của các cơ sở KTTN năm 2016 .................. 49
Biểu 2.20. Thị trường tiêu thụ sản phẩm chính của các cơ sở KTTN ............ 50
Biểu 2.21. Những chính sách ưu đãi áp dụng cho KTTN trên địa bàn huyện . 52
Biểu 2.22. Những khó khăn chính của KTTN trên địa bàn huyện Nghi Xuân..... 55
Biểu 2.24. Đề xuất những giải pháp của KTTN huyện Nghi Xuân ................ 59

1


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau 30 năm đổi mới, mở cửa nền kinh tế chúng ta đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh
tế thế giới với bằng chứng là năm 1995 gia nhập ASEAN, năm 1996 gia nhập ASEM, năm
1998 gia nhập APEC, năm 2006 gia nhập WTO, đến nay gia nhập TPP.
Với sự mở cửa nền kinh tế chúng ta đã thu hút được rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài
lớn như: SamSung, Sumitomo, BigC, HSBC, KFC, FOXCOM … từ đó mở ra nhiều cơ hội
hợp tác làm ăn với các doanh nghiệp trong nước, tạo ra nhiều việc làm, tăng thu ngân sách
nhà nước.
Cùng với hội nhập quốc tế, nước ta cũng đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện

đại hóa để đạt mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Thực hiện phát
triển kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo có sự điều tiết của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế ngoài
quốc doanh có cơ hội phát triển, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.
Từ những chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước nền kinh tế nước ta đã có
nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Theo tổng cục thống kế năm 2014 GDP đạt 184 tỷ USD,
tăng 5.98%, thu nhập bình quân đầu người đạt 2.028USD/ năm. Năm 2015 GDP đạt
khoảng 214 tỷ USD, tăng 6.68%, thu nhập bình quân đầu người đạt 2321USD/năm, năm
2016 GDP tăng 6.7%, thu nhập bình quân đầu người đạt 2.215 USD, tăng 106 USD so với
năm 2015. Năm 2016, khu vực KTTN hiện có khoảng 500 nghìn doanh nghiệp, chiếm gần
90% số doanh nghiệp của cả nước. Trong giai đoạn 2006 - 2015, so với khu vực kinh tế nhà
nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), khu vực KTTN đóng góp hơn 40% GDP
cả nước, 30% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, gần 80% tổng mức lưu chuyển hàng hóa
bán lẻ và dịch vụ, 64% tổng lượng hàng hóa và 100% giá trị sản lượng hàng hóa vận
chuyển. Trong thời gian tới, khu vực KTTN sẽ tiếp tục đóng góp khoảng 30% ngân sách và
khoảng 40% GDP của cả nước.
Đặc biệt, khu vực KTTN thu hút khoảng 51% lực lượng lao động cả nước và tạo
khoảng 1,2 triệu việc làm cho người lao động mỗi năm, góp phần quan trọng vào quá trình
tái cấu trúc nền kinh tế, tăng thu nhập cho người dân, đặc biệt tạo việc làm mới cho những

1


đối tượng bị giảm biên chế hoặc mất việc làm do quá trình tinh giản bộ máy hành chính, cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước hay dịch chuyển lao động từ khu vực nông thôn.
Với vai trò to lớn và những đóng góp đó của KTTN, Đảng và Nhà nước đã không ngừng
đưa ra các chủ trương, hoàn thiện các chính sách hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân phát triển.
Huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc tỉnh
Hà Tĩnh; là cầu nối giữa hai miền Nam, Bắc qua tuyến Quốc lộ 1A, bởi các cầu Bến Thuỷ
1, 2; Nằm trong vùng quy hoạch xây dựng Nam Nghệ An, Bắc Hà Tĩnh đã được Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt; huyện còn nằm trên hành lang kinh tế Đông Tây, có khu công nghiệp
Gia Lách, khu du lịch Xuân Thành và nhiều di tích lịch sử cấp Quốc gia như Khu Di tích
Đại thi hào Nguyễn Du, Nhà thờ Uy viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ, Đền Củi thờ Ông
Hoàng Mười, Đền Hội Thống…. Các khu Kinh tế Vũng Áng, Khu kinh tế Cửa khẩu Cầu
Treo; cùng với sự phát triển kinh tế tỉnh Hà Tĩnh có tác động mạnh đến sự phát triển kinh tế
chung của cả nước vì vậy Đảng và Nhà nước luôn có những chính sách đặc biệt quan tâm
để phát triển kinh tế khu vực.
Cơ cấu kinh tế của huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh có những sự chuyển dịch mạnh mẽ,
theo xu hướng giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng các ngành dịch vụ và
đặc biệt là ngành thương mại- dịch vụ, công nghiệp. Trên địa bàn huyện khu công nghiệp Gia
Lách, Khu du lịch biển Xuân Thành đã được hình thành, môi trường đầu tư được tỉnh không
ngừng quan tâm, tạo điều kiện cho tất cả các thành phần kinh tế cùng phát triển.
Cùng những chủ trương chung của Nhà nước, của tỉnh Hà Tĩnh; huyện Nghi Xuân
đang tập trung dốc sức mọi nguồn lực thực hiện cuộc vận động toàn dân chung sức xây
dựng NTM và đô thị văn minh, phấn đấu năm 2019 đạt huyện NTM, năm 2020 có đô thị
văn minh hiện đại nên đã và đang rất quan tâm tới sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân,
bởi thực tế đã khẳng định vai trò, vị trí quan trọng cũng như những đóng góp to lớn của khu
vực KTTN đối với sự phát triển chung của cả nước, tỉnh Hà Tĩnh và huyện Nghi Xuân đặc
biệt trong thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng NTM và xây dựng đô thị văn
minh trên địa bàn huyện Nghi Xuân.
Nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới khi nước ta
đã gia nhập WTO, TPP, hình thành cộng đồng kinh tế AEC. Do đó KTTN đang đứng trước
sức cạnh tranh rất lớn từ các tập đoàn, các công ty nước ngoài. Vì vậy vai trò của KTTN

2


càng trở lên quan trọng và cần được Đảng, Nhà nước quan tâm hơn bao giờ hết, đặc biệt là
ở địa bàn cơ sở như cấp huyện.
Trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh nói chung, huyện Nghi Xuân nói riêng, KTTN đã và đang

được cấp ủy, chính quyển và cả hệ thống chính trị quan tâm và tạo mọi điều kiện để phát
triển, nhằm khai thác thế mạnh, tiềm năng phục vụ cho phát triển kinh tế tỉnh và huyện;
Việc nghiên cứu, tìm hiểu thực trang phát triển KTTN trên địa bàn huyện Nghi Xuân, cũng
như tác động của KTTN tới sự phát triển kinh tế của huyện, của đất nước là quan trọng và
cần thiết. Từ đó kịp thời phát huy những mặt mạnh, khắc phục những yếu kém của KTTN,
để KTTN tiếp tục mở rộng, phát triển và đóng góp nhiều hơn nữa cho nền kinh tế địa
phương và cả nước.
Xuất phát từ những lý do trên tôi chọn đề tài: “Phát triển kinh tế tư nhân tại
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh”
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm qua, KTTN đã có những bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và
chất lượng. Nhận thức được tầm quan trọng của KTTN trên thực tế đã có nhiều hội nghị,
diễn đàn, bài báo, phóng sự, đề tài nghiên cứu về phát triển KTTN. Tuy nhiên đề tài: “Phát
triển kinh tế tư nhân trên địa bàn huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh” chưa có tác giả nào
nghiên cứu vì vậy tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Điều tra, nghiên cứu, đánh giá để đề ra một số giải pháp phát triển kinh
tế tư nhân trên địa bàn huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
- Nhiệm vụ:
* Xây dựng, hệ thống hóa lý luận và thực tiễn về phát triển KTTN;
* Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển KTTN trên địa bàn huyện Nghi Xuân,
tỉnh Hà Tĩnh;
* Đề xuất các giải pháp phát triển KTTN trên địa bàn huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà
Tĩnh trong những năm tiếp theo.

3


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng, các loại hình thuộc khu vực KTTN: Hộ cá thể, Doanh nghiệp tư nhân,

công ty trách nhiện hữu hạn, công ty cổ phần không có vốn nhà nước, công ty không có vốn
đầu tư nước ngoài trên địa bàn huyện Nghi Xuân
- Phạm vi nghiên cứu, trên địa bàn huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, trong giai đoạn
2010 -2016 và định hướng phát triển KTTN trong những năm tiếp theo.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận nghiên cứu đề tài là duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
Nội dung của phương pháp duy vật biện chứng là nghiên cứu sự vật, hiện tượng kinh tế,
xã hội phải đặt trong mối quan hệ tác động qua lại, gắn kết, biện chứng với nhau. Nghiên
cứu chính sách trong mối quan hệ tác động qua lại với các ban ngành và giữa các chính sách
cũng cần có sự ăn khớp, hỗ trợ khi tác động đến đối tượng là KTTN tại huyện Nghi Xuân.
Phương pháp duy vật lịch sử thể hiện nghiên cứu việc định hướng và các chính sách tác
động đến phát triển KTTN phải đặt trong các điều kiện, bối cảnh cụ thể, phải đảm bảo tính
lịch sử, hiện thực khách quan.
5.2. Các phương pháp cụ thể
Phương pháp so sánh: Được áp dụng nhằm phát hiện ra những điểm giống nhau và khác
nhau của các nghiên cứu cùng đối tượng là công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, đồng
thời xác định những nguyên nhân dẫn đến sự đồng nhất hay khác biệt đó. Có thể so sánh
bằng các chỉ tiêu tương đối hoặc tuyệt đối, định lượng hoặc định tính theo thời gian và
phạm vi nghiên cứu cụ thể.
Phương pháp thống kê: Bao gồm việc thu thập, xử lý, phân tích, giải thích và trình bày
các dữ liệu về nền kinh tế tư nhân tại huyện Nghi Xuân dựa trên nguồn dữ liệu thống kê về
kinh tế, xã hội tại Chi cục Thống kê huyện Nghi Xuân và các báo cáo khác được chính
quyền huyện xây dựng.
Phương pháp điều tra, phỏng vấn, lấy ý kiến người dân và chuyên gia: Bao gồm việc
điều tra, lấy các ý kiến của các doanh nghiệp, các công ty TNHH, các hộ kinh doanh cá thể
trên địa bàn và ý kiến của cán bộ quản lý, chuyên gia về lĩnh vực phát triển kinh tế tại huyện
Nghi Xuân. Công cụ thực hiện phỏng vấn trực tiếp, đối thoại, trả lời bản hỏi.

4



Phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh, đối chiếu: Được sử dụng để phân tích vấn
đề giải phóng mặt bằng – một vấn đề cực kỳ phức tạp và nhạy cảm thành những bộ phận,
những mặt, những yếu tố đơn giản hơn để nghiên cứu và làm sáng rõ vấn đề sau đó tổng
hợp, liên kết, thống nhất lại các bộ phận, các yếu tố, các mặt đã được phân tích, vạch ra mối
liên hệ giữa chúng nhằm khái quát hóa vấn đề kinh tế tư nhân tại huyện Nghi Xuân – là đối
tượng nghiên cứu chính của luận văn. Phương pháp nghiên cứu này được sử dụng xuyên
suốt cả quá trình thực hiện luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
-

Ý nghĩa lý luận: xây dựng lý luận về KTTN, đặc điểm KTTN, vai trò KTTN

-

Thực tiễn của luận văn: Luận văn có thể được sử dụng làm tham khảo cho các cơ

quan địa phương trên địa bàn huyện; các đề tài luận văn, luận án có đề tài liên quan; Các
thành phần KTTN.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, lời cảm ơn, mục lục, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế tư nhân
Chương 2. Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân tại huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh
Chương 3. Giải pháp phát triển kinh tế tư nhân tại huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh
trong giai đoạn hiện nay

5



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TƯ NHÂN
1.1. Cơ sở lý luận về kinh tế tư nhân
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản về kinh tế tư nhân
Thuật ngữ “kinh tế tư nhân” luôn gắn liền với vấn đề sở hữu. vì vậy, muốn tìm hiểu
thuật ngữ này, trước hết cần tìm hiểu về sở hữu mà đặc biệt là sở hữu tư nhân.
Sở hữu là quan hệ xã hội giữa người với người về việc chiếm hữu tư liệu sản xuất và
của cải xã hội. Điều này có nghĩa là khi nói về sở hữu không chỉ bao gồm mối quan hệ giữa
con người chiếm hữu tư liệu sản xuất, của cải, mà hết sức quan trọng là nói về quan hệ giữa
người với người diễn ra sự chiếm hữu đó.
Điều 211 BLDS 2005 đưa ra khái niệm về sở hữu tư nhân như sau: “Sở hữu tư nhân
là sở hữu của cá nhân đối với tài sản hợp pháp của mình”.
Như vậy, sở hữu tư nhân là một phạm trù pháp lý được hiểu là tổng hợp các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt những tài sản
thuộc quyền sở hữu của cá nhân hoặc là những quyền dân sự cụ thể của cá nhân với tư cách
là chủ sở hữu đối với tài sản của mình thông qua các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản.
KTTN là một loại hình kinh tế phát triển dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
(cả hữu hình và vô hình). Nó hoàn toàn tự chủ, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động
sản xuất kinh doanh, dịch vụ, cụ thể là: tự chủ về vốn, tự chủ về quản lý, tự chủ về phân
phối sản phẩm, tự chủ lựa chọn hình thức tổ chức, quy mô, phương hướng sản xuất kinh
doanh, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trước pháp luật của
Nhà nước.
Hiện nay ở các quốc gia có rất nhiều cách hiểu khác nhau về kinh tế tư nhân. Ở các
quốc gia phát triển thì mọi hoạt động kinh tế không thuộc khu vực kinh tế nhà nước thì đều
được coi là khu vực kinh tế tư nhân. Các công ty tư nhân hay các hợp tác xã, các công ty
hợp danh của một nhóm người hay các công ty CP xuyên quốc gia cũng đều có đặc điểm
chung là những đơn vị sản xuất kinh doanh không phải của Nhà nước, các quyết định cho

hoạt động của doanh nghiệp luôn do cá nhân, hay đại diện của một hoặc một nhóm cá nhân

6


đề ra. Việc nhìn nhận này không chỉ thấy hết tiềm lực KTTN của một quốc gia, mà còn là
cơ sở cho phương thức quản lý thống nhất, bình đẳng đối với các loại hình sản xuất kinh
doanh trong xã hội.
Ở Việt Nam phạm vi của kinh tế tư nhân được thể hiện trong các văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc:
Theo quan điểm của Đảng ta thể hiện trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX:
Việc hiểu KTTN gắn liền với khái niệm thành phần kinh tế. Trong nền kinh tế của nước ta
theo quan niệm lúc đó có 6 thành phần kinh tế: kinh tế Nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá
thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài. Trong Nghị Quyết Hội nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX đã chỉ rõ: “…KTTN gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân hoạt động
dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhân…”.
Hộ kinh doanh cá thể là hình thức tồn tại của thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, dựa
trên sở hữu tư nhân nhỏ về tư liệu sản xuất. Hình thức này chủ yếu sử dụng lao động trong
gia đình, việc sử dụng lao động làm thuê không thường xuyên. Hộ kinh doanh cá thể là đơn
vị kinh tế độc lập tự chủ trong sản xuất kinh doanh, là chủ thể trong mọi quan hệ sản xuất và
tự chịu trách nhiệm về kết quả tài chính của mình.
Các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN là doanh nghiệp tư nhân, công
ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh. Các loại doanh nghiệp này
là hình thức tồn tại của thành phần kinh tế tư bản tư nhân, dựa trên sở hữu tư nhân lớn
về tư liệu sản xuất.
Theo quan điểm của Đảng tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X: Việc hiểu KTTN
tiếp tục gắn liền với khái niệm thành phần kinh tế.
Đảng ta xác định có 5 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, KTTN
(cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

KTTN gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân, được xác định có vai trò quan trọng, là
động lực của nền kinh tế.
Theo quan điểm của Đảng tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI: Thì KTTN là một
trong những động lực của nền kinh tế. Điều đó đã thể hiện KTTN được Đảng và Nhà nước
quan tâm hơn.

7


“Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một
trong những động lực của nền kinh tế. Phát triển mạnh các loại hình kinh tế tư nhân ở hầu
hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy hoạch và quy định của pháp luật. Tạo điều kiện
hình thành một số tập đoàn kinh tế tư nhân và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà
nước ... Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan
trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh”.
Dự thảo văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định: Kinh tế tư nhân là động lực để
phát triển đất nước. Nếu điều này được chính thức đưa vào văn kiện Đại hội XII thì KTTN
sẽ có một vị trí và vai trò mới, quan trọng giúp thành phần kinh tế này sẽ tăng trưởng nhanh
hơn về số lượng và chất lượng. Từ đó giúp nước ta phát triển kinh tế nhanh hơn, tạo ra
nhiều việc làm, tăng năng suất lao động và tạo ra nhiều hàng hóa để xuất khẩu.
1.1.2. Đặc điểm của kinh tế tư nhân
KTTN do một hoặc một nhóm người làm chủ sở hữu, họ có quyền quyết định hoạt
động kinh doanh của chính doanh nghiệp mình bởi lợi ích, mục đích là tối đa hóa lợi nhuận.
KTTN trong nền kinh tế thị trường sẽ vận động, phát triển theo hướng xã hội hóa
ngày càng cao dưới các hình thức công ty cổ phần, công ty hợp danh, công ty TNHH.
KTTN trong các chế độ chính trị khác nhau thì bản chất có khác nhau.
Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa KTTN giữ vai trò thống trị, nó phù
hợp với trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản lãnh

đạo thì KTTN là một bộ phận trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Nó chịu tác động qua
lại giữa các thành phần khác và sự định hướng của Nhà nước do Đảng cộng sản lãnh đạo. Ở
đây KTTN vẫn còn bóc lột, nhưng mức độ bóc lột đã được điều chỉnh phù hợp với lợi ích
của xã hội, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.
* Đặc điểm KTTN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
KTTN là một bộ phận trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nó
chịu sự tác động; phát triển trong khuôn khổ chiến lược Nhà nước và theo định hướng các
chính sách của Nhà nước.
KTTN của nước ta đại bộ phận mới được tái lập và xây dựng từ khi có đường lối đổi

8


mới của Đảng, chủ yếu từ năm 1990 trở lại đây. Phần lớn quy mô của các doanh nghiệp
thuộc khu vực KTTN nước ta có quy mô vừa và nhỏ, trình độ công nghệ còn lạc hậu, khả
năng đầu tư mở rộng và đầu tư chiều sâu còn hạn chế.
Xu hướng đầu tư của các DNTN là đầu tư vào những lĩnh vực có hiệu quả ngay, có
thể “đánh nhanh rút gọn khi có bất trắc xảy ra”. Số lượng DNTN trên tổng số dân đang hoạt
động trong còn hạn chế so với khu vực và trên thế giới, phần lớn là doanh nghiệp vừa và
nhỏ, chỉ có một số rất ít doanh nghiệp có quy mô lớn vì vậy mà DNTN trong nước khó cạnh
tranh được với các công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, và cũng khó cạnh tranh khi
các mặt hàng xuất khẩu ra thị trường quốc tế.
Một bộ phận không nhỏ chủ DNTN là cán bộ nhà nước đã nghỉ hưu, con em các gia
đình cán bộ…nên mang đến nguy cơ làm tha hóa bộ máy Nhà nước.
KTTN của nước ta ít có quan hệ rộng rãi và thiếu kinh nghiệm thương trường cũng
là một đặc điểm và cũng là nhược điểm cần khắc phục.
KTTN phân bố không đều, chủ yếu tập trung vào những vùng mà cơ sở hạ tầng
thuận lợi, dân cư đông đúc, trong một số ngành có suất sinh lời cao. Trình độ phát triển
KTTN giữa các vùng còn chênh lệch: giữa miền núi và miền xuôi, giữa nông thôn và thành
thị, giữa miền Nam và miền Bắc.

Trình độ văn minh trong kinh doanh của khu vực KTTN còn nhiều hạn chế: làm ăn
chụp giật, gian lận thương mại, trốn thuế, buôn bán hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất
lượng vẫn thường xuyên xảy ra…
Với những đặc điểm trên đây KTTN của nước ta không còn thuần túy là tư nhân
như ở các nước tư bản mà đã có những thay đổi trong bản chất của nó. Tuy nhiên đó không
phải là thay đổi căn bản. Đồng thời những đặc điểm trên cũng cho thấy KTTN nước ta mới
được tái lập trở lại chưa lâu nên thời gian qua mới là thời kỳ tích lũy nguyên thủy, nên cần
tạo điều kiện để nó có thể đạt tới đỉnh cao trong phát triển, phát huy tối đa vai trò với sự
phát triển kinh tế xã hội của đất nước, bắt kịp với trình độ các nước trong khu vực và trên
thế giới.
Các loại hình sản xuất, kinh doanh trong khu vực kinh tế tư nhân:
Hộ cá thể: Loại hình hộ cá thể thực chất là KTTN có quy mô nhỏ, là đơn vị trực tiếp
sản xuất kinh doanh, có thuê mướn lao động nhưng chưa thành lập doanh nghiệp theo Luật

9


Doanh nghiệp. Hộ cá thể tồn tại như một tất yếu và mang tính đặc thù của nền kinh tế nhỏ
lẻ, đang phát triển ở trình độ thấp bắt nguồn từ nông nghiệp như nước ta. Loại hình hộ cá
thể đang tồn tại phổ biến ở nước ta hiện nay như các trang trại, chủ thầu xây dựng nhỏ, chủ
cửa hàng, xưởng sản xuất...
Doanh nghiệp tư nhân: một loại hình doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Theo
Luật doanh nghiệp, chủ DNTN là người đại diện của doanh nghiệp có toàn quyền quyết
định đối với tất cả các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, sử dụng lợi nhuận sau khi
nộp thuế và thực hiện các nghiệp vụ tài chính khác theo pháp luật quy định; có thể trực tiếp
hoặc giao cho người khác quản lý điều hành hoạt động kinh doanh. Nếu giao cho người
khác quản lý phải khai báo với cơ quan đăng kí kinh doanh và phải chịu trách nhiệm về mọi
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
DNTN có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

Công ty trách nhiệm hữu hạn: Là doanh nghiệp trong đó thành viên chịu trách nhiệm
về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã
cam kết góp vào doanh nghiệp. Thành viên của công ty có thể là tổ chức, cá nhân; tối đa
không vượt quá năm mươi người. Công ty TNHH có tư cách pháp nhân kể từ ngày được
cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, công ty TNHH không được phát hành
cổ phiếu để huy động vốn.
Công ty TNHH có từ hai thành viên trở lên phải có Hội đồng thành viên, Chủ tịch
Hội đồng thành viên, Giám đốc. Công ty TNHH có trên mười một thành viên phải có ban
kiểm soát.
Công ty TNHH là loại hình doanh nghiệp phổ biến nhất ở Việt Nam hiện nay. Hoạt
động kinh doanh dưới hình thức công ty TNHH đem lại cho nhà đầu tư nhiều lợi thế.
Công ty CP là doanh nghiệp có Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau
gọi là cổ phần; Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các khoản nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; Cổ đông có quyền tự do
chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp cổ đông sở hữu cổ phần
ưu đãi biểu quyết; Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và
không hạn chế tối đa.

10


Công ty CP có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh. Được phát hành cổ phiếu để huy động vốn.
1.1.3. Vị trí và vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay
1.1.3.1. Vị trí của kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân tại Việt Nam đã trải qua nhiều thăng trầm trong lịch sử. Từ chỗ
không được thừa nhận, rồi trở thành bộ phận không thể thiếu, phát triển thành một phần
quan trọng, và ngày hôm nay đang được xem là động lực quan trọng của nền kinh tế.
Với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. vị trí của KTTN dần được

khẳng định một cách rõ nét. Nó là một bộ phận cấu thành không thể thiếu của nền kinh tế
quốc dân.
1.1.3.2. Vai trò của kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay
Trong suốt 2 thập niên qua, khu vục kinh tế tư nhân của VN đã trải qua nhiều biến động
và không ngừng phát triển. Khu vực này đã góp phần vào những thành công trong phát triển
kinh tế ở VN, trong đó có việc đưa Việt Nam ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp.
Trong giai đoạn phát triển mới, việc xây dựng đất nước với một nền kinh tế hiện
đại phải dựa trên nền tảng năng suất lao động cao và hiệu quả hoạt động của khu vực kinh
tế tư nhân.
Nếu như năm 2000, khu vực tư nhân đóng góp 22,9% trong tổng vốn đầu tư, thì đến
năm 2013 đã đóng góp 37,6%, tạo ra 14,5 triệu việc làm và chiếm 76,7% tổng số việc làm
phi nông nghiệp hiện nay.
KTTN khai thác và tận dụng có hiệu quả tiềm năng về vốn, các nguồn nguyên liệu ở
từng địa phương. Phát triển KTTN sẽ tạo ra nguồn đầu tư quan trọng đóng góp vào quá
trình tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế quốc dân.
KTTN phát triển sẽ tạo việc làm cho một lượng lớn lao động, khu vực KTTN đang
tạo ra khoảng 90% số việc làm cho toàn xã hội, bảo đảm đời sống cho hàng triệu hộ gia
đình và do đó góp phần vào việc ổn định kinh tế- xã hội. Do có quy mô vừa và nhỏ, các cơ
sở và DNTN dễ thích nghi với điều kiện nông thôn, nơi có nhiều lao động nhàn rỗi, giải
quyết việc làm, giảm thất nghiệp. Vai trò này càng có ý nghĩa quan trọng hơn trong điều
kiện nước ta đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,

11


nông thôn.
KTTN tạo ra nhiều sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong
nước và xuất khẩu, góp phần bình ổn giá cả, kiềm chế lạm phát. Khu vực KTTN có thế
mạnh trong việc huy động vốn, khai thác các tiềm năng khác có hiệu quả, đóng góp ngày
càng lớn cho ngân sách Nhà nước...

KTTN giữ vai trò hỗ trợ, bổ sung cho khu vực kinh tế thuộc sở hữu Nhà nước, tạo
thành mối liên kết cùng hợp tác, cùng cạnh tranh để cùng phát triển. Vai trò hỗ trợ không
chỉ tạo ra hàng hoá đáp ứng nhu cầu tiêu dùng mà còn là động lực để kinh tế nhà nước thực
hiện tốt vai trò chủ đạo của mình thông qua cạnh tranh. Với sự xuất hiện ngày càng nhiều
các chủ thể kinh tế tư nhân.
KTTN tạo lập sự cân đối về phát triển kinh tế giữa các vùng, góp phần tích cực vào
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn.
KTTN góp phần nâng cao chất lượng lao động, nuôi dưỡng tiềm năng trí tuệ kinh
doanh. Tiềm năng, trí tuệ, kinh nghiệm quản lý, tay nghề lao động và kinh nghiệm sản xuất
kinh doanh được tích luỹ, lưu truyền trong từng ngành nghề sẽ góp phần quan trọng cho
tăng trưởng kinh tế bền vững.
1.1.3.3. Những hạn chế của kinh tế tư nhân
Hạn chế về quy mô: Khu vực KTTN đa số là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Quy mô
nhỏ làm cho doanh nghiệp khó tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng chính thống từ các tổ
chức Ngân hàng.
Hạn chế về nguồn lực: Thiếu vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh: Sự phát triển
của khu vực KTTN đã góp phần sử dụng tốt hơn nguồn vốn đầu tư trong xã hội. Tuy nhiên
với tiềm năng phát triển của khu vực kinh tế này thì vốn là một vấn đề đang đặt ra cho kinh
tế tư nhân. Thiếu vốn thể hiện ở tình trạng quy mô nhỏ của các cơ sở thuộc kinh tế tư nhân.
Hầu hết các doanh nghiệp thuộc KTTN đều có quy mô nhỏ và vừa, bình quân vốn của mỗi
doanh nghiệp đăng ký khoảng hơn 6 tỷ đồng. Quy mô nhỏ tạo điều kiện cho khu vực
KTTN dễ dàng thích ứng với sự thay đổi của thị trường…Tuy nhiên, vốn ít lại chính là rào
cản chính cho doanh nghiệp khi muốn mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ.
Chất lượng lao động còn thấp: Làm việc trong khu vực KTTN còn thiếu những lao

12


động có trình độ chuyên môn cao, thiếu đội ngũ công nhân lành nghề. Trình độ học vấn của

lao động trong khu vực tư nhân còn thấp, đa phần là lao động phổ thông.
Ý thức chấp hành pháp luật kém: Nhiều đơn vị KTTN chưa thực hiện tốt những quy
định của pháp luật về lao động, hợp đồng lao động, chế độ bảo hiểm, tiền lương, tiền công,
bảo hộ lao động, giờ làm việc đối với người lao động, không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ các quy định về sổ sách kế toán, hóa đơn chứng từ, báo cáo định kỳ…. Hiện
tượng kinh doanh vi phạm pháp luật, không đăng ký kinh doanh, trốn lậu thuế, gian lận
thương mại, kinh doanh trái phép vẫn còn diễn ra ở một bộ phận các cơ sở kinh tế tư nhân.
Trình độ và khả năng đổi mới kỹ thuật, công nghệ thấp: Máy móc, thiết bị công
nghệ của khu vực KTTN còn lạc hậu, chắp vá và chậm đổi mới. Nhiều cơ sở mới thành lập
nhưng vẫn còn sử dụng công nghệ lạc hậu đã thải ra từ nước ngoài.
Chưa có các cơ sở tư nhân trong các lĩnh vực quan trọng và có sự phân bổ không
đều giữa các vùng miền trong nền kinh tế.
Trong những năm gần đây sự phát triển của khu vực KTTN cũng vẫn tập trung vào
lĩnh vực dịch vụ, trong khi đó dịch vụ tập trung ở những nơi đông dân cư, chính điều này
dẫn tới sự mất cân đối giữa các vùng trong quá trình phát triển.
Khả năng tiếp cận thị trường yếu: Khả năng cạnh tranh, tiếp cận thị trường của các
DNTN Việt Nam còn thấp, đặc biệt là trong khâu tiếp thị, quảng bá thương hiệu, hình ảnh
của sản phẩm và hình ảnh của doanh nghiệp.
Hiệu quả kinh doanh: Còn có những hạn chế nhất định do chất lượng sản phẩm chưa
đồng đều, mẫu mã chưa phong phú, đa dạng, kênh phân phối chưa rộn.
1.1.4. Tiêu chí đánh giá hiệu quả phát triển kinh tế tư nhân
Để đánh giá hiệu quả phát triển kinh tế của quốc gia dựa trên phát triển kinh tế tư
nhân cần phải xây dựng hệ thống tiêu chí cụ thể, rõ ràng, công khai minh bạch. Từ hệ
thống tiêu chí việc QLNN trong phát triển kinh tế tư nhân được dễ dàng hơn, khắc
phục tình trạng không bền vững, nguồn vốn tập trung không đúng nơi, đúng chỗ. Luận
văn đề xuất 03 tiêu chí cơ bản sau đây:
- Tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo: Việc tạo ra nhiều chỗ làm việc mới đã góp
phần thu hút nhiều lao động trong xã hội, nhất là số người lao động trẻ tuổi hàng năm
đến độ tuổi lao động chưa có việc làm, giải quyết số lao động dôi dư hàng năm từ các


13


cơ quan, doanh nghiệp nhà nước do tinh giảm biên chế, giải thể. Phát triển kinh tế tư
nhân góp phần tạo công ăn, việc làm, xóa đói, giảm nghèo đối với các gia đình, địa
phương đem lại thu nhập cho người lao động.
- Huy động các nguồn vốn trong xã hội sử dụng vào sản xuất, kinh doanh đóng
góp phần lớn vào ngân sách nhà nước
- Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.2. Cơ sở thực tiễn phát triển kinh tế tư nhân
1.2.1. Tình hình phát triển KTTN ở một số nước trên thế giới
Đa số các nước trong quá trình phát triển kinh tế của mình đều xác định phát triển
KTTN là một nhiệm vụ quan trọng, KTTN có vai trò lớn đối với sự phát triển kinh tế chung
của quốc gia. Các nước đều chủ trương tiếp tục đẩy mạnh phát triển khu vực kinh tế tư
nhân, chủ động đón nhận toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là ngành công
nghiệp; phát triển kinh tế tri thức, phát triển các tập đoàn kinh tế đủ sức giữ vững thị phần
trong nước và cạnh tranh hiệu quả ở nước ngoài trên cơ sở đa dạng hoá, linh hoạt hoá và
hiện đại hoá công nghệ sản xuất và dịch vụ cung ứng sản phẩm, hoàn thiện hơn cơ chế thị
trường và tăng cường cải thiện môi trường kinh doanh theo các cam kết, tiêu chuẩn và
thông lệ quốc tế.
Để phát huy vai trò cũng như những đóng góp của KTTN với nền kinh tế đất nước,
các nước đang phát triển cũng như các nước phát triển trên thế giới đều xây dựng cho mình
những cơ chế chính sách, những giải pháp hỗ trợ một cách phù hợp nhất đối với khu vực
KTTN trong điều kiện nước mình.
Miễn giảm thuế, hỗ trợ gia công xuất khẩu, cho phép các công ty tư nhân được phép
xuất khẩu trực tiếp. Cải thiện môi trường kinh doanh. Thành lập các trung tâm hỗ trợ phát
triển doanh nghiệp. Tăng cường cung cấp thông tin về thị trường. Có các chính sách hỗ trợ
về vốn, ưu đãi đối với khu vực kinh tế tư nhân.
Hầu hết các doanh nghiệp của các nước đều đặt trọng tâm ưu tiên vào xây dựng phát
triển thị trường có dung lượng lớn, sức tiêu thụ cao của các nước phát triển nhằm khai thác

tối đa các lợi thế cạnh tranh của mình như tài nguyên thiên nhiên, lao động rẻ...
Hệ thống xúc tiến thương mại được đặc biệt coi trọng phát triển. Trong những năm
gần đây, đa số các nước đều từng bước đề ra và xúc tiến một loạt các chính sách tự do hoá

14


thương mại, tự do hoá đầu tư, khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đối với các doanh nghiệp trong nước, thời gian đầu chỉ đảm nhận công việc đại lý,
liên doanh, liên kết với các công ty lớn của nước ngoài. Từ đó họ trưởng thành và đảm nhận
các công việc phức tạp hơn có lợi nhuận cao hơn như: nhà thầu phụ, sản xuất linh kiện hoặc
trở thành công ty con, rồi các công ty độc lập sản xuất các sản phẩm có thương hiệu riêng.
* Tại Trung Quốc:
Hội nghị Trung ương 3 khóa XI Đảng cộng sản Trung Quốc (2004) đã khẳng định
kinh tế dân doanh là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa. Kinh tế dân doanh ở Trung Quốc bao gồm 4 loại chính là hộ kinh doanh cá thể,
xí nghiệp tư nhân, xí nghiệp khoa học kỹ thuật dân doanh và xí nghiệp hương trấn đã được
cải tạo, trong đó hộ kinh doanh cá thể chiếm số lượng đông nhất với 300 triệu hộ, có số vốn
đăng ký khoảng 25000 tỷ NDT và thu hút 450 triệu lao động. Trong hơn 20 năm qua bộ
phận kinh tế này đã phát triển mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng hơn 20%/năm, chiếm
khoảng 65% tổng sản lượng kinh tế Trung Quốc.
Theo SAIC (Ban quản lý công nghiệp và thương mại nhà nước của Trung Quốc) các
DNTN và cá nhân đã duy trì phát triển với sản lượng chung tăng 16,1% và đối với cá nhân
tự doanh đã tăng 9,4%. “Sự tăng trưởng đều đặn như thế đã làm nhẹ bớt áp lực việc làm của
quốc gia”.
Khoảng 132 triệu doanh nghiệp mới do cá nhân tự doanh điều hành đã đăng ký
trong năm 2006, tăng 5,4% so với năm trước đó, nâng tổng số doanh nghiệp cá nhân của
Trung Quốc lên gần 26 triệu.
Tổng tài sản của họ tăng 11,4% - hoặc 65,93 tỉ nhân dân tệ - lên 646,9 tỉ nhân dân tệ,
với tài sản bình quân tăng 1.343 nhân dân tệ, hoặc 5,7%, lên 25.000 nhân dân tệ.

Hơn 80% cá thể doanh nghiệp cá nhân tham gia lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, chủ yếu
là bán buôn và bán lẻ.
Để hỗ trợ cho KTTN và các loại hình doanh nghiệp phát triển vững chắc, có đóng
góp ngày càng nhiều cho nền kinh tế. Trung quốc tiến hành thành lập nhiều cơ quan với các
chức năng khác nhau hỗ trợ và quản lý phát triển các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN
nói riêng và các loại hình doanh nghiệp nói chung như: ủy ban đổi mới và quản lý quốc gia,
cơ quan xây dựng các chiến lược nòng cốt để phát triển và đổi mới nền kinh tế, trong đó bao

15


gồm một loạt các chính sách xúc tiến, quan tâm phát triển KTTN và các doanh nghiệp
thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Thành lập các phòng, các cơ quan nghiên cứu, hỗ trợ các
doanh nghiệp về thị trường, nghiên cứu chính sách, phát triển, đổi mới công nghệ, máy móc
thiết bị.
Ngoài việc thành lập các cơ quan chức năng ở Trung ương và các địa phương nhằm
hỗ trợ thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân. Chính phủ Trung Quốc còn thể hiện sự nhạy
bén, tầm nhìn chiến lược trong việc hoạch định chính sách và xây dựng các chương trình cụ
thể nhằm thu hút tối đa các nguồn lực tư nhân trong và ngoài nước vào sự nghiệp phát triển
kinh tế đất nước. Thực hiện chính sách mở cửa, hỗ trợ xuất khẩu, miễn giảm thuế đối với
khu vực KTTN đặc biệt khuyến khích các DNTN tại địa phương phát triển. Có chính sách
hỗ trợ về tài chính, tín dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các doanh nghiệp thuộc
khu vực KTTN trong việc đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị, nâng cao năng suất lao
động. Các công ty tư nhân của Trung Quốc được phép xuất khẩu trực tiếp, chính sách hoàn
thuế và điều chỉnh linh hoạt về tỷ giá là công cụ được sử dụng để hỗ trợ xuất khẩu cho
doanh nghiệp.
Không ngừng cải thiện môi trường đầu tư bằng việc hoàn thiện các chính sách kinh
tế vĩ mô, tạo môi trường bình đẳng cho các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế phát
triển. Cụ thể xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, xây dựng các khu công nghiệp tập
trung, các khu chế xuất tại các vùng, miền trong cả nước, đơn giản hóa các thủ tục hành

chính, các thủ tục phê duyệt dự án đầu tư, giao quyền cho cơ sở, tạo sự tự chủ cho chính
quyền địa phương trong việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế gắn với điều kiện thực
tế của từng địa phương. Khuyến khích tư nhân nước ngoài cũng như công dân Trung quốc
ở nước ngoài về nước thành lập công ty, đầu tư vốn vào lục địa với chính sách không phân
biệt, đối xử.
Từng bước đi, Quyết sách của Trung Quốc trong vấn đề phát triển KTTN là bài
học kinh nghiệm sâu sắc mà Việt Nam cần quan tâm nghiên cứu, từ đó rút ra giá trị
cho riêng mình.
* Tại Hoa Kỳ:
Hoa Kỳ là quốc gia đặc trưng của chủ nghĩa Tư bản, có nền kinh tế thị trường phát
triển mạnh bậc nhất trên thế giới, tại thị trường Hoa kỳ khu vực KTTN phát triển mạnh mẽ

16


và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước này, các doanh nghiệp thuộc khu vực
KTTN mà trong đó trên 90% là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hàng năm đóng góp trên
50% giá trị tổng sản lượng của toàn nền kinh tế.
Một loại hình DNTN mới nhưng ngày càng đóng vai trò lớn trong nền kinh tế Mỹ là
các doanh nghiệp” Tại gia”. Các doanh nghiệp tại gia có thể gọi là các doanh nghiệp siêu
nhỏ hiện chiếm tới 53% tổng số doanh nghiệp nhỏ ở Mỹ. Các doanh nghiêp tư nhân tại gia
này hoạt động trong các lĩnh vực dịch vụ (52%), xây dựng (16%), bán lẻ (14%), ngoài ra
các doanh nghiệp này còn hoạt động trong lĩnh vực tài chính, bảo hiểm và bất động sản
(5%) giao thông vận tải và tiện ích (4%), chế tạo (3%) và bán buôn (3%).
KTTN Mỹ không chỉ đóng góp về giá trị kinh tế cho nền kinh tế Mỹ mà còn thể hiện
vai trò nổi bật trong tạo và giải quyết việc làm cho lao động. Khu vực KTTN giải quyết trên
90% số việc làm trong nền kinh tế cũng như số chỗ làm mới hàng năm.
Để tạo điều kiện hỗ trợ, thúc đẩy KTTN phát triển tại Mỹ cơ quan chính phủ Mỹ
chia ra các phòng ban khác nhau để hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Cục kinh doanh và kinh tế
có vai trò xúc tiến các doanh nghiệp ra thị trường ngoài nước thông qua đàm phán nhằm

giảm các rào cản thương mại và đầu tư, đòi hỏi ưu đãi, bảo vệ quyền sở hữu cho các doanh
nghiệp Mỹ. Ngoài ra Mỹ còn thành lập các Ủy ban cố vấn thương mại, chính sách cho
chính phủ trong việc ra các quyết sách có liên quan đến các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh
nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân, thành lập các Trung tâm tại các địa phương và Trung
ương với nhiệm vụ hỗ trợ các doanh nghiệp về tài chính, marketing, sản xuất, tổ chức giải
quyết các vấn đề về khoa học và kỹ thuật, các nghiên cứu khả thi, thương mại quốc tế, hỗ
trợ về khoa học công nghệ, về lợi nhuận...
Có thể nói rằng những vấn đề liên quan đến phát triển KTTN được chính phủ Mỹ
hết sức quan tâm và có đường lối chính sách, giải pháp, công cụ thực hiện có hiệu quả mà
qua đó Việt Nam cần học hỏi và áp dụng sáng tạo cho phù hợp với tình hình thực tiễn trong
phát triển kinh tế tư nhân.
1.2.2. Tình hình phát triển KTTN ở Việt Nam
Những năm 1958 - 1960, thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở miền Bắc
chúng ta đã lên án tư hữu, coi nó là biểu hiện của phương thức sản xuất lạc hậu, không
tương thích với chủ nghĩa xã hội (CNXH). Vì vậy, đã phát động phong trào đưa nông dân ồ

17


ạt vào hợp tác xã từ bậc thấp đến bậc cao. Lối làm ăn tập thể kiểu cũ kéo dài về cơ bản
cho đến những năm 80 của thế kỷ trước. Những doanh nghiệp tư bản tư nhân được vận
động tham gia công tư hợp doanh, nhưng về thực chất thì gần như bị quốc hữu hóa và
hoạt động giống xí nghiệp quốc doanh. Tình hình đó còn lặp lại sau ngày thống nhất đất
nước năm 1975.
Không thể phủ nhận kinh tế hợp tác xã đã có vai trò to lớn trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, bảo đảm hậu phương vững chắc cho tiền tuyến đánh giặc. Nhưng
cũng không thể nói khác là kinh tế hợp tác xã theo kiểu chúng ta xây dựng, về cơ bản, đã
kìm hãm lực lượng sản xuất, gần như triệt tiêu động lực tích cực và sáng tạo của người lao
động. Trong khi đó, chỉ với 5% ruộng đất mà mỗi hộ xã viên được nhận để tự canh tác nếu
sản xuất hiệu quả thì đã có thể nuôi sống cả gia đình.

Điều nói trên chứng minh tính đúng đắn trong luận điểm của C. Mác rằng, không
một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã
hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất
mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của
những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ.
Vậy mà sau chiến tranh một thời gian dài, kinh tế tập thể kiểu cũ vẫn được duy trì.
Chúng ta không thừa nhận kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế cả trong đường lối,
chính sách lẫn trong thực tế.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) chúng ta mới thừa
nhận có thành phần kinh tế tư nhân. Nghị quyết Đại hội viết sâu sắc về vấn đề này: nền kinh tế
nước ta kém phát triển không chỉ vì lực lượng sản xuất lạc hậu, mà còn vì quan hệ sản xuất đi
trước quá xa tính chất và trình độ lực lượng sản xuất. Nói cách khác là không phù hợp.
Nhưng khắc phục tư duy cũ không phải là việc có thể hoàn thành trong “một sớm
một chiều” mà đòi hỏi một quá trình. Còn nhớ hồi đầu năm 1987, ngay sau Đại hội VI,
tháng 12-1986, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã đi thăm một số cơ sở sản xuất tư
nhân ở nội và ngoại thành Hà Nội. Lúc bấy giờ đó là điều hiếm thấy, xa lạ với nhiều người,
khiến một số đồng chí trong Đảng, kể cả cán bộ cấp cao, cũng băn khoăn. Nghị quyết của
Đảng đã có, nhưng để đi vào cuộc sống thật không dễ dàng.

18


Trong sản xuất tập thể, đến năm 1981, Chỉ thị số 100-CT/TW của Ban Bí thư về
khoán sản phẩm mới chỉ nói đến nhóm và người lao động. Nghĩa là còn phải nói đến tập thể
- nhóm. Nhưng đến năm 1988 với “khoán 10” đã cho phép khoán đến hộ gia đình. Động
lực mới cho sản xuất theo đó cũng được tăng lên.
Từ những năm 90 của thế kỷ trước chúng ta đã cho phép đảng viên làm kinh tế tư
nhân. Đến năm 2002, Đảng ta ban hành nghị quyết riêng về kinh tế tư nhân. Nghị quyết coi
kinh tế tư nhân là bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là
vấn đề chiến lược lâu dài. Nghị quyết yêu cầu sửa đổi một số cơ chế, chính sách, theo đó

kinh tế tư nhân có thể thụ hưởng những chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với các ngành,
các vùng, các sản phẩm và dịch vụ cần ưu tiên, khuyến khích phát triển không phân biệt
thành phần kinh tế. Nhà nước có chính sách hỗ trợ về đào tạo, khoa học và công nghệ, về
thông tin, xúc tiến thương mại. Đại hội X (năm 2006) thừa nhận kinh tế tư nhân là một
trong những động lực của nền kinh tế. Đại hội XI (năm 2011) khuyến khích thành lập các
tập đoàn kinh tế tư nhân và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước. Tư nhân
không chỉ hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu mà còn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Gần đây Nhà nước khuyến khích tư nhân đầu tư vào các công trình kết cấu hạ tầng lớn, sử
dụng rộng rãi hình thức công - tư trong hoạt động kinh tế...
Như vậy, về mặt pháp lý và thực tế, kinh tế tư nhân đã có chỗ đứng vững chắc trong
nền kinh tế đất nước. Dĩ nhiên, chưa thể nói là tiềm năng của nó đã được huy động đầy đủ,
mặc dù so với trước đây đã có những bước tiến khá dài.
Cách đây 12 năm, ngày 20/9/2004, Thủ tướng Phan Văn Khải đã ký quyết định lấy
ngày 13/10 hằng năm làm Ngày Doanh nhân Việt Nam.
Gần đây, trong Hiến pháp mới, lần đầu tiên vai trò của doanh nhân được hiến
định.Trong Quốc hội hiện nay có sự tham gia của đội ngũ doanh nhân với 36 đại biểu có
tiếng nói trực tiếp trong cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước.
Cải cách kinh tế của Việt Nam thời gian qua thực chất là quá trình khẳng định sự
khôi phục lại vai trò kinh tế tư nhân trong nền kinh tế. Khi Việt Nam thực hiện quá trình đổi
mới, vai trò của khu vực kinh tế tư nhân dần được xác lập lại với nỗ lực không mệt mỏi của
toàn xã hội, trong đó có vai trò quan trọng của cộng đồng doanh nghiệp (DN).

19


Năm 2000, Luật Doanh nghiệp đã xác lập khuôn khổ pháp lý của khu vực kinh tế tư
nhân. Bộ chính trị cũng ra một nghị quyết riêng (Nghị quyết 09) về doanh nhân, khẳng định
vai trò của đội ngũ doanh nhân trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Khu vực tư nhân có vai trò ngày càng quan trọng trong phát triển kinh tế. Trước đổi
mới, Việt Nam có khoảng 15.000 DN tư nhân, trong quá trình phát triển, con số này tăng

lên trên 500.000 và mỗi năm có khoảng 80.000 DN thành lập.
Khu vực DN nhà nước cho đến thời điểm hiện nay có 1.000, thay vì trước đổi mới
có trên 10.000 và theo tiến trình cổ phần hóa đến hết năm 2015, sẽ giảm xuống còn 432.
Như vậy, xét về mặt số lượng, khu vực kinh tế tư nhân đang trở thành lực lượng áp đảo
trong nền kinh tế, đóng góp rất quan trọng trong việc tạo ra công ăn việc làm, tạo ra nguồn
thu của ngân sách, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế.
Đối với một nền kinh tế tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường, những thành
quả như vậy là rất to lớn, là thành quả quan trọng bậc nhất của quá trình đổi mới về kinh tế
của Việt Nam.
Hiện nay, tất cả các văn bản pháp luật liên quan đến kinh tế đều được Quốc hội,
Chính phủ yêu cầu trước khi ban hành phải có ý kiến của DN tư nhân thông qua VCCI.
Nghị quyết 19 của Chính phủ ban hành hồi đầu năm là bước đột phá về thể chế đối với khu
vực kinh tế tư nhân.
Chưa bao giờ vai trò của cộng đồng DN được đặt ra ở tầm cao như vậy. Để có được
tiếng nói mạnh mẽ đó của khu vực kinh tế tư nhân, của khu vực DN đối với quá trình làm
chính sách của Việt Nam, phải kể đến sự đồng hành của các tổ chức quốc tế, trong đó có Cơ
quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ tại Việt Nam (USAID Vietnam).
Dự án đánh giá năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) do USAID hỗ trợ và đồng hành
cùng cộng đồng DN suốt 9 năm qua là điển hình đề cao tiếng nói, vai trò của khu vực tư
nhân trong quá trình đổi mới nền kinh tế. PCI đã trở thành công cụ đo sự hài lòng của DN
đối với chính quyền địa phương trong quá trình phân cấp mạnh mẽ quyền điều hành kinh tế
về địa phương.
Tác động của chỉ số PCI không chỉ giúp DN giảm bớt việc thực hiện các thủ tục
hành chính ở địa phương mà còn giúp các địa phương nâng cao năng lực cạnh tranh,

20


×