Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tố tụng hình sự: bài tập tình huống về thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng, xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.61 KB, 14 trang )

MỤC LỤC


TÌNH HUỐNG:
A là thanh niên địa phương đã đánh B là quân nhân (cùng cư trú trên địa bàn phường H
– Quận K), gây thương tích cho B. Sau khi bị đánh, B đã đến Công an phường H tố giác về
hành vi phạm tội của A và yêu cầu khởi tố hình sự với A. Công an phường lập biên bản và báo
tin cho cơ quan điều tra. Hỏi:
1. Hãy xác định cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra.
2. Cơ quan điều tra cần phải tiến hành những hoạt động nào để quyết định việc khởi tố
vụ án hình sự?
3. Giả sửa cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án đối với A theo khoản 2 Điều 104
BLHS, hãy xác định cơ sở khởi tố vụ án.
4. Kết thúc điều tra, cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra với A. Khi nghiên
cứu hồ sơ thấy việc đình chỉ điều tra đối với A, không có căn cứ, VKS giải quyết thế nào?
5. Giả sử, VKS ra quyết định truy tố A theo khoản 2 Điều 104 BLHS năm 1999. Trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử B rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án đối với A. Tòa án giải quyết thế nào?
6. Tại phiên tòa sơ thẩm, khi tiến hành thủ tục bắt đầu phiên tòa, A yêu cầu triệu tập
thêm người làm chứng. Yêu cầu của A có được Hội đồng xét xử chấp nhận hay không? Tại
sao?
7. Giả sử sau khi xét hỏi, VKS rút quyết định truy tố đối với A, Hội đồng xét xử giải
quyết thế nào?
8. Giả sử Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án tuyên 36 tháng tù đối với A. Nếu A đang tại
ngoại, Hội đồng xét xử giải quyết thế nào?
9. Sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm, trong số chủ thể có quyền kháng cáo, chỉ có A
kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Hội đồng xét xử phúc thẩm phải quyết định như thế nào nếu
thấy cần tăng nặng hình phạt với A?
10. Bản bán phúc thẩm bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng tăng hình
phạt với A. Trong trường hợp có căn cứ tăng hình phạt, Hội đồng giám đốc thẩm giải quyết như
thế nào?



B. GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
Câu 1:
Trong tình huống trên, ta thấy: A là thanh niên địa phương đã gây thương thích cho B,
mà B là quân nhân, cả hai người cùng cư trú trên cùng một địa bàn là phường H – Quận K. Sau
khi bị đánh, B đã tố giác về hành vi của A và yêu cầu khởi tố hình sự.
Để xác định cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra còn phụ thuộc vào vụ án đó thuộc
thẩm quyền của Tòa án nào xét xử. Tình huống này thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân
sự.
Theo Điều 3 Pháp lệnh Tổ chức Tòa án quân sự quy định:
“Các Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo là:
1.Quân nhân tại ngũ, công cức, công nhân quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian
tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵng sàng chiến đấu; dân quân tự vệ phối thuộc
với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và những người được trung tập làm nhiệm vụ
quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lí.
2.Những người không thuộc các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này mà phạm tội
có liên quan đến bí mật quân sự hay gây thiệt hại cho quân đội.”
Theo thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT – TANDTC-VKSNDTC-BQP-BCA hướng dẫn
về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự, quy định:
“ Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 của Pháp lệnh, những vụ án hình sự mà người
phạm tội không thuộc các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 3 của Pháp lệnh chỉ thuộc thẩm
quyền xét xử của Tòa án quân sự, nếu họ phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây
thiệt hại cho Quân đội, cụ thể là:
a) Bí mật quân sự là bí mật của Quân đội bí mật về an ninh quốc phòng được xác định
là bí mật quân sự và được quy định trong các văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành.
b) Gây thiệt hại cho Quân đội là gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự,
nhân phẩm của những người quy định tại khoản 1 Điều 3 của Pháp lệnh hoặc tài sản của
những người này được Quân đội cấp phát để thực hiện nhiệm vụ quân sự; gây thiệt hại đến tài
sản, danh dự, uy tín của Quân đội. Tài sản của Quân đội là tài sản do Quân đội quản lý, sử



dụng, kể cả trường hợp Quân đội giao tài sản đó cho dân quân, tự vệ hoặc bất kỳ người nào
khác quản lý, sử dụng để chiến đấu, phục vụ chiến đấu hoặc thực hiện nhiệm vụ quân sự. Cũng
được coi là gây thiệt hại cho Quân đội trong trường hợp người đang bị tạm giữ, tạm giam và
chấp hành hình phạt tù trong nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam do Quân đội quản lý mà lại
tiếp tục phạm tội.”
Trong tình huống trên, A là đã gây thương tích cho quân nhân B, gây thiệt hại đến tính
mạng, sức khỏe của B. Do vậy tình huống này sẽ do Tòa án quân sự xét xử.
Mặt khác, theo khoản 2 Điều 110 BLTTHS 2003 quy định thẩm quyền điều tra: “Cơ
quan điều tra trong quân đội nhân dân điều tra các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa
án quân sự”.
Thẩm quyền điều tra tình huống trên là cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân.
Câu 2:
Theo khoản 1 điều 100 Luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về căn cứ khởi tố vụ án
hình sự là tố giác của công dân. Trong đề bài thì B đã đến công an phường H tố giác về hành vi
phạm tội của A. Vậy nên đã có căn cứ để khởi tố vụ án hình sự.
- Theo khoản 1 Điều 103 Luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát có trách nhiệm tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân, cơ
quan, tổ chức và kiến nghị khởi tố do cơ quan nhà nước chuyển đến. Viện kiểm sát có trách
nhiệm chuyển ngay các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố kèm theo các tài liệu
có liên quan đã tiếp nhận cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền”. Vậy nên đầu tiên cơ quan điều
tra cần tiếp nhận thông tin từ việc tố giác của công dân B với Công an phường H.
- Theo khoản 2 Điều 103 Luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Trong thời hạn hai
mươi ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều
tra trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định việc
khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự”. Và trong thời hạn 12 ngày kể từ ngày cơ
quan điều tra nhận được tố giác của B về tội phạm do công an phường H báo tin đến thì phải
kiểm tra và xác minh các tin tức về tội phạm A để xác định dấu hiệu tội phạm. Ở đây A đã
phạm tội cố ý gây thương tích được quy định tại điều 104 BLHS năm 1999.

- Theo khoản 1 Điều 104 Luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Khi xác định có
dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Thủ trưởng


đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và Thủ
trưởng các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra ra quyết định khởi tố vụ án trong những trường hợp quy định
tại Điều 111 của Bộ luật này.
Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp Viện kiểm sát huỷ bỏ
quyết định không khởi tố vụ án của các cơ quan quy định tại khoản này và trong trường hợp
Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án.
Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự
nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần
phải điều tra”. Sau khi xác định có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự đối với A.
Câu 3:
Là giai đoạn đầu tiên có ý nghĩa xác định có hay không có dấu hiệu của tội phạm để
quyết định đưa vụ việc giải quyết theo thủ tục TTHS đó chính là giai đoạn khởi tố vụ án hình
sự. Chính vì ý nghĩa quan trọng như vậy nên khởi tố vụ án hình sự phải dựa trên những căn cứ
pháp lý mà pháp luật quy định. Khi khởi tố vụ án hình sự đúng căn cứ pháp luật thì sẽ là cơ sở
cho những hoạt động tố tụng tiếp theo. Cơ sở khởi tố vụ án là những nguồn tin mà dựa vào đó
cơ quan có thẩm quyền khởi tố xác định dấu hiệu tội phạm. Căn cứ theo Điều 100 BLTTHS
2003 thì: “Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm”. Việc xác
định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây:
1. Tố giác của công dân;
2. Tin báo của cơ quan, tổ chức;
3. Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;
4. Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm,lực lượng
Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm.

5. Người phạm tội tự thú.
Dấu hiệu tội phạm là căn cứ duy nhất để khởi tố vụ án hình sự. Và cơ quan tiến hành tố
tụng có trách nhiệm xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm dựa trên các căn cứ mà pháp
luật quy định để tiến hành khởi tố vụ án hình sự. Áp vào trường hợp trên thì cơ sở để cơ quan
điều tra ra quyết định khởi tố vụ án đối với A theo khoản 2 Điều 104 BLHS “Phạm tội gây


thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%
hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a
đến điểm k trong khoản 1 điều này”. Vậy dựa vào yếu tố Tố giác của công dân thì B sau khi bị
A đánh đã tới Công an phường H tố giác về hành vi phạm tội của A. Luật không bắt buộc công
dân chỉ tố giác đến cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án mà họ có thể tố giác đến bất cứ cơ
quan tổ chức nào nếu thấy thuận tiện. Nếu người bị hại làm đơn trình báo về việc phạm tội gây
thiệt hại cho họ cũng được coi là tố giác của công dân. Như vậy A phải chứng minh được mình
bị thiệt hại về sức khỏe như khoản 2 điều 104 BLHS để xác minh có dấu hiệu tội phạm. Đó sẽ
là cơ sở để cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án đối với A theo khoản 2 điều trên.
Câu 4:
Theo quy định tại khoản 4 điều 164 BLTTHS 2003, VKS hủy bỏ quyết định đình chỉ của
cơ quan điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra phục hồi điều tra.
Khoản 4 điều 164:“Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được quyết định
đình chỉ điều tra của Cơ quan điều tra, nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra có căn cứ thì Viện
kiểm sát phải trả lại hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra để giải quyết theo thẩm quyền; nếu thấy
quyết định đình chỉ điều tra không có căn cứ thì huỷ bỏ quyết định đình chỉ điều tra và yêu cầu
Cơ quan điều tra phục hồi điều tra; nếu thấy đủ căn cứ để truy tố thì huỷ bỏ quyết định đình
chỉ điều tra và ra quyết định truy tố. Thời hạn ra quyết định truy tố được thực hiện theo quy
định tại Điều 166 của Bộ luật này.”
Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát là: “thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Qua đó bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản của nhà nước.” Trong giai
đoạn điều tra, VKS kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đảm bảo việc điều tra được khách quan,

toàn diện và đầy đủ đảm bảo không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội,...
Khi cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra để kết thúc việc điều tra đối với A,
VKS có trách nhiệm xem xét, rà soát lại tất cả các chứng cứ và căn cứ đình chỉ điều tra. Xét
thấy căn cứ để đình chỉ điều tra của cơ quan điều tra là không có căn cứ pháp luật, VKS phải ra
quyết định hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra A và đồng thời yêu cầu cơ quan điều tra khôi
phục điều tra. Đây là một trình tự hết sức chặt chẽ trong tố tụng hình sự. Mọi quyết định của
các cơ quan trong mọi giai đoạn đều được xem xét kỹ lưỡng, nếu phát hiện có sai phạm phải bị
trả lại cho cơ quan ra quyết định chỉnh sửa lại.



Câu 5:
Theo điều 180 Bộ luật tố tụng hình sự 2003:
“ Điều 180. Quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án
Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ vụ án khi có căn cứ quy định tại Điều 160 của Bộ
luật này; ra quyết định đình chỉ vụ án khi có trong những căn cứ quy định tại khoản 2 điều 105
và các điểm 3,4,5,5,6 và 7 Điều 107 của Bộ luật này hoặc khi Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết
định truy tố trước khi mở phiên toà.
Trong trường hợp vụ án có nhiều bị can, bị cáo mà căn cứ để tạm đình chỉ hoặc đình chỉ
vụ án không liên quan đến tất cả các bị can, bị cáo thì có thể tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án
đối với từng bị can, bị cáo.”
Vì vậy trong giai đoạn chuẩn bị xét xử B rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án đối với A thì Toà
án xử lý theo căn cứ tại khoản 2 Điều 105:
“ Điều 105. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại
2. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên toàn sơ
thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.
Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của
họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Toà án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Người bị hại đã rút yên cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút

yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.”
Thì có thể chia làm 2 trường hợp:
-Trong trường hợp B đã tự nguyện rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án đối với A trước ngày
mở phiên toà sơ thẩm thì Thẩm phán ra quyết định đình chỉ vụ án theo quy định tại Điều 180
Bộ luật này. Nếu B đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu khởi tố lại.
- Trong trường hợp B không tự nguyện rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án đối với A trước
ngày mở phiên toà sơ thẩm thì nếu có căn cứ quyết định rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của
họ thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ
án. Nếu B đã rút yêu cầu khởi tố thì B vẫn có quyền yêu cầu khởi tố lại.


Câu 6:
Căn cứ vào Điều 205 BLTTHS 2003 quy định về một trong các thủ tục bắt đầu phiên tòa
như sau: “Chủ tọa phiên tòa phải hỏi Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng xem ai có
yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem
xét hay không. Nếu có người tham gia tố tụng vắng mặt thì chủ tọa phiên tòa cũng phải hỏi
xem có ai yêu cầu hoãn phiên tòa hay không. Nếu có người yêu cầu thì Hội đồng xét xử xem
xét và quyết định.”
Như vậy, trong tình huống này, tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, A tham gia phiên tòa với tư
cách là bị cáo, là người tham gia tố tụng nênkhi tiến hành thủ tục bắt đầu phiên tòa, A yêu cầu
triệu tập thêm người làm chứng thì Hội đồng xét xử có thể chấp nhận yêu cầu này.
Tuy nhiên, theo điều luật trên việc yêu cầu của A chỉ được Hội đồng xét xử xem xét và
quyết định, Hội đồng xét xử có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu đó tùy vào từng
hoàn cảnh cụ thể. Pháp luật không quy định cụ thể các căn cứ để chấp nhận yêu cầu này, trên
thực tế để quyết định chấp nhận yêu cầu hay không, Hội đồng xét xử có thể xem xét các yếu tố:
Thứ nhất, A đưa ra yêu cầu trong thủ tục bắt đầu phiên tòa khi chủ tọa phiên tòa hỏi
người tham gia tố tụng xem ai có yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hay không. Thủ tục
bắt đầu phiên tòa gồm rất nhiều hoạt động như: chủ tọa phiên tòa đọc quyết định đưa vụ án ra
xét xử, kiểm tra căn cước của những người được triệu tập, giải quyết việc đề nghị thay đổi
Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên,... trong đó việc yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng

chỉ là một hoạt động trong số các hoạt động trên nên phải được thực hiện đúng lúc đúng thời
điểm, không thể tùy tiện.
Thứ hai, người làm chứng mà A yêu cầu phải là người biết được những tình tiết liên
quan đến vụ án, không thuộc những người không được làm chứng quy định tại khoản 2 Điều
55, BLTTHS 2003.
Thứ ba, sự có mặt của người làm chứng phải có ý nghĩa trong việc xác minh sự thật vụ
án, Hội đồng xét xử xem xét thấy cần thiết.
Thứ tư, người làm chứng phải có khả năng tham gia phiên tòa để loại trừ khả năng A yêu
cầu thêm người làm chứng để kéo dài thời gian, gây khó khăn cho việc xét xử.


Câu 7:
Căn cứ vào Điều 195 BLTTHS 2003 quy định về kiểm sát viên rút quyết định truy tố
hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa như sau:
“Tại phiên tòa, sau khi xét hỏi, Kiểm sát viên có thể rút một phần hay toàn bộ quyết
định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn, nhưng Hội đồng xét xử vẫn phải xét xử toàn bộ vụ
án.”
Trong tình huống này, sau khi xét hỏi, VKS rút quyết định truy tố đối với A, theo quy
định tại Điều 195 BLTTHS 2003 thì Hội đồng xét xử vẫn phải xét xử toàn bộ vụ án. Do đó việc
rút quyết định truy tố đối với A chỉ là ý chí của VKS, còn Hội đồng xét xử không thể vì lý do
VKS rút quyết định truy tố đối với A mà dừng xét xử vụ án. Hội đồng xét xử có thể không xét
xử về tội mà VKS đã truy tố mà có thể dựa vào những căn cứ đó để xét xử theo một tội danh
mới mà Hội đồng xét xử thấy hợp lý.
Câu 8:
Hướng giải quyết của HĐXX khi tuyên bị cáo 36 tháng tù giam nhưng bị cáo đang tại
ngoại.
Trước tiên HĐXX phải xem xét việc vị cáo có đang tại ngoại thuộc các trường hợp tải
khoản 1 Điều 61 BLHS 1999 hay không.
Khoản 1 Điều 61 BLHS 1999 quy định:
“1. Người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt trong các trường hợp

sau đây:
a. Bị bệnh nặng được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục;
b. Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì được hoãn cho đến khi con
đủ 36 tháng tuổi;
c. Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành phình phạt tù thì gia
đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được hoãn đến một năm, trừ trường hợp người đó bị kết án về
các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng;
d. Bị kết án về tội ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến một năm.”
Nếu có căn cứ cho rằng bị cáo thuộc vào các tình tiết như tại điểm a,c Khoản 1 Điều này
thì HĐXX xem xét đề nghị VKS làm đơn đề nghị lên Chán án tòa án cấp sơ thẩm xem xét việc
hoãn chấp hành hình phạt tù cho A.


Nếu A không thuộc các trường hợp được hoãn thi hành án phạt tù thì HĐXX sẽ giải
quyết như sau: nếu có căn cứ cho rằng bị cáo sẽ bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội thì HĐXX sẽ ra
quyết định bắt tạm giam ngay theo Khoản 2 Điều 228 BLTTHS 2003; nếu không có căn cứ cho
rằng bị cáo sẽ bỏ trốn hay tiếp tục phạm tội thì sẽ vẫn tuyên án như bình thường và bị cáo sẽ
phải thi hành hình phạt tù sau khi bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Câu 9:
Trường hợp 1:không có kháng nghị của VKS
Như vậy, sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm, trong số chủ thể có quyền kháng cáo,
kháng nghị chỉ có A kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, tuy nhiên Hội đồng xét xử phúc thẩm
thấy cần tăng nặng hình phạt với A, theo Điều 249 BLTTHS năm 2003 thì Hội đồng xét xử
không được sửa bản án theo hướng tăng nặng trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi không có
kháng nghị của VKS hoặc kháng cáo của người bị hại yêu cầu tăng nặng trách nhiệm hình sự
đối với bị cáo. Tuy nhiên do thấy cần tăng nặng hình phạt đối với A thì Hội đồng xét xử phúc
thẩm có thể kiến nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm để người
này kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm về việc cần tăng nặng hình phạt với A. Đặc biệt
trong trường hợp này, Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể kiến nghị những người thuộc khoản 2

và khoản 3 Điều 275 BLTTHS năm 2003 quy định về người có thẩm quyền kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm bao gồm: Chán án Tòa án quân sự trung ương, Viện trưởng VKS quân
sự trung ương, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu, Viện trưởng VKS cấp quân khu.
Trường hợp 2:có kháng nghị của VKS
Mặc dù trong số chủ thể có quyền kháng cáo thì chỉ có A có kháng cáo xin giảm nhẹ
hình phạt, tuy nhiên VKS lại có kháng nghị mà kháng cáo của người bị kết án và kháng nghị
của VKS là độc lập với nhau nên Hội đồng xét xử vẫn sẽ xem xét cả kháng nghị của VKS. Như
vậy sẽ có 2 tình huống xảy ra:
Thứ nhất: VKS có kháng nghị giảm nhẹ hình phạt cho A. Như vậy với tình huống này cả
kháng cáo và kháng nghị đều có cùng mục đích là giảm nhẹ hình phạt cho A, tuy nhiên Hội
đồng xét xử phúc thẩm lại thấy có căn cứ cần tăng nặng hình phạt với A, khi này Hội đồng xét
xử không thể sửa bản án theo hướng tăng nặng hình phạt cho A được dù có căn cứ thấy cần
tăng nặng, tuy nhiên cũng không cần phải sửa lại bản án theo hướng giảm nhẹ hình phạt cho A
như kháng cáo và kháng nghi, Hội đồng xét xử phúc thẩm hoàn toàn có quyền giữ nguyên
quyết định của bản án sơ thẩm, sau đó kiến nghị những người có thẩm quyền kháng nghị theo


thủ tục giám đốc thẩm để những người này kháng nghị tăng nặng hình phạt cho A theo thủ tục
giám đốc thẩm. Trong trường hợp này, Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể kiến nghị những
người thuộc khoản 2 và khoản 3 Điều 275 BLTTHS năm 2003 quy định về người có thẩm
quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bao gồm: Chán án Tòa án quân sự trung ương,
Viện trưởng VKS quân sự trung ương, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu, Viện trưởng
VKS cấp quân khu.
Thứ hai: VKS có kháng nghị theo hướng tăng nặng hình phạt đối với A
Mặc dù A có kháng cáo giảm nhẹ hình phạt và không có kháng cáo nào nữa nhưng VKS
lại kháng nghị tăng nặng hình phạt cho A, mà Hội đồng xét xử phúc thẩm cũng tìm thấy căn cứ
cần phải tăng nặng hình phạt cho A thì theo Khoản 3 Điều 219 BLTTHS năm 2003: “Trong
trường hợp VKS kháng nghị yêu cầu thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể tăng nặng hình phạt, áp
dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn; tăng mức bồi thường thiệt hại, nếu có kháng nghị của
VKS” như vậy khi có kháng nghị theo hướng tăng nặng của VKS mà Hội xét xử phúc thẩm

xem xét thấy đúng thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hoàn toàn có quyền tăng nặng hình phạt đối
với A.
Câu 10:
Điều 285 BLTTHS 2003 quy định:
Hội đồng giám đốc thẩm có quyền ra quyết định:
1. Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực
pháp luật;
2. Hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án;
3. Hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại.
Theo quy định trên, có thể thấy Hội đồng giám đốc thẩm không có quyền sửa bản án
hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà chỉ có quyền ra những quyết định nêu trên. Cụ thể,
Hội đồng giám đốc thẩm không chấp nhận kháng nghị nếu kháng nghị đó không đúng thẩm
quyền, không đúng thời hạn và không có căn cứ theo quy định của pháp luật. Còn nếu có một
trong các căn cứ quy định tại Điểu 107 BLTTHS như: không có sự việc phạm tội, hành vi
không cấu thành tội phạm…thì Hội đồng giám đốc thẩm sẽ hủy bản án, quyết định đã có hiệu
và đình chỉ vụ án. Hội đồng giám đốc thẩm sẽ hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực để
điều tra, xét xử lại khi có các căn cứ quy định tại Điều 273 BLTTHS.


Trong tình huống trên, bản án phúc thẩm bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm theo
hướng tăng hình phạt với A và có căn cứ để tăng hình phạt, nghĩa là, bản án phúc thẩm của tòa
án không dựa trên những sự kiên có thật của vụ án và đã được các cơ quan tiến hành tố tụng
kiểm tra, làm sáng tỏ. Và đây là trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 273: “kết luận
trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án” . Theo
đó toà án sẽ có căn cứ để ra quyết định hủy bản án phúc thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại
theo Điều 287.
Như vậy, trong trường hợp có căn cứ tăng hình phạt, Hội đồng giám đốc thẩm sẽ ra
quyết định hủy bản án phúc thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại và trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày ra quyết định, Hội đồng giám đốc thẩm phải gửi quyết định giám đốc thẩm cho người bị
kết kết án, người kháng nghị, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan công an nơi đã xử sơ thẩm, người

có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ, Cơ
quan thi hành án dân sự có thẩm quyền, đồng thời thông báo bằng văn bản cho chính quyền xã,
phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc.
C. KẾT LUẬN
Từ tình huống trên ta nhận thấy được tầm quan trọng trong việc xác định cơ quan có
thẩm quyền điều tra trong một vụ án hình sự. Đồng thời có thể hiểu rõ hơn các giai đoạn trong
tố tụng hình sự; thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng; quyền của người tiến hành tố
tụng; quyền được kháng cáo, kháng nghị đối với bản án xét xử sơ thẩm. Bên cạnh đó ta có thể
hiểu rõ hơn về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản bán sơ thẩm, thẩm
quyền của Hội đồng giám đốc thẩm khi bản án phúc thẩm bị kháng nghị theo thủ tục Giám đốc
thẩm.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật hình sự năm 1999.
2. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
3. Luật thi hành án hình sự năm 2010.
4. Pháp lệnh Tổ chức Tòa án quân sự.


5. Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT – TANDTC-VKSNDTC-BQP-BCA hướng dẫn

về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự.
6. Giáo trình: “Luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm

2014, Nxb Công an nhân dân.
7. Bình luận khoa học bộ luật hình sự.



×