Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận cơ cấu dân số VÀNG của VIỆT NAM, cơ hội và THÁCH THỨC để PHÁT TRIỂN KINH tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (476.53 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ QUỐC TẾ
_________o0o_________

TIỂU LUẬN
Môn: Kinh tế phát triển

Đề tài

CƠ CẤU DÂN SỐ VÀNG CỦA VIỆT NAM, CƠ HỘI VÀ
THÁCH THỨC ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 4
Lớp tín chỉ: KTE406(1-1718).1_LT
Giảng viên hướng dẫn:

HÀ NỘI – THÁNG 9 NĂM 2017
1


MỤC LỤC

2


LỜI MỞ ĐẦU

3


CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ CƠ CẤU DÂN SỐ


VÀNG
1.1.

Khái niệm chung
-

Cơ cấu dân số:

Cơ cấu dân số là sự phân chia dân số thành các bộ phận theo những tiêu chí
nhất định, độ tuổi, nghề nghiệp, giới tính, trình độ, nghiên cứu sinh học
Theo cách xác định trên, cơ cấu dân số nhằm phản ánh các đặc trưng của mỗi
người dân và của toàn bộ dân số. Các đặc trưng về giới tính, độ tuổi phản ánh về nhân
khẩu học, các đặc trưng về dân tộc, tôn giáo, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn
phản ánh về mặt kinh tế. Ngoài ra các đặc trưng khác về giai cấp, thành phần xã hội
nhằm phân loại tập hợp người theo các khía cạnh của đời sống xã hội
-

Cơ cấu dân số vàng:

Theo định nghĩa của Ban Chỉ đạo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Trung ương,
“cơ cấu dân số vàng” là thời kỳ mà tỉ trọng trẻ em dưới 15 tuổi giảm xuống dưới 30%
và tỉ trọng người già từ 65 tuổi trở lên còn ở mức dưới 15% trong tổng dân số
Còn theo định nghĩa của Liên hợp quốc, dân số của một quốc gia đạt cơ cấu
“dân số vàng” khi tỷ số phụ thuộc chung nhỏ hơn 50%, hay nói cách khác có trên 2
người trong độ tuổi lao động trên 1 người trong độ tuổi phụ thuộc.
(Tổng tỷ suất phụ thuộc: Là đại lượng được xác định bởi số người trong độ tuổi
(0-14) cộng với số người trong độ tuổi (65+) chia cho số người trong độ tuổi (15-64)
1.2.

Tác động của dân số đến phát triển kinh tế ở Việt Nam

Dân số - Lao động - Việc làm phát triển đồng đều, cân bằng, phù hợp phát triển

kinh tế xã hội là lý tưởng.
Kinh tế tăng chậm trong khi dân số tăng còn cao sẽ kìm hãm sự phát triển kinh
tế làm tăng số người thiếu việc làm , thất nghiệp .Gây sức ép lớn đối với giáo dục, y
tế , văn hóa . Các vấn đề giải phóng phụ nữ, việc làm , nhà ở ….không đáp ứng được.
Gia tăng dân số nhanh đã tạo nên sức ép lớn trong việc việc phát triển kinh tế,
nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo vệ tài nguyên, môi trường Chính sách phát
triển dân số phải hợp lí và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động. Bên cạnh đó, việc làm
4


đang một vần đề xã hội ở nước ta, hiện nay đang được tập trung giải quyết và bước
đầu thu hiệu quả tốt. Nền kinh tế tăng trưởng cao có tác động tích cực đến vấn đề việc
làm thông qua sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, sự chuyển dịch mạnh mẽ cơ
cấu kinh tế, sự can thiệp của nhà nước thông qua các chương trình việc làm, chương
trình kinh tế xã hội, phát triển các làng nghề…
1.2.1.

Mối quan hệ giữa dân số và lao động

Dân số và nguồn lao động có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Dân số là
cơ sở tự nhiên hình thành nên nguồn lao động - lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội.
Nguồn lao động là bộ phận dân số trong tuổi lao động và có khả năng lao động - bộ
phận dân số chủ lực và năng động nhất trong dân số, nó quyết định và chi phối toàn bộ
hoạt động sản xuất của xã hội.
Theo thống kê của Tổng cục Dạy nghề (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội),
hiện nay, Việt Nam còn khoảng 70% lao động chưa được đào tạo nghề. Bên cạnh đó,
khoảng 70% dân số Việt Nam sinh sống và làm việc ở nông thôn, trong khi nông dân
hiện nay mới sử dụng 40% thời gian cho sản xuất nông nghiệp, còn lại 60% thời gian

là nông nhàn.
1.2.2.

Mối quan hệ giữa dân số và việc làm

Dân số vừa là yếu tố của sản xuất nhưng đồng thời nó còn đóng vai trò như là
yếu tố của tiêu dùng. Là yếu tố của sản xuất, dân số được xem xét như là chủ thể quyết
định quy mô, phân bố cơ cấu và chất lượng nguồn lao động (cung lao động). Là yếu tố
của tiêu dùng, quy mô, cơ cấu, phân bố và chất lượng dân số qui định qui mô, cơ cấu
chất lượng và sự phân bố các ngành, nghề các lĩnh vực hoạt động sản xuất của xã hội,
chi phối nội dung, tính chất của việc làm (cầu về lao động) trong toàn bộ nền kinh tế
quốc dân.
1.2.3.

Mối quan hệ giữa dân số và an sinh xã hội và y tế

Dân số tăng nhanh hay tốc độ chuyển tiếp dân số nhanh chóng cũng sẽ đặt ra
thách thức cho hệ thống an sinh xã hội. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nếu không bắt kịp
tốc độ dân số tăng, thì an sinh xã hội sẽ không đủ để đảm bảo đời sống cho người dân.
Điển hình là với người cao tuổi, trong khi đời sống vật chất của người cao tuổi còn gặp
rất nhiều khó khăn, các vấn đề như trợ cấp nhà nước, lương hưu cho người cao tuổi sẽ
5


không đáp ứng được nhu cầu thiết yếu. Đối với các nước đang phát triển, phần lớn
người cao tuổi, đặc biệt là ở vùng sâu vùng xa hay miền núi vẫn phải tự kiếm sống
hoặc nhờ vào sự nuôi dưỡng và chăm sóc của con cái.
Và an sinh xã hội luôn đi liên với y tế. Và trong trường hợp này, dân số tăng
nhanh, an sinh xã hội không đảm bảo cũng tác động đến vấn đề y tế nói chung, khiến
chất lượng trong khám chữa bệnh không thể đạt mức tối đa do các vấn đề về tiền phí,

bảo hiểm y tế…. Hệ thống dịch vụ chăm sóc người cao tuổi còn rất thiếu trong khi nhu
cầu điều trị của người cao tuổi ngày càng tăng; cơ cấu tổ chức và năng lực chăm sóc
người cao tuổi chưa đáp ứng yêu cầu; chưa có chính sách tốt trong khám và chăm sóc
người cao tuổi tại nhà... Có thể thấy, gia tăng dân số ảnh hưởng trực tiếp đến các vấn
đề an sinh xã hội hay y tế các quốc gia.

6


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CƠ CẤU DÂN SỐ VÀNG CỦA
VIỆT NAM VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH
TẾ
Thực trạng cơ cấu dân số vàng ở Việt Nam

2.1.

2.1.1.
-

Thực trạng cơ cấu dân số vàng

Xét theo cơ cấu dân số theo nhóm tuổi:
Biểu đồ 2.1: Tháp dân số năm 1999, 2009 và 2014

(Nguồn: Tổng cục thống kê và Quỹ dân số Liên Hợp Quốc 2016)
Tháp dân số phản ánh sự biến động trong cơ cấu tuổi - giới tính
cho thấy Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn chuyển đổi nhân khẩu
học trong ba thập kỷ qua. Trong khi tháp dân số năm 1999 đặc trưng
cho sự chuyển đổi nhân khẩu học từ mức sinh và mức chết cao giảm
nhanh xuống mức sinh và mức chết thấp, thì tháp dân số năm 2009

đặc trưng cho dân số ở giai đoạn cuối của quá độ dân số với mức
sinh và mức chết thấp và đang ở giai đoạn đầu của già hóa dân số.
Hậu quả của chiến tranh tới thay đổi cơ cấu tuổi của dân số trở nên
mờ nhạt hơn, và chỉ còn nhận thấy ở nhóm dân số từ 60 tuổi trở lên.
Mức sinh và mức chết đã ổn định ở mức thấp trong thập kỷ qua.
Tháp dân số năm 2014 phản ánh sự già hóa dân số ở Việt Nam.

7


Bảng 2.1: Tỷ trọng dân số theo độ tuổi ở Việt Nam

(Nguồn: Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình
(www.gopfp.gov.vn))
Cơ cấu dân số theo tuổi là sự phân chia tổng số dân theo từng
độ tuổi hay nhóm tuổi. Từ bảng trên có thể thấy có sự chuyển dịch rõ
nét trong cơ cấu dân số theo độ tuổi ở nước ta trước và sau thời kỳ
“cơ cấu dân số vàng”. Tỉ lệ trẻ em dưới 15 tuổi năm 2009 so với
1999 đã giảm 8.6% còn 24.5% (dưới 30%). Tỉ lệ này tuy có biến động
nhưng vẫn được duy trì ở mức dưới 30% từ 2009 đến 2014 (23.5%).
Ngược lại nhóm tuổi lao động (15-64 tuổi) và ngoài lao động (từ 65
tuổi trở lên) đều có sự gia tăng. Trong đó, nhóm 15-64 tuổi tăng 8%
trong 10 năm, nhóm từ 65 tuổi trở lên năm lên 6.4% vào 2009 (dưới
15%). Quy mô dân số độ tuổi lao động tăng thêm 16,1 triệu, từ 46,7
triệu vào năm 1999 lên đến 62,8 triệu năm 2014 đã tạo ra một lực
lượng lao động tiềm năng để phát triển kinh tế đất nước. Như vậy
theo định nghĩa của Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung
ương thì suốt giai đoạn 2009 – 2014, Việt Nam ở trong giai đoạn “cơ
cấu dân số vàng”, nghĩa là số người trong độ tuổi lao động cao hơn
số người phụ thuộc.

-

Xét theo tỷ lệ phụ thuộc của trẻ em, người già và tỷ lệ phụ
thuộc chung

8


Bảng 2.2: Tỷ lệ phụ thuộc của dân số ở Việt Nam

(Nguồn: Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình
(www.gopfp.gov.vn))
Biểu đồ 2.2: Tỷ số phụ thuộc và tỷ số già hóa ở Việt Nam

(Nguồn: Tổng cục thống kê và Quỹ dân số Liên Hợp Quốc 2016)
Xét theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc về “cơ cấu dân số
vàng” thì cũng có kết quả tương tự. Qua bảng có thể thấy Việt Nam
năm 2009 đang ở trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng với tỷ số dân số
phụ thuộc ở mức dưới 50%.
Cụ thể tỉ số dân số phụ thuộc đã giảm mạnh từ 63.6% năm
1999 xuống còn 44.7 năm 2009. Trong đó có sự biến đổi ngược chiều
giữa tỉ số phụ thuộc trẻ và già: Tỉ số phụ thuộc trẻ giảm mạnh từ
9


54.2% năm 1999 xuống còn 35.4% năm 2009 và có chiều hướng
giảm dần các năm sau đó trong khi tỉ số phụ thuộc già tuy có giảm
nhẹ từ 9.4% (1999) xuống 9.3% (2009) nhưng có xu hướng tăng dần
giai đoạn 2009 – 2014. Trước thời kì cơ cấu dân số vàng, 1 người lao
động phải lo cho 1 người phụ thuộc nhưng ở thời kỳ “vàng” hiện nay

thì hai người lao động chỉ phải lo cho 1 người phụ thuộc. Tính đến
1/4/2014, 52 trong số 63 tỉnh thành bước vào thời kỳ này, tăng 9 tỉnh
so với năm 2009. Nếu có những chính sách phù hợp để tận dụng cơ
hội này, cơ cấu dân số vàng có thể biến thành lợi tức dân số.
2.1.2.

Dự báo cơ cấu dân số Việt Nam thời gian tới

Biểu đồ 2.3: Tháp dân số Việt Nam: Hiện tại và dự báo

(Nguồn: United Nation (2014))
Bảng 2.3: Dự báo biến động dân số Việt Nam theo cơ cấu tuổi
2014 – 2049
Năm 2014

Năm 2019

Năm 2049

90.5

94.6

108.5

tuổi 23.4

22.7

17.8


15 – 64 tuổi 69.4

66.3

64.0

Tổng số dân
Dưới

15

(%)
(%)
10


65 tuổi trở lên

7.1

11.0

18.1

(Nguồn: United Nation (2014))
Theo dự báo, dân số trong độ tuổi lao động ở Việt Nam sẽ giảm
dần từ 69.4% (2014) xuống chỉ còn 64.0% vào 2049. Cùng trong
khoảng thời gian đó, tỷ lệ trẻ em sẽ giảm từ 23.4% (2014) xuống
17.8% (2049), ngược lại tỷ lệ dân số cao tuổi sẽ bắt đầu tăng mạnh

từ 2019 và đạt mức 18.1% dân số vào 2049.
Theo một dự báo khác của United Nation năm 2007, tỷ số phụ
thuộc chung sẽ ở mức dưới 50% từ năm 2009 và kéo dài cho đến
khoảng năm 2039. Giai đoạn này đặc trưng bởi tỷ số phụ thuộc
chung giảm xuống là do mức giảm của tỷ số phụ thuộc trẻ em lớn
hơn mức tăng tỷ số phụ thuộc người già. Nói cách khác, dân số Việt
Nam đạt cơ cấu “vàng” trong giai đoạn 2009-2039 (30 năm) với tỷ lệ
dân số trong độ tuổi lao động đạt ở mức cao nhất khoảng 65% tổng
dân số trong giai đoạn 2015-2025. Cơ cấu “vàng” sẽ kết thúc từ năm
2040 khi tỷ số phụ thuộc chung tăng lên, cao hơn 50 và bị chi phối
chủ yếu do tỷ số phụ thuộc người già tăng nhanh.

11


Biểu đồ 2.4: Dự báo tỉ số phụ thuộc dân số Việt Nam đến
2050

(Nguồn: United Nation)
2.2.

Những tác động của Cơ cấu dân số vàng đến kinh tế Việt
Nam trong thời gian qua
Việt Nam đã chính thức bước vào thời kỳ cơ cấu dân số vàng từ

năm 2007, với lực lượng lao động trẻ dồi dào. Nếu lực lượng này
được tận dụng tối đa trí tuệ, sức lao động thì sẽ tạo ra khối lượng của
cải vật chất khổng lồ, tạo ra giá trị tích lũy lớn cho tương lai, đảm
bảo an sinh xã hội khi đất nước bước vào giai đoạn “dân số già”.
2.2.1.


Tác động đến lực lượng lao động

Cơ cấu “dân số vàng” tạo ra nhiều thuận lợi, thế mạnh cho Việt
Nam với lực lượng lao động trẻ, dồi dào. Tổng cục Thống kê (Bộ Kế
hoạch và Đầu tư) vừa tiến hành điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ. Kết
quả cho thấy, nhóm dân số trong độ tuổi lao động khá đông, trong số
100 dân thì có 56 người trong độ tuổi lao động, số người trong độ
12


tuổi phụ thuộc (trẻ em chưa đủ 14 tuổi và người già từ 65 tuổi trở
lên) là 44 người. Trước đây, một người trong độ tuổi lao động phải lo
cho một người phụ thuộc (trẻ em dưới 15 tuổi và người trên 60 tuổi),
“thời kỳ vàng” hiện nay thì hai người lao động chỉ phải lo cho một
người phụ thuộc. Theo đánh giá của Tổng cục Thống kê, đây được
xem như một lợi thế cho phát triển kinh tế của đất nước nếu năng
suất lao động của nhóm dân số trong độ tuổi lao động tăng lên.
2.2.2.

Tác động đến vấn đề việc làm

Đồng thời, dân số trong độ tuổi lao động lớn, cùng với sự phát
triển của khu vực công nghiệp và dịch vụ tạo nhu cầu lớn về đào tạo
nghề, việc làm. Về phát triển thị trường lao động: Việt Nam có nguồn
lao động dồi dào, theo kết quả sơ bộ điều tra thực trạng việc làm và
thất nghiệp năm 2007, lực lượng lao động cả nước là 46,61 triệu
người (chiếm 54,8% dân số cả nước), tăng 2,27% so với năm 2006,
lao động nữ chiếm 49%. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động đạt
khoảng 70%, trong đó nữ là 66,5%. Nhìn chung, lao động Việt Nam

vẫn tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn (chiếm 74,57%), làm việc
trong khu vực nông nghiệp nên việc chuyển dịch cơ cấu lao động nói
chung, cơ cấu lao động ở nông thôn nói riêng theo hướng công
nghiệp hoá thực sự là một thách thức lớn, đặc biệt là trong bối cảnh
hội nhập. Cả nước hiện có gần 45,6 triệu lao động có việc làm, tăng
2,31% so với năm 2006; cơ cấu lao động tiếp tục chuyển dịch theo
hướng tích cực, giảm tỷ lệ lao động làm việc trong ngành nông, lâm,
ngư nghiệp và tăng trong khu vực công nghiệp, xây dựng và thương
mại dịch vụ .Lực lượng lao động trẻ, dồi dào và tiếp tục tăng sẽ là
nguồn lực quan trọng cho việc phát triển kinh tế trong điều kiện đảm
bảo việc làm và cải thiện được năng suất lao động.
Bảng 2.4: Hệ số co giãn tỉ lệ thất nghiệp từ 2001 - 2014
Năm
2001
2002

Tỉ lệ thất nghiệp (%)
6.28
6.01
13


2003
5.78
2004
5.6
2005
4.3
2006
4.82

2007
4.64
2008
4.65
2009
4.66
2010
2.88
2011
2.27
2012
1.99
2013
2.2
2014
2.08
(Nguồn: Tự tính toán dựa trên các số liệu của Tổng cục Thống kê qua
các năm)
Dân số trong độ tuổi lao động tăng nhanh còn giúp cho thị
trường tiêu thụ được mở rộng. Bởi dân số trong thời kỳ này vừa là lực
lượng sản xuất chủ lực vừa là lực lượng tiêu dùng chính. Nhiều
nghiên cứu trong những năm gần đây đã chứng minh, chi phí tiêu
dùng tăng nhanh theo tuổi và đạt mức lớn nhất trong nhóm tuổi từ
25-29 và duy trì ở mức cao cho đến 45 tuổi thì giảm gần tới mức
trung bình.
Tuy nhiên, kết quả

của nhiều nghiên cứu gần đây đã chỉ ra

rằng “cơ hội dân số” và “lợi tức dân số” không tự động, không tất

yếu đem lại tác động tích cực, mà nó phải được giành lấy bằng các
hành động chính sách, chiến lược cụ thể trong điều kiện cụ thể của
từng nước. Không có môi trường chính sách phù hợp và ổn định thì
ngay cả trong điều kiện tốt nhất, đất nước sẽ bỏ lỡ cơ hội tăng
trưởng cao trong dài hạn khi cơ hội dân số bắt đầu. Trong điều kiện
kém thì kinh tế có thể trì trệ, chính trị, xã hội bất ổn bởi quá tải dân
số dẫn đến nạn thất nghiệp tràn lan và an sinh xã hội kiệt quệ. Nếu
cơ hội dân số, đặc biệt là giai đoạn “cơ cấu dân số vàng”, diễn ra
trùng với thời kỳ kinh tế ổn định và cất cánh thì nguồn lao động có
sức khỏe và kỹ năng sẽ trở thành động lực mạnh mẽ của nền kinh tế.
2.2.3.

Tác động đến An sinh xã hội, y tế và giáo dục
14


Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình cho biết, cơ cấu “dân
số vàng” thực sự là cơ hội để cải thiện sức khỏe, đặc biệt là sức khỏe
sinh sản cho thanh niên, vị thành niên, sử dụng nguồn lao động dồi
dào cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Cơ cấu “dân số vàng” tạo
cơ hội cho tích lũy nguồn lực để tăng đầu tư cho an sinh xã hội, y tế,
giáo dục, việc làm trong tương lai.
Mặt khác, dân số dưới 15 tuổi giảm mạnh góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục thông qua việc giảm tỷ số giữa học sinh và giáo
viên, qua đó nâng cao chất lượng chăm sóc y tế cho trẻ em, cải thiện
chất lượng sức khỏe dân số tương lai.
Những thách thức mà Cơ cấu dân số vàng đặt ra cho Việt

2.3.


Nam trong thời gian tới
Cơ cấu dân số vàng tạo ra nhiều thuận lợi song cũng đặt ra
không ít những khó khăn thách thức cần giải quyết.
-

Áp lực giải quyết việc làm cho người lao động
Theo thống kê của Tổng cục dạy nghề (Bộ Lao động – Thương

binh và Xã hội ), hiện nay, Việt Nam còn khoảng 70% lao động chưa
được đào tạo nghề. Bên cạnh đó, khoảng 70% sinh sống và làm việc
ở nông thôn, trong khi chỉ có 40% thời gian dùng cho sản xuất nông
nghiệp, còn lại là thời gian nông nhàn.
Bảng 2.5: Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc
trong nền kinh tế đã qua đào tạo phân theo một số ngành
nghề
Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
4,2%
Công nghiệp chế biến, chế tạo
17,7%
Xây dựng
14,9%
(Nguồn: Tổng cục thống kê (2015))
Ngoài ra, một bộ phận không nhỏ lao động tốt nghiệp đại học,
cao đẳng cũng rơi vào tình trạng thất nghiệp. Những năm gần đây,
lao động tốt nghiệp đại học, cao đẳng còn có tỉ lệ thất nghiệp cao
15


hơn nhóm lao động khác. Theo dự báo của các chuyên gia, năm
2017 cả nước sẽ có khoảng 200000 cử nhân thất nghiệp.

Biểu đồ 2.5: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động phân
chia theo nhóm tuổi năm 2015

(Nguồn: Tổng cục thống kê (2015))
-

Phải đáp ứng được yêu cầu về chuyên môn, trình độ của nhà
tuyển dụng
Thực trạng ở Việt Nam cho thấy lực lượng lao động tuy đông về

số lượng nhưng chất lượng chưa cao.
Bảng 2.6: Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc
trong nền kinh tế đã qua đào tạo phân theo trình độ chuyên
môn kỹ thuật
Chưa đào tạo chuyên môn kỹ thuật
80,1%
Dạy nghề
5,0%
Trung cấp chuyên nghiệp
3,9%
Cao đẳng
2,5%
Đại học trở lên
8,5%
(Nguồn: Tổng cục thống kê (2015))
Theo số liệu của Tổng cục thống kê năm 2015, số lao động trên
15 tuổi chưa được đào tạo về chuyên môn kỹ thuật lên tới 80,1%. Tỷ
16



lệ lao động đại học, cao đẳng lần lượt chỉ là 8,5% và 2,5%. Thậm chí,
một bộ phận không nhỏ các cử nhân đại học cũng lâm vào tình trạng
thất nghiệp hoặc làm những công việc không đòi hỏi chuyên môn
cao như một lựa chọn tạm thời.
Nguyên nhân là bởi lực lượng lao động không được đào tạo bài
bản, không có nhiều kinh nghiệm trong khi làm việc, dẫn đến năng
suất lao động rất thấp, không đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển
dụng. Ngoài ra, số lao động trẻ tăng nhanh nhưng các chính sách lao
động, việc làm và các dịch vụ xã hội liên quan không kịp thay đổi
nên cũng dẫn đến nhiều bất cập.
-

Nguy cơ già hóa dân số nhanh chóng
Thời kì dân số vàng và già hóa dân số ở nước ta diễn ra cùng

một thời điểm. Khi đời sống vật chất của người dân được nâng cao
thì tuổi thọ con người được nâng lên, trong khi tỷ suất sinh tăng
thấp, thậm chí giảm, do đó già hóa dân số là tất yếu.
Biểu đồ 2.6: Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc
hàng năm phân theo nhóm tuổi
Theo dự báo của Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA), dân số Việt
Nam đến năm 2040 sẽ đạt khoảng 104 triệu người. Đây là cũng thời
điểm Việt Nam kết thúc thời kỳ "cơ cấu dân số vàng" và dân số bắt
đầu già hóa nhanh. Việt Nam là một trong những nước đông dân, vì
vậy nếu dân số tăng cao, đồng thời tỉ lệ người già chiếm tỉ lệ lớn sẽ
gây khó khăn cho phát triển kinh tế - xã hội.

(Nguồn:

Tổng cục thống kê (2015))


17


CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TẬN DỤNG CƠ CẤU DÂN SỐ VÀNG
ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Phân tích từ các dự báo dân số trên thực tế xu hướng biến động dân số Việt
Nam trong thời gian tới thì rõ ràng cơ hội để tận dụng “cơ cấu dân số vàng” của Việt
Nam sẽ đến trong một vài năm nữa. Có cơ cấu “vàng” cũng đồng nghĩa với việc có cơ
hội “vàng” trong việc sử dụng nguồn nhân lực trẻ, dồi dào cho giai đoạn tăng trưởng
tiếp theo của nền kinh tế, đặc biệt là giai đoạn bản lề 2011-2020 thực hiện chiến lược
đưa Việt Nam cơ bản trở thành một quốc gia công nghiệp và xếp vào nhóm các nước
có thu nhập trung bình. Vậy để hiện thực hóa cơ hội này, Việt Nam cần chú trọng vào
chiến lược và chính sách nào? Trong bối cảnh kinh tế và xã hội của Việt Nam hiện nay
và trước cơ hội “vàng” của dân số, nhóm em cho rằng có bốn nhóm chính sách quan
trọng, mang tính chiến lược cần được thực hiện để hiện thực hóa cơ hội này, đó là (1)
chính sách giáo dục và đào tạo (2) chính sách lao động, việc làm và nguồn nhân lực;
(3) chính sách dân số và y tế; và (4) chính sách an sinh xã hội toàn diện, hướng đến
dân số đang già hóa nhanh và già trong một vài thập kỷ tới.
3.1.

Chính sách giáo dục và đào tạo
Một điều hết sức rõ ràng là cơ hội dân số vàng chỉ có thể phát huy sức mạnh khi

Việt Nam thực sự có dân số “vàng” – khỏe về thể chất, tinh thần, mạnh về trí lực. Để
có được điều này, vai trò ngày càng quan trọng của giáo dục và đào tạo là điều không
thể phủ nhận.
Biểu đồ 3.1: Dự báo số lượng học sinh tiểu học

(Nguồn: Dự báo của MPI-UNFPA (2005) cho giai đoạn 1998/99-2004/05, và tính

toán của tác giả cho giai đoạn 2009-2020 với cùng giả định.)
18


Thứ nhất, nhu cầu về đào tạo tiểu học và phổ thông cơ sở sẽ giảm trong thời
gian tới do dân số trong độ tuổi này sẽ giảm nên cần giảm bớt đào tạo giáo viên phổ.
Gắn liền với chính sách này là giảm bớt việc xây thêm trường, lớp đào tạo tiểu học và
phổ thông cơ sở. Thay vào đó, nguồn lực đầu tư cần tập trung hơn nữa vào việc nâng
cao chất lượng cơ sở vật chất hiện có trong đào tạo bậc tiểu học và phổ thông cơ sở,
đặc biệt ở các vùng có cơ sở hạ tầng yếu kém.
Thứ hai, cần có chiến lược giáo dục, đào tạo có trọng điểm, dựa trên nhu cầu
của thị trường, đặc biệt là đào tạo nghề cho lao động ở khu vực nông thôn và các
ngành sản xuất. Tỷ lệ thất nghiệp tạm thời của sinh viên ra trường khá cao là một câu
hỏi lớn cần được các nhà quản lý giáo dục, đào tạo trả lời đối với việc không tương
thích giữa cung và cầu lao động. Hệ thống đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật cần
được cải cách, điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu về nhân công có chất lượng. Bài
học của Hàn Quốc về dư thừa lao động có trình độ đại học nhưng chất lượng có xu
hướng giảm sẽ luôn có giá trị cho Việt Nam trong việc xác định chiến lược nguồn nhân
lực. Một trong những việc cần làm hiện nay là phải bỏ chỉ tiêu về lượng cho hệ thống
giáo dục, đào tạo bởi các chính sách đó có thể dẫn đến “chỗ thiếu vẫn thiếu, chỗ thừa
vẫn thừa”. Vì thế, tạo sự gắn kết của các chính sách thị trường lao động với các chính
sách giáo dục đào tạo phải là ưu tiên hàng đầu trong hoạch định chiến lược, kế hoạch
hiện nay.
Thứ ba, đẩy mạnh giáo dục kỹ năng, hành vi và kiến thức xã hội trong hệ thống
giáo dục ở các cấp. Sự chú ý đặc biệt cần dành cho giáo dục về giới tính và sức khỏe
sinh sản. Đây là nhân tố đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện bình đẳng giới
cũng như hạn chế các vấn đề xã hội có liên quan đến sinh sản. Nghiên cứu của nhiều
nước và các báo cáo về dân số cho Việt Nam cũng chỉ rõ quan hệ chặt chẽ giữa tỷ lệ
sinh – giáo dục – đói nghèo. Mức độ giáo dục được tăng lên bởi một hệ thống giáo dục
có chất lượng sẽ giúp tăng khả năng tham gia thị trường lao động của nữ giới, giảm tỷ

lệ sinh, và giảm xác suất nghèo.
Thứ tư, đầu tư cho giáo dục, đào tạo cần tập trung nhiều hơn vào việc cải thiện
chương trình, tạo môi trường học tập và nghiên cứu mở, phát huy tính sáng tạo, tính xã
hội trong mọi hoạt động giảng dạy và nghiên cứu.
Thứ năm, khuyến khích người cao tuổi có trình độ, kỹ năng tiếp tục làm việc và
tham gia vào quá trình đào tạo, đặc biệt là các ngành kỹ thuật, sản xuất.
19


3.2.

Chính sách lao động, việc làm và nguồn nhân lực
Các nghiên cứu về tác động của nguồn lao động đến tăng trưởng kinh tế đã chỉ

ra rằng tốc độ tăng nhanh của dân số trong độ tuổi lao động sẽ là nguồn lực quan trọng
cho phát triển kinh tế nếu một quốc gia biết tăng cơ hội việc làm với tốc độ vừa đủ để
duy trì và cải thiện năng suất lao động. Ngược lại, sự gia tăng bộ phận dân số trong độ
tuổi lao động lại trở thành gánh nặng khi một nước phải đối mặt với tỷ lệ thất nghiệp
cao và năng suất lao động thấp.
Thứ nhất, đa dạng hóa ngành nghề ở khu vực nông thôn và thúc đẩy chất lượng
hoạt động của các ngành sử dụng nhiều lao động. Hiện nay, nguồn lao động của Việt
Nam dồi dào nhưng năng suất lao động còn thấp. Với cơ cấu lao động trong các ngành
nghề hiện nay, đa dạng hóa ngành nghề ở khu vực nông thôn và thúc đẩy hoạt động
của các ngành sử dụng nhiều lao động (dệt may, giày dép, thủy hải sản…) vẫn phải là
bước đi trong những năm trước mắt. Một điểm nhấn quan trọng của chính sách sử
dụng nhiều lao động là phải thực hiện nâng cao chất lượng. Năng lực cạnh tranh của
các ngành này không phải là sản xuất được bao nhiêu mà là sản xuất hàng có chất
lượng như thế nào.
Thứ hai, vì lợi tức dân số sẽ không cao hoặc bằng không khi tỷ lệ dân số hoạt động
kinh tế tăng chậm hoặc bằng tỷ lệ dân số không hoạt động kinh tế nên tăng cơ hội việc

làm là chiến lược quan trọng hàng đầu. Thiếu việc làm hoặc thất nghiệp như hiện nay
sẽ trở thành tai họa cho bộ phận dân số trẻ, có thể dẫn đến vòng luẩn quẩn của đói
nghèo, bạo lực, nghiện hút…, đặc biệt nó có thể kéo nữ thanh niên vào con đường mại
dâm. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh được rằng thúc đẩy các hoạt động kinh tế phi
nông nghiệp ở các vùng nông thôn bằng việc tổ chức hoạt động sản xuất theo cụm
công nghiệp sẽ tạo được nhiều việc làm, cải thiện thu nhập, tăng cường chuyển giao
công nghệ và cách thức quản lý doanh nghiệp cho lao động ở khu vực nông thôn, từ đó
góp phần giảm tải dân số và giảm sức ép việc làm ở các khu vực đô thị.
Thứ ba, gắn liền với chiến lược tạo việc làm ở trên là vấn đề bình đẳng giới
trong việc làm. Tạo điều kiện và đảm bảo cho nữ giới tham gia thị trường lao động sẽ
góp phần cải thiện vị trí xã hội của họ trong gia đình và cộng đồng, cải thiện sức khỏe,
tinh thần và những nhân tố này giúp họ có sức khỏe sinh sản tốt hơn và có quyết định
đúng hơn về sinh sản.
20


Biểu đồ 3.2: Khó khăn của các doanh nghiệp khi tuyển dụng nhân công ở Việt Nam
và một số nước trong khu vực

Nguồn: Điều tra của JETRO [theo trích dẫn của Mori và cộng sự (2008)]
Thứ tư, để tăng trưởng cao và phát triển bền vững thì không thể không nói đến
chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Nghiên cứu của Diễn đàn Phát triển Việt Nam
(2007) cho thấy nhiều doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam đều cho rằng họ cần công
nhân có trình độ kỹ thuật cao chứ không phải máy móc tối tân bởi vì công nhân trình
độ kỹ thuật cao vận hành máy móc cũ còn hiệu quả hơn công nhân không có tay nghề
vận hành máy móc tối tân. Và hiện nay Việt Nam đang ở thế bất lợi so với các nước
trong khu vực trong việc đáp ứng nhu cầu nhân công có khả năng quản lý hoặc tay
nghề cao trong một số ngành sản xuất (Hình ). Chính vì vậy, nâng cao chất lượng của
hệ thống giáo dục, đặc biệt là giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề, trở thành chiến
lược xương sống cho phát triển nguồn nhân lực.

Thứ năm, xuất khẩu lao động là một chính sách tạo việc làm, thu nhập hiệu quả
cho một lực lượng lao động lớn. Một điểm cần nhấn mạnh ở đây là chúng ta xuất khẩu
lao động được đào tạo tay nghề chứ không phải lao động chân tay. Tất nhiên, đi kèm
với chính sách này là cả một hệ thống chính sách có liên quan như đào tạo nghề, bảo
hiểm xã hội…
3.3.

Chính sách dân số và y tế
Đồng hành với chính sách lao động và nguồn nhân lực và chính sách giáo dục ở

trên, các chiến lược và chính sách dân số cũng đóng vai trò quan trọng, bổ trợ. Theo
21


quan điểm của nhóm, chính sách dân số trong thời gian tới cần tập trung vào một số
định hướng sau.
Thứ nhất, chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với chính sách kế hoạch hóa
gia đình cần phải được kết hợp một cách phù hợp với điều kiện của từng vùng, thậm
chí từng tỉnh, huyện. Để làm được việc này, cần đẩy mạnh tuyên truyền các chương
trình kế hoạch hóa gia đình, thúc đẩy giá trị gia đình ít con và con cái có chất lượng để
giảm thiểu chi phí cơ hội từ việc chăm sóc nhiều con cũng như tăng cơ hội cho phụ nữ
tham gia các hoạt động kinh tế, xã hội. Bên cạnh đó, ngoài định hướng chính sách cho
từng vùng thì các chương trình dân số cần hướng cụ thể đến các nhóm dân số nghèo
hoặc thiệt thòi bởi họ không có hoặc rất ít khả năng tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ
của các chính sách này.
Thứ hai, đầu tư mạnh mẽ hơn vào các chương trình chăm sóc sức khỏe cho bà
mẹ và trẻ sơ sinh nhằm giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng cả về cân nặng và chiều cao. Mặc
dù chưa có một nghiên cứu định lượng nào về tác động của suy dinh dưỡng đến tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam, nhưng kinh nghiệm quốc tế cho thấy suy dinh dưỡng trẻ
em có tác động tiêu cực trong dài hạn đến tỷ lệ thương tật và tỷ lệ chết của dân số

trưởng thành sau này và vì thế mà tác động tiêu cực đến năng suất lao động và chất
lượng cuộc sống (Elo và Preston, 1992). Do đó, các chương trình tiêm chủng chống
các bệnh truyền nhiễm, tăng cường chăm sóc bà mẹ thời kỳ mang thai ở các cơ sở y tế
có chất lượng, giữ gìn vệ sinh, đảm bảo dinh dưỡng… gắn liền với chính sách tạo cơ
hội được học hành cho phụ nữ, đặc biệt là nhóm dân số trẻ tuổi, phải trở thành các
chính sách chủ đạo trong chiến lược dân số và y tế. Một vấn đề cũng quan trọng không
kém là việc cung cấp các dịch vụ như trên đến các nhóm dân số yếu thế ở các vùng
kinh tế khó khăn, xa xôi. Nghèo đi liền với bệnh tật thì không khác gì sống cùng “sao
quả tạ” cùng với vòng luẩn quẩn nghèo đói – sức khỏe kém.
Thứ ba, đẩy mạnh các chương trình giáo dục và dịch vụ có liên quan đến sức
khỏe sinh sản, đặc biệt đối với nhóm dân số trẻ (15-24 tuổi). Quyết tâm thực hiện các
chương trình phòng chống tệ nạn xã hội và các nguy cơ tổn thương với các nhóm dân
số trẻ, đặc biệt là nữ giới. Việc cung cấp các dịch vụ y tế và phương tiện phòng tránh
thai một cách có hiệu quả cho các vùng xa xôi, hẻo lánh hoặc khó khăn về kinh tế là
việc làm cần thiết để giúp dân cư các vùng này tránh được vòng luẩn quẩn giữa mức

22


sinh cao và đói nghèo. Một trong những chiến lược quan trọng khác để cải thiện sức
khỏe sinh sản là tạo việc làm cho thanh niên, đặc biệt ở các vùng yếu thế nêu trên.
Bên cạnh đó, sự tham gia của các tổ chức và cộng đồng trong việc tuyên truyền
chống lại nạn bạo hành và ngược đãi trong gia đình, đặc biệt đối với phụ nữ và trẻ em,
cần phải được đẩy mạnh hơn nữa trong công tác truyền thông dân số và gia đình.
3.4.

Chính sách an sinh xã hội toàn diện hướng đến một dân số già
Mặc dù các chính sách đề cập ở trên bàn luận đến việc tận dụng triệt để cơ cấu

dân số vàng cho tăng trưởng và phát triển trong thời gian tới, nhưng chúng ta cũng

không thể không nói đến một quá trình dân số khác trong chiến lược phát triển cũng
rất quan trọng và đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, đó là quá trình già hóa dân số.
Đứng trước tốc độ già hóa dân số ngày càng cao, Việt Nam cần tận dụng ở mức cao
nhất bộ phận dân số cao tuổi cho quá trình phát triển, cũng như chuẩn bị tốt nhất cho
dân số già trong tương lai. Hiện nay, hiện tượng này đã phổ biến ở hầu hết các nước
phát triển, trong khi nó cũng đang diễn ra mạnh mẽ ở các nước đang phát triển. Hiện
trạng “già hóa trước khi giàu có” đang trở thành thách thức với các nước đang phát
triển, trong đó có Việt Nam.
Dựa trên thực trạng hệ thống bảo trợ xã hội đã nêu và xu hướng già hóa dân số
trong một vài thập kỷ tới, từ nay cho đến năm 2020 và dài hơn nữa, nhóm em xin đề
xuất cải cách hệ thống theo hướng đa dạng hóa hình thức bảo trợ với những chú trọng
đặc biệt với hệ thống hưu trí và trợ cấp.
Thứ nhất, với hệ thống bảo hiểm xã hội, mở rộng đối tượng tham gia các hình
thức bảo hiểm bắt buộc và tự nguyện, trong đó bảo hiểm tự nguyện phải trở thành cấu
phần quan trọng thu hút mọi người dân tham gia. Nói cách khác, sự phát triển của hệ
thống bảo hiểm xã hội phải đi theo hướng phổ cập với một thiết kế chung cho cả khu
vực chính thức và phi chính thức với khả năng tiếp cận cao cho nhóm đối tượng dễ tổn
thương. Để tăng được mức độ tuân thủ và tỷ lệ tham gia của dân chúng, phải có những
chính sách cụ thể khuyến khích các doanh nghiệp tạo việc làm, người lao động nỗ lực
và tiết kiệm, cũng như tăng hiệu quả phục vụ của các dịch vụ bảo hiểm quan trọng.
Thứ hai, hệ thống trợ cấp xã hội, đặc biệt là hệ thống dành cho người cao tuổi,
cần được mở rộng theo hướng phổ cập, đặc biệt là việc mở rộng hệ thống trợ cấp theo
hướng phổ cập tới người cao tuổi vùng nông thôn và nữ giới cao tuổi sẽ có tác động
giảm nghèo lớn trong khi chi phí tương đối thấp và phù hợp với điều kiện kinh tế của
23


Việt Nam ngay cả trong dài hạn. Việc cung cấp mức hưởng thấp hơn với số lượng
người hưởng nhiều hơn sẽ có tác động giảm nghèo cao hơn và chi phí thấp hơn so với
hệ thống cung cấp mức hưởng cao nhưng số lượng người hưởng ít.

Thứ ba, mặc dù trình độ giáo dục của người cao tuổi được cải thiện trong thời
gian qua nhưng phần lớn người cao tuổi chưa từng đi học hoặc không có bằng cấp
chuyên môn. Hơn nữa, phần lớn người cao tuổi đang làm việc đều hoạt động trong khu
vực sản xuất nông nghiệp hoặc tự làm trong gia đình – các hoạt động không đem lại
thu nhập hoặc thu nhập rất thấp – nên họ có rất ít tiết kiệm hoặc không được hưởng
hưu trí. Đây là thách thức lớn đối với chính sách bảo trợ xã hội trong việc bảo vệ
người cao tuổi trước các rủi ro, đặc biệt về mặt kinh tế.
Thứ tư, hệ thống bảo trợ xã hội cần chú trọng đến việc giảm nghèo cho thanh
niên và trẻ em – những thế hệ tương lai của Việt Nam – đặc biệt là các khu vực yếu
thế. Trên thực tế, tỷ lệ nghèo của trẻ em và thanh niên Việt Nam cao hơn các nhóm dân
số khác trong độ tuổi lao động và tương đương với mức nghèo của nhóm dân số cao
tuổi nhất. Bên cạnh đó, các nghiên cứu trước đây cho một số nước trong khu vực và
báo cáo Điều tra Y tế và Dân số 2014 cho Việt Nam đều tìm thấy điểm chung là thiếu
giáo dục và nghèo đói sẽ dẫn đến tỷ lệ chết trẻ sơ sinh và trẻ suy dinh dưỡng cao hơn
cũng như nguy cơ sinh con ở tuổi vị thành niên nhiều hơn – những nhân tố tác động
tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế bởi chúng tạo ra một lực lượng lao động tương lai yếu
kém về thể lực và trí lực. Trong bối cảnh dòng lao động trẻ di cư ngày càng lớn, chính
sách bảo trợ xã hội phải trở thành chính sách hỗ trợ chủ yếu đối với các nhóm đối
tượng này vì họ là một trong những nhóm người yếu thế nhất của lực lượng lao động.
Cuối cùng, trong dài hạn, Việt Nam cần tổ chức các nhà dưỡng lão hoặc trung
tâm chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi. Đây là chính sách cần thiết để đón nhận
dòng người cao tuổi ngày càng lớn và trong bối cảnh người cao tuổi ngày càng phải
sống độc lập hơn với con cái hoặc người thân thuộc.

24


KẾT LUẬN

25



×