Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Chính sách ứng dụng Công nghệ thông tin trong Quản lý hành chính nhà nước từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (811.69 KB, 77 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ THUẬN

CHÍNH SÁCH ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ THUẬN

CHÍNH SÁCH ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 60.34.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS MAI HÀ



HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu
và kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Nếu có gì sai sót, cá nhân tôi xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm.
Tác giả luận văn

Lê Thị Thuận


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH ỨNG DỤNG
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG DỤNG
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ....................................................................................7
1.1. Khái niệm Công nghệ thông tin và chính sách ứng dụng Công nghệ thông tin ..7
1.2. Thiết kế chính sách ứng dụng Công nghệ thông tin ..........................................11
1.3. Cách tiếp cận và phương pháp tổ chức thực hiện chính sách ứng dụng Công
nghệ thông tin ............................................................................................................18
1.4. Trách nhiệm thực hiện của các chủ thể ..............................................................24
1.5. Phân tích bối cảnh thực hiện chính sách ứng dụng Công nghệ thông tin .............27
CHƢƠNG 2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG
DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ
NƢỚC TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ...........................................32
2.1. Điều kiện xã hội và tình hình kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng .............32
2.2. Kết quả thực hiện mục tiêu chính sách ứng dụng Công nghệ thông tin tại thành
phố Đà Nẵng từ năm 2011 đến nay ...........................................................................36

2.3. Đánh giá chung về việc tổ chức, thực hiện chính sách ứng dụng Công nghệ
thông tin tại thành phố Đà Nẵng ...............................................................................51
CHƢƠNG 3. PHƢƠNG HƢỚNG, MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC TẠI THÀNH
PHỐ ĐÀ NẴNG.......................................................................................................58
3.1. Phương hướng, mục tiêu nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách ứng dụng
Công nghệ thông tin ..................................................................................................58
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách ứng dụng Công nghệ
thông tin.....................................................................................................................61
3.3. Một số kiến nghị về thực hiện chính sách ứng dụng Công nghệ thông tin ........65
KẾT LUẬN ..............................................................................................................67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TT

TỪ VIẾT TẮT

NGHĨA ĐẦY ĐỦ

1

CBCCVC

Cán bộ, công chức, viên chức


2

CCHC

Cải cách hành chính

3

CNTT

Công nghệ thông tin

4

CNTT - TT

Công nghệ thông tin - truyền thông

5

Internet

Mạng thông tin quốc tế

6

LAN

Mạng trao đổi nội bộ


7

MAN

Mạng đô thị thành phố

8

QLHCNN

Quản lý hành chính nhà nước

9

QLNN

Quản lý nhà nước


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ứng dụng Công nghệ thông tin (CNTT) ngày càng có vai trò quan
trọng, tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội của tất cả các quốc gia trên thế giới.
Sự phát triển của công nghệ là nền tảng cơ bản để thúc đấy những cải
tiến về thủ tục, quy định hành chính, đổi mới về phương thức và nội dung
cung cấp các dịch vụ hành chính của Chính phủ với những đổi thay hướng về
phía người dân.
Ở nước ta, ứng dụng CNTT vào công tác quản lý nhà nước (QLNN)
nhằm nâng cao, phục vụ bộ máy hành chính đã được xác định rất sớm và thực

hiện liên tục. Ngày 08/11/20111, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 30c/NQCP về Chương trình tổng thể cải cách hành chính (CCHC) nhà nước giai đoạn
2011- 2020, qua đó đã xác định nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và
dịch vụ công là một trong những nội dung trọng tâm. Trong đó, hiện đại hóa
nền hành chính được xác định theo hướng đẩy mạnh ứng dụng CNTT
truyền thông trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước để đến năm
2020, hầu hết các dịch vụ công được cung cấp trực tiếp trên mạng thông tin
điện tử hành chính của Chính phủ ở mức độ 3 và 4, đáp ứng nhu cầu thực
tế, phục vụ người dân, doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều
phương tiện khác nhau.
Trên cơ sở chỉ đạo của Trung ương, thành phố Đà Nẵng cũng như các
tỉnh, thành phố khác trong cả nước, trong những năm qua đã có nhiều chú
trọng trong công tác CCHC, tăng cường ứng dụng CNTT trong công tác chỉ
đạo, điều hành của các cấp và có những bước phát triển vượt bậc, đạt nhiều
kết quả đáng ghi nhận, góp phần làm biến đổi mạnh mẽ đời sống kinh tế, văn

1


hóa, xã hội và môi trường kinh doanh của thành phố. Hạ tầng kỹ thuật CNTT
thông tin đáp ứng được các hoạt động của Chính quyền thành phố, bao gồm
mạng đô thị thành phố, trung tâm dữ liệu, hệ thống kết nối không dây công
cộng, trung tâm thông tin dịch vụ công…Cơ chế, chính sách hỗ trợ ứng dụng
CNTT được cập nhật và ban hành kịp thời, góp phần cải thiện môi trường
phát triển CNTT trên địa bàn thành phố, tạo tiền đề để thu hút đầu tư trong
nước và Quốc tế. Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác ứng dụng CNTT
trong các cơ quan nhà nước của thành phố trong thời gian qua cũng còn một
số hạn chế, đó là: Ngân sách địa phương bố trí cho kế hoạch ứng dụng CNTT
hằng năm còn hạn chế, ở mức khá thấp so với mức đầu tư trung bình của các
địa phương trên cả nước, có nguy cơ không đủ nguồn lực để duy trì và phát
triển hệ thống hạ tầng ứng dụng CNTT trong những năm đến; chưa có mục

lục ngân sách cho ứng dụng CNTT, vẫn còn phụ thuộc vào nguồn kinh phí
của sự nghiệp Khoa học - Công nghệ; một số quy định trong lĩnh vực văn thư,
lưu trữ chưa theo kịp tiến bộ của công tác ứng dụng CNTT, gây cản trở việc
sử dụng văn bản điện tử, cản trở công tác ứng dụng CNTT và CCHC; mức độ
đảm bảo an toàn, an ninh thông tin tại các máy tính cá nhân của cán bộ, công
chức, viên chức (CBCCVC) ở một số cơ quan, đơn vị còn hạn chế, tự ý cài
đặt các phần mềm bẻ khóa, phần mềm không rõ nguồn gốc, tiềm ẩn nhiều
nguy cơ gây mất an toàn thông tin cho hệ thống CNTT của đơn vị cũng như
của thành phố, các máy tính không được trang bị phần mềm diệt virus có chất
lượng; hiệu quả sử dụng trang thiết bị, hạ tầng CNTT tại một số đơn vị, đặc
biệt là các phường, xã chưa cao do thiếu chỉ đạo của lãnh đạo và thiếu cán bộ
chuyên trách CNTT, các đơn vị ít quan tâm đến công tác bảo trì bảo dưỡng
dẫn đến một số thiết bị hư hỏng hoặc hoạt động với hiệu suất thấp; cơ chế ưu
đãi cho cán bộ chuyên trách CNTT tại các cơ quan nhà nước của thành phố
chưa được lãnh đạo thành phố quan tâm phê duyệt, chưa khuyến khích được

2


cán bộ tích cực trong công tác triển khai ứng dụng CNTT tại từng đơn vị; một
số ứng dụng được các Bộ, ngành triển khai từ Trung ương đến địa phương
(ứng dụng ngành dọc) nhưng không liên thông chia sẻ dữ liệu, không tương
thích với các ứng dụng đang triển khai trên địa bàn thành phố, dẫn đến nguy
cơ phá vỡ kiến trúc ứng dụng CNTT đã được thành phố xây dựng trong nhiều
năm qua; lãnh đạo một số cơ quan, đơn vị chưa thật sự quyết liệt trong công
tác triển khai ứng dụng và cung cấp dịch vụ công trực tuyến, tỷ lệ sử dụng
dịch vụ công trực tuyến mức 3, 4 còn thấp.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên nên tôi đã chọn đề tài “Chính sách
ứng dụng Công nghệ thông tin trong Quản lý hành chính nhà nước từ thực
tiễn thành phố Đà Nẵng” để làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
2.1. Nghiên cứu ở ngoài nước
Có rất nhiều tài liệu nghiên cứu về vai trò CNTT đối với phát triển kinh
tế - xã hội. Tác giả luận văn đã tiếp cận được một số công trình nghiên cứu
khá điển hình như: “Văn minh của làn sóng thứ ba” của tác giả Allvin Toffler,
Hetdi Toffler; “Làn sóng thứ ba” của tác giả Allvin Toffler; “Cú sốc tương
lai” của tác giả Allvin Toffler; “Đạo đức thông tin trong xã hội kinh tế tri
thức” của tác giả Cameron Esslement. Trong các tác phẩm này, các tác giả đã
đề cập đến sự xuất hiện của một trào lưu hay một làn sóng mới, đó là làn sóng
CNTT. Cùng với sự xuất hiện này, tất yếu dẫn đến những đòi hỏi thay đổi
một cách toàn diện các phương thức vốn được coi là hợp lý trước đây đối với
việc vận hành và phát triển xã hội.
2.2. Nghiên cứu ở trong nước
Hiện nay, có nhiều tác phẩm viết về vai trò của CNTT trong đời sống
như: “Công nghệ thông tin - Tổng quan và một số vấn đề cơ bản” của Ban
Chỉ đạo Chương trình Quốc gia về CNTT, Nxb. Giao thông vận tải, Hà Nội,

3


năm 1997; “Kỷ yếu hội thảo Khoa học kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra
đối với Việt Nam” của Ban Khoa giáo Trung ương, Bộ Khoa học - Công nghệ
và Môi trường, Bộ Ngoại giao, Hà Nội, năm 2002; “Ứng dụng và phát triển
Công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa” của
Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương. Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2001; “Chủ nghĩa tư bản và thời đại thông
tin” của Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi trường, lưu hành nội bộ, Hà Nội,
năm 2001; “Công nghệ thông tin Hà Nội cất cánh” của Hội Tin học Việt
Nam, tạp chí Tin học và Đời sống (số 3, 5, 6, 9, 11); “Thương mại điện tử”,
tác giả Vũ Ngọc Cừ, Trịnh Thanh Lâm, Nxb. Giao thông vận tải, Hà Nội, năm

2001. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp về thực
hiện ứng dụng Công nghệ thông tin trong Quản lý hành chính nhà nước
(QLHCNN) từ thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng. Đây cũng là lý do để luận
văn này được lựa chọn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật CNTT và truyền thông của thành phố, bảo
đảm đáp ứng nhu cầu triển khai các ứng dụng Chính quyền điện tử, đẩy mạnh
CCHC tại các cơ quan QLHCNN trên địa bàn thành phố, tiến đến xây dựng
thành công mô hình thành phố thông minh, trong đó cơ quan nhà nước sử
dụng CNTT làm công cụ chính để điều hành các hoạt động đời sống xã hội
của thành phố.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích, làm rõ những vấn đề về lý luận, quy định của pháp luật liên
quan đến ứng dụng CNTT trong QLHCNN, qua đó thống nhất về mặt lý luận
phục vụ công tác nghiên cứu.

4


- Khảo sát, đánh giá thực trạng ứng dụng CNTT trong QLHCNN tại
thành phố Đà Nẵng, chỉ ra những bất cập, hạn chế.
- Đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm hoàn thiện công tác
QLHCNN về CNTT của thành phố Đà Nẵng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chính sách ứng dụng CNTT trong Quản lý hành chính nhà nước ở Đà
Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Thành phố Đà Nẵng.

- Phạm vi thời gian: Từ năm 2011 đến nay.
4.3. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của luận văn là hiệu quả của Quản lý hành chính
nhà nước.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài vận dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành xã hội học và
phương pháp nghiên cứu chính sách công. Đó là cách tiếp cận quy phạm
chính sách công về chu trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng, thực
hiện và đánh giá chính sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách.
Lý thuyết chính sách công được soi sáng qua thực tiễn của chính sách công,
giúp hình thành lý luận về chính sách chuyên ngành CNTT.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu chính sách công kết hợp giữa
nghiên cứu lý thuyết và thực tế, phương pháp phân tích, hệ thống, so sánh,
tổng hợp.
Các phương pháp trên được sử dụng để thu thập, phân tích và khai thác
thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu như văn kiện,

5


Nghị quyết của Đảng, Nhà nước, các Bộ, ngành từ Trung ương đến địa
phương; các tài liệu, công trình nghiên cứu, các báo cáo, thống kê của UBND,
các tổ chức, cá nhân có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề thực hiện
chính sách ứng dụng CNTT ở nước ta nói chung và thực tế tại thành phố Đà
Nẵng nói riêng. Đồng thời, thu thập, tìm hiểu và vận dụng các lý thuyết của
ngành chính sách xã hội liên quan đến vấn đề thực hiện chính sách phát triển
CNTT.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần bổ sung, hoàn thiện những vấn đề lý luận chung về
thực hiện chính sách công nói chung và chính sách ứng dụng CNTT nói riêng.
Đề xuất các phương hướng và giải pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách ứng dụng CNTT trong QLHCNN tại thành phố Đà Nẵng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài có thể được vận dụng vào thực tế ở thành phố Đà Nẵng cũng như
tham khảo cho các địa phương khác trong công tác QLHCNN về CNTT. Đề
tài còn là tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo, bồi dưỡng quản lý hành
chính công.
7. Cơ cấu của luận văn
Bố cục của bài viết không kể mở đầu, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham
khảo và phụ lục, đề tài bao gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về chính sách ứng dụng CNTT và
thực hiện chính sách ứng dụng CNTT.
- Chương 2: Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách ứng dụng CNTT
trong QLHCNN từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.
- Chương 3: Phương hướng, mục tiêu và giải pháp nâng cao hiệu quả thực
hiện chính sách ứng dụng CNTT trong QLHCNN tại thành phố Đà Nẵng.

6


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH ỨNG DỤNG
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
1.1. Khái niệm Công nghệ thông tin và chính sách ứng dụng Công
nghệ thông tin
1.1.1. Khái niệm Công nghệ thông tin

CNTT là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin, đặc
biệt trong các cơ quan, tổ chức. Cụ thể, CNTT là ngành sử dụng máy tính và
phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền và thu thập
thông tin. Vì lý do đó, những người làm việc trong ngành này thường được
gọi là các chuyên gia CNTT (IT specialist) hoặc cố vấn quy trình doanh
nghiệp (Business Process Consultant), tại bộ phận của một công ty hay đại
học chuyên ngành về CNTT thường được gọi là Phòng Công nghệ thông tin.
Ở Việt Nam thì khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong Nghị quyết
số 49/NQ-CP ban hành ngày 04/8/1993 về phát triển CNTT của Chính phủ
Việt Nam như sau: "Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa
học, các phương tiện và công cụ kỹ thuật hiện đại, chủ yếu là kỹ thuật máy
tính và viễn thông, nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn
tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động
của con người và xã hội”. Trong hệ thống giáo dục Tây phương, CNTT đã
được chính thức tích hợp vào chương trình học phổ thông, người ta đã nhanh
chóng nhận ra rằng nội dung về CNTT đã có ích cho tất cả các môn học khác.
Với sự ra đời của Internet mà các kết nối băng thông rộng tới tất cả các trường
học, áp dụng của kiến thức, kỹ năng và hiểu biết về CNTT trong các môn học
đã trở thành hiện thực [6].

7


1.1.2. Khái niệm Chính sách và Chính sách công
Theo tác giả James Anderson trong các tác phẩm viết vào năm 2003,
Chính sách được hiểu là: “Chính sách là một quá trình hành động có mục đích
theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ
quan tâm” (PGS.TS Lê Chi Mai, 2008); hoặc theo TS. Nguyễn Thị Như Mai,
Văn phòng Chính phủ cho rằng: “Chính sách là các chủ trương và các biện
pháp của một đảng phái, một Chính phủ trong các lĩnh vực chính trị - xã hội”.

Theo báo cáo “Chính sách và xây dựng pháp luật” của TS. Luật học
Nguyễn Thị Như Mai, từ Ban Xây dựng pháp luật, Văn phòng Chính phủ,
khái niệm Chính sách công được hiểu như sau: “Chính sách công là những
sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt được một mục đích nhất định, dựa vào
đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra”; theo Thomas Dye đã
đưa ra một định nghĩa ngắn gọn về Chính sách công là: “Chính sách công là
bất kỳ những gì mà Nhà nước lựa chọn làm hoặc không làm”; khái niệm về
chính sách công của William Jenkins cụ thể hơn so với định nghĩa trên, theo
ông, “Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau
được ban hành bởi một nhà hoạt động chính trị hoặc một nhóm các nhà hoạt
động chính trị liên quan đến lựa chọn các mục tiêu và các phương tiện để đạt
mục tiêu trong một tình huống cụ thể thuộc phạm vi thẩm quyền của họ”; còn
James Anderson đưa ra một định nghĩa chung hơn: “Chính sách công như là
một đường lối hành động có mục đích được ban hành bởi một nhà hoạt động
hoặc một nhóm các nhà hoạt động để giải quyết một vấn đề phát sinh hoặc
vấn đề quan tâm”. Cho đến nay có khá nhiều định nghĩa về Chính sách công
được các học giả đưa ra, cho dù có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng tất cả
các định nghĩa trên đều thống nhất ở hai điểm cơ bản, đó là Chính sách công
bắt nguồn từ các quyết định của Nhà nước và dùng để giải quyết những vấn
đề chung vì lợi ích của đời sống cộng đồng.

8


Từ các khái niệm trên, chúng ta có thể đi đến một khái niệm chung về
Chính sách công như sau: “Chính sách công là những hành động ứng xử của
Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện
bằng nhiều hình thức khác nhau nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo định
hướng” (theo Nguyễn Văn Thọ, Giáo trình Chính sách công, Học viện Chính
sách phát triển).

Chính sách công là tập hợp những quyết định mang tính chính trị của
chủ thể cầm quyền nhằm vạch ra những đường hướng, hành động ứng xử cơ
bản của chủ thể quản lý với các vấn đề, hiện tượng tồn tại trong đời sống.
Khái niệm Chính sách công được khái quát như sau: “Chính sách công là tập
hợp các quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn các
mục tiêu cụ thể với giải pháp và công cụ thực hiện, giải quyết các vấn đề của
xã hội theo mục tiêu xác định của đảng chính trị cầm quyền” (PGS.TS Đỗ
Phú Hải, 2012) [9].
Chủ thể ban hành là Nhà nước, các quyết định về Chính sách công là
những quyết định chính trị, bao hàm ý chí chính trị và thực tiễn cuộc sống
nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân. Chính sách công tập trung giải quyết
vấn đề xã hội đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu tổng
thể đã xác định, không chỉ đề ra mục tiêu và các giải pháp với công cụ hành
động thực hiện nhằm giải quyết một hoặc một số vấn đề có mối quan hệ biện
chứng đang đặt ra trong đời sống xã hội mà còn giải quyết các mối quan hệ
giữa các bên tham gia chính sách.
1.1.3. Khái niệm phát triển
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì: “Phát triển là phạm trù triết học
chỉ ra tính chất của những biến đổi đang diễn ra trong thế giới. Phát triển là
một thuộc tính của vật chất. Mọi sự vật và hiện tượng của hiện thực không tồn
tại trong trạng thái khác nhau từ khi xuất hiện đến lúc tiêu vong….nguồn gốc

9


của phát triển là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập” [3, tr. 67].
- Về quan điểm siêu hình: “Sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi
đơn thuần về lượng, không có sự thay đổi về mặt chất của sự vật, nếu có sự
thay đổi về mặt chất thì cũng chỉ diễn ra theo vòng tròn khép kín, không có sự
ra đời cái mới”.

- Quan điểm triết học duy vật biện chứng: “Phát triển là một phạm trù
triết học chỉ khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp lên cao, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật. Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay
trong bản thân sự vật”.
- Quan điểm trong nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ: “Phát
triển là tạo ra cái mới hoặc hoàn thiện, thay đổi về căn bản cái đã có để có cái
tốt hơn, tiến bộ hơn. Cái mới, cái được hoàn thiện (tức phát triển) có thể có
hai khía cạnh chính, đó là phát triển về số lượng và phát triển về chất lượng”.
- Theo Bùi Minh Thanh: “Phát triển là một quá trình tiến hóa của mọi
xã hội, mọi cộng đồng dân tộc, trong đó có các chủ thể lãnh đạo và quản lý
bằng các chiến lược và chính sách thích hợp với những đặc điểm về lịch sử,
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và cộng đồng dân tộc mình tạo ra, huy động
và quản lý các nguồn lực tự nhiên và con người nhằm đạt được những thành
quả bền vững và được phân phối công bằng cho các thành viên trong xã hội vì
mục đích không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của họ”.
- Theo PGS.TS Mai Hà: “Phát triển là một sự gia tăng về lượng và chất
trong mối tương quan cân đối hài hòa”.
Từ các định nghĩa nêu trên, ta nhận thấy có nhiều quan điểm khác nhau,
quan điểm về siêu hình thì chỉ tăng về lượng, không tăng về chất; quan điểm
chung thì tạo ra cái mới tốt hơn, tiến bộ hơn với sự gia tăng về lượng và chất.
Tuy nhiên có một cách nhìn rất hợp lý của PGS.TS Mai Hà là “Phát triển là sự
gia tăng về lượng và chất phải được đặt trong mối tương quan cân đối hài hòa”.

10


1.2. Thiết kế chính sách ứng dụng Công nghệ thông tin
1.2.1. Xác định vấn đề chính sách ứng dụng Công nghệ thông tin
Để xây dựng chu trình chính sách hiệu quả, điều đầu tiên là phải xác
định chính xác và kịp thời vấn đề chính sách. Nếu xác định vấn đề sai sẽ dẫn

đến chính sách công sai, tất yếu dẫn đến chu trình chính sách sẽ sai, kéo theo
nhiều tổn thất và hệ lụy trong xã hội, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát
triển của đất nước. Do đó, muốn xác định được vấn đề chính sách, đòi hỏi chủ
thể xây dựng chính sách phải thường xuyên quan sát và phân tích thực tế để
kịp thời chỉ ra và dự báo được những mâu thuẫn cơ bản nảy sinh trong đời
sống kinh tế - xã hội cần được giải quyết nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển
của xã hội.
Vấn đề của chính sách phát triển ứng dụng CNTT là chưa triển khai
được các chính sách một cách rộng rãi trong đời sống xã hội, chưa phát huy
được tiềm năng và sức mạnh của CNTT, chưa có những chính sách ưu đãi rõ
ràng cho phát triển ứng dụng CNTT, nguồn nhân lực CNTT còn thiếu về số
lượng và yếu về năng lực chuyên môn, đó là những mâu thuẫn đòi hỏi phải
được giải quyết; mâu thuẫn giữa sự bứt phá phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng
của CNTT và sự chậm chạp, lạc hậu của các chính sách, văn bản luật của Việt
Nam, dẫn đến tình trạng chưa phù hợp và đồng bộ; mâu thuẫn giữa mức
lương thấp của cán bộ CNTT với chi phí cuộc sống không ngừng tăng lên
từng ngày; mâu thuẫn giữa khả năng cống hiến và mức độ đãi ngộ. Việc xác
định chính xác và kịp thời các mâu thuẫn cơ bản trên sẽ giúp cho việc xây
dựng, ban hành, thực thi chính sách ứng dụng CNTT đạt hiệu quả cao.
1.2.1.1. Vấn đề xây dựng quy hoạch ứng dụng Công nghệ thông tin
Xây dựng quy hoạch ứng dụng CNTT đang là một trong những vấn đề
rất được quan tâm trong giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội hiện nay. Đặc
biệt trong bối cảnh CNTT thế giới phát triển như vũ bão, nguyên nhân chủ

11


yếu là do nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về vai trò của ứng
dụng CNTT chưa đầy đủ, thực hiện chưa triệt để các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước.

1.2.1.2. Vấn đề ứng dụng Công nghệ thông tin rộng rãi, có hiệu quả
trong toàn xã hội
CNTT chưa được ứng dụng rộng rãi, có hiệu quả vào hoạt động của các
lĩnh vực kinh tế - xã hội, nghiên cứu, đào tạo, đối ngoại, quốc phòng, an ninh,
hoạt động phòng chống bão lụt, thiên tai, thảm họa…
1.2.1.3. Vấn đề đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực cho ứng dụng Công
nghệ thông tin
Đào tạo, bồi dưỡng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao trình
độ chuyên môn, năng lực công tác đối với cán bộ trực tiếp làm công tác
CNTT. Trên thực tế hiện nay, các cơ quan, đơn vị sự nghiệp công lập nói
chung đã và đang quan tâm nhiều đến công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng
nguồn nhân lực, tuy nhiên hiệu quả vẫn chưa cao, đào tạo, bồi dưỡng nhiều
khi còn lãng phí, không phù hợp với thực tiễn công việc, sử dụng cán bộ được
đào tạo về CNTT vào những vị trí chưa phù hợp, chưa đúng chuyên môn.
1.2.1.4. Vấn đề Quản lý hành chính nhà nước đối với lĩnh vực Công
nghệ thông tin
QLHCNN có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách CNTT.
Để đổi mới QLHCNN về CNTT, các nhà lãnh đạo cần kết hợp chặt chẽ giữa
ứng dụng CNTT với quá trình cơ cấu lại sản xuất, kinh doanh, CCHC, đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự QLNN. QLHCNN trong các lĩnh
vực ứng dụng CNTT, viễn thông và thông tin điện tử chưa thống nhất, thiếu
đồng bộ, chưa tạo được môi trường cạnh tranh lành mạnh cho việc cung ứng
dịch vụ viễn thông, chưa coi đầu tư cho xây dựng hạ tầng thông tin là loại
đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội. Hiện nay, hệ thống QLHCNN về

12


ứng dụng CNTT gồm các cơ quan quản lý các cấp về CNTT ở Trung ương
và địa phương. Tuy nhiên, chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan, đơn vị

còn chồng chéo, chưa phù hợp với từng địa phương, chưa có các chính sách
phù hợp để quản lý, ứng dụng CNTT một cách thống nhất.
Như vậy, trong các chủ trương phát triển CNTT nói chung, vấn đề thực
hiện chính sách ứng dụng CNTT luôn có một vị trí cực kỳ quan trọng, là yếu
tố được Chính phủ, các cấp, các ngành và toàn xã hội đặc biệt quan tâm.
1.2.2. Mục tiêu của chính sách ứng dụng Công nghệ thông tin
Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra mục tiêu đổi mới với ngành CNTT là:
Phát triển mạng thông tin quốc gia trên quy mô cả nước với tốc độ và chất
lượng cao, ổn định, giá thành thấp; tăng tỷ lệ người tiếp cận với các ứng dụng
CNTT, sử dụng Internet; đưa CNTT trở thành ngành công nghiệp kinh tế mũi
nhọn, có tốc độ phát triển hàng năm cao nhất so với các khu vực khác, có tỷ lệ
đóng góp cho tăng trưởng GDP của cả nước ngày càng tăng.
Để thực hiện tốt mục tiêu trên, Bộ Chính trị đã quán triệt một số chủ
trương lớn như: Ứng dụng CNTT là một nhiệm vụ ưu tiên trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, là phương tiện chủ lực để đi tắt đón đầu, rút ngắn
khoảng cách phát triển so với các nước đi trước. Mọi lĩnh vực hoạt động kinh
tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng đều phải ứng dụng CNTT để phát
triển. Mạng thông tin quốc gia là kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng, phải
tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình ứng dụng CNTT, đảm bảo được tốc độ và
chất lượng cao, giá cước rẻ. Phát triển nguồn nhân lực cho CNTT là yếu tố then
chốt, có ý nghĩa quyết định đối với việc ứng dụng CNTT, đồng thời phát triển
công nghiệp CNTT thành một ngành kinh tế quan trọng, đặc biệt là phát triển
công nghiệp phần mềm [11].
1.2.3. Giải pháp và công cụ chính sách ứng dụng Công nghệ thông tin
1.2.3.1. Giải pháp chính sách ứng dụng Công nghệ thông tin
Giải pháp chính sách ứng dụng CNTT bao gồm nhóm giải pháp liên

13



quan đến mục tiêu chính sách và nhóm giải pháp liên quan đến công cụ chính
sách. Khi hoạch định chính sách ứng dụng CNTT, các chủ thể đã tập trung
vào một số giải pháp đồng bộ sau:
- Xây dựng quy hoạch ứng dụng CNTT và ban hành các văn bản chính
sách ứng dụng CNTT: Để xây dựng quy hoạch ứng dụng CNTT tốt, trước tiên
chúng ta phải gắn kết chặt chẽ giữa quy hoạch ứng dụng CNTT với quy hoạch
phát triển kinh tế - xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước đến
năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Giải pháp chính sách đồng bộ ở đây thể
hiện rõ trong việc hình thành một mạng lưới tổ chức khoa học trong các
ngành; xây dựng quy hoạch phát triển nguồn nhân lực CNTT trong từng mốc
thời gian cụ thể để có kế hoạch triển khai đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình
độ chuyên môn, đồng thời đổi mới việc tuyên truyền để người dân, doanh
nghiệp, các tổ chức hiểu được vị trí, tầm quan trọng, đánh giá đúng những
thành tựu đạt được của CNTT. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta cần quan
tâm hơn nữa đến việc hoàn thiện các chính sách đối với lĩnh vực ứng dụng
CNTT. Hiện nay, chưa có Thông tư hướng dẫn một cách nhất quán, cụ thể và
rõ ràng nên việc triển khai thực hiện chính sách ứng dụng CNTT từ Trung
ương đến địa phương.
- Ứng dụng rộng rãi CNTT có hiệu quả trong toàn xã hội: Các cơ quan
Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội đi đầu trong việc triển khai
ứng dụng CNTT trong hoạt động chuyên môn theo phương châm tiết kiệm,
thiết thực và hiệu quả lâu dài. Ứng dụng CNTT thể hiện ở việc tin học hóa
hoạt động của các cơ quan Đảng và Nhà nước, là bộ phận hữu cơ quan trọng
của cải cách nền hành chính quốc gia, là nhiệm vụ thường xuyên của các cơ
quan nhằm tăng cường năng lực quản lý, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu
quả. Đồng thời, các cấp ủy Đảng chỉ đạo khẩn trương xây dựng các hệ thống
thông tin cần thiết phục vụ lợi ích công cộng của nhân dân, chấp hành sự lãnh
đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước.
14



Bên cạnh việc ứng dụng CNTT, chúng ta cũng cần tập trung phát triển
những dịch vụ điện tử trong các lĩnh vực thương mại, điện tử và các dịch vụ
công cộng. Để có thể ứng dụng CNTT trong toàn xã hội thì Nhà nước cần tạo
môi trường thuận lợi cho ứng dụng CNTT, cần rà soát và tháo bỏ những nhận
thức và quy định không phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi nhất, áp dụng mức
ưu đãi hiện hành cao nhất và từng bước đạt mức ưu đãi bằng hoặc cao hơn so
với các nước trong khu vực cho việc ứng dụng CNTT; chuẩn hóa thông tin và
các hệ thống thông tin trong từng lĩnh vực; bảo đảm các điều kiện cần thiết
cho việc trao đổi và sử dụng chung các cơ sở dữ liệu, các hệ thống thông tin
trong nước và quốc tế; có các biện pháp chủ động và các quy định cụ thể về
an toàn và an ninh thông tin, trước hết là trong lĩnh vực quản lý nhà nước, an
ninh, quốc phòng; khuyến khích và hỗ trợ việc phổ cập, nâng cao trình độ
ngoại ngữ trong một bộ phận nhân dân, nhất là trong thanh, thiếu niên; xây
dựng tiêu chuẩn ngành, nghề với mức lương và chế độ đãi ngộ hợp lý đối với
đội ngũ cán bộ về CNTT.
- Đẩy mạnh việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực cho ứng dụng
CNTT: Phát triển quy mô và tăng cường chất lượng đào tạo nguồn nhân lực
về CNTT, chú trọng phát triển nhanh lực lượng cán bộ chuyên trách, đặc biệt
là đội ngũ chuyên gia về phần mềm, đáp ứng kịp thời và thường xuyên nhu
cầu trong nước và một phần thị trường nước ngoài, đạt chỉ tiêu về số lượng,
các chuyên gia trong lĩnh vực CNTT ngang với mức bình quân của các nước
trong khu vực.
Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong công tác giáo dục và đào tạo ở các
cấp học, bậc học, ngành học. Phát triển các hình thức đào tạo từ xa phục vụ
cho nhu cầu học tập của toàn xã hội. Đặc biệt cần tập trung phát triển mạng
máy tính phục vụ cho giáo dục và đào tạo, kết nối Internet với tất cả các cơ sở
giáo dục và đào tạo. Đầu tư thỏa đáng cho công tác đào tạo, nghiên cứu về

15



CNTT; gắn chặt giữa đào tạo, nghiên cứu và sản xuất, kinh doanh; xã hội hóa
mạnh mẽ việc đào tạo về CNTT; khuyến khích và thu hút các tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước tham gia đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực về CNTT
của Việt Nam; xây dựng và thực hiện chương trình cử giáo viên đi đào tạo,
bồi dưỡng ở trong và ngoài nước để nâng cao trình độ giảng dạy; tạo điều
kiện cho học sinh, sinh viên, nghiên cứu sinh đi học, thực tập và nghiên cứu
về CNTT ở nước ngoài; áp dụng chính sách đặc biệt cho việc đào tạo, bồi
dưỡng chuyên gia giỏi, nhân tài trong lĩnh vực CNTT.
- Tăng cường, đổi mới công tác QLHCNN đối với lĩnh vực CNTT: Đổi
mới QLHCNN trong lĩnh vực CNTT chính là việc đổi mới quản lý trên tất cả
các phương diện như: Xây dựng quy hoạch, cơ chế chính sách, tổ chức thực
hiện, đào tạo bồi dưỡng, thanh kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý
vi phạm trong lĩnh vực CNTT… Nhà nước cần điều chỉnh cơ chế tài chính,
ưu tiên bố trí ngân sách để ứng dụng CNTT trong một số lĩnh vực thiết yếu,
tạo lập nền công nghiệp CNTT và phát triển nguồn nhân lực CNTT; cân đối
lại tỷ lệ phân bổ ngân sách, đảm bảo tỷ lệ cân xứng cho nhiệm vụ CNTT; tạo
điều kiện cho các nhà nghiên cứu được chủ động sử dụng nguồn kinh phí này
và tự chịu trách nhiệm về kết quả và hiệu quả nghiên cứu, được hưởng lợi
chính đáng, hợp pháp từ kết quả nghiên cứu của họ; chủ động tăng cường
giao lưu và hợp tác quốc tế, khuyến khích hợp tác với các tổ chức, cá nhân
Việt Nam ở nước ngoài trong lĩnh vực CNTT.
Đảng, Nhà nước cần sớm hoàn thiện và ban hành hệ thống văn bản
pháp quy về quản lý, thực hiện chính sách ứng dụng CNTT theo phương
châm năng lực quản lý, phải theo kịp tốc độ phát triển, đầu tư phải thiết thực,
hiệu quả, không được lãng phí và đảm bảo công khai, minh bạch.
1.2.3.2. Công cụ chính sách ứng dụng Công nghệ thông tin
Đối với chính sách ứng dụng CNTT, hệ thống các công cụ chính sách


16


cụ thể là: Công cụ dựa vào tổ chức, công cụ dựa vào quyền lực, công cụ tài
chính, công cụ truyền thông.
- Công cụ dựa vào tổ chức: Đây là cách thức chủ thể tác động lên đối
tượng và quá trình thực hiện chính sách bằng cơ cấu tổ chức thông qua các
chức năng, nhiệm vụ được phân công nhằm đạt được mục tiêu dự kiến. Cụ thể
ở đây là các nhà quản lý cần bố trí, sử dụng nguồn nhân lực làm CNTT một
cách hợp lý, phù hợp với vị trí việc làm, đúng chuyên môn, đúng cơ cấu
nguồn nhân lực của đơn vị.
- Công cụ dựa vào quyền lực: Là cách thức chủ thể tác động lên đối
tượng bằng quyền lực nhằm đạt được mục tiêu đặt ra. Để công tác ứng dụng
CNTT đạt hiệu quả thì cần phải nâng cao vai trò công tác quản lý, thanh tra,
kiểm tra, xử lý nghiêm những sai phạm về CNTT từ Trung ương đến địa
phương.
- Công cụ tài chính: Là công cụ được các chủ thể sử dụng phổ biến khi
triển khai thực hiện chính sách ứng dụng CNTT. Đây là công cụ dùng lợi ích
vật chất và tinh thần để điều chỉnh các hoạt động trong lĩnh vực CNTT. Các
tác động kích thích vật chất hoặc tinh thần của chủ thể chính sách đối với đối
tượng thụ hưởng chính sách vô cùng phong phú. Nhà nước cần phải ưu tiên
về tài chính để phát triển CNTT trong một số lĩnh vực thiết yếu, ưu đãi các
nhóm chính.
- Công cụ thông tin: Cơ quan truyền thông cũng như cơ quan sử dụng
CBCCVC có trách nhiệm phổ biến, tuyên truyền chính sách ứng dụng CNTT
để nâng cao trách nhiệm và hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Tóm lại, một chính sách tốt không chỉ dùng công cụ cưỡng chế (tức
công cụ quyền lực) hay khuyến khích vật chất (tức công cụ tài chính), nó sẽ
không đủ động lực để thúc đẩy các nhà nghiên cứu ứng dụng, cống hiến sức
lực, trí tuệ cho sự nghiệp CNTT. Vì vậy, khi thực thi chính sách ứng dụng


17


CNTT, chủ thể chính sách cần sử dụng linh hoạt, kết hợp các công cụ nhằm
mang lại kết quả tốt nhất trong triển khai thực thi chính sách ứng dụng CNTT
hiện nay.
1.3. Cách tiếp cận và phƣơng pháp tổ chức thực hiện chính sách
ứng dụng Công nghệ thông tin
1.3.1. Cách tiếp cận thực hiện chính sách ứng dụng Công nghệ
thông tin
Có một số phương pháp tiếp cận khi thực hiện chính sách, trong đó
phương pháp tiếp cận “từ trên xuống” được xem là phương pháp truyền thống
nhất khi thực hiện một chính sách. Cách tiếp cận này đảm bảo được tính
thống nhất khi ban hành chính sách, đảm bảo chính sách được triển khai
nhanh gọn, tránh sự chồng chéo, mất tập trung khi thực thi. Tuy nhiên, nó
không phát huy được tính chủ động, sáng tạo của cơ sở, chưa thật sự phù hợp
với hoàn cảnh, tình hình kinh tế - xã hội của từng địa phương. Ngược lại,
phương pháp tiếp cận “từ dưới lên” tuy khắc phục được những nhược điểm
của phương pháp tiếp cận “từ trên xuống”, nhưng vẫn gặp phải một số vấn đề
khi thực hiện, vì nó chịu ảnh hưởng mang tính chủ quan của những cán bộ
chuyên trách. Ngoài ra, phương pháp này chưa thật sự huy động được sự tham
gia của người dân và doanh nghiệp. Do đó, để đảm bảo phù hợp với tình hình
mới nhằm đạt được mục tiêu hướng đến cộng đồng, phương pháp tiếp cận phù
hợp nhất khi thực hiện chính sách là tiếp cận theo chiều dọc “từ trên xuống”
và “từ dưới lên”.
Chính sách ứng dụng CNTT được Chính phủ hoạch định và thực hiện
liên tục trong suốt quá trình đổi mới kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Với định
hướng thống nhất, chính sách ứng dụng CNTT là một trong những công cụ
quan trọng giúp cho Chính phủ thay đổi cơ cấu kinh tế bằng việc phát triển

ngành công nghiệp mới, đặc biệt là ngành công nghiệp cao. Đồng thời, hoạt

18


động ứng dụng CNTT được triển khai trong mọi mặt đời sống kinh tế - xã
hội, chú trọng là trong hoạt động của các cơ quan nhà nước nhằm góp phần
thành công xây dựng Chính phủ điện tử. Cụ thể: Chính phủ thống nhất quản
lý hành chính nhà nước về CNTT; Bộ Thông tin và Truyền thông chịu trách
nhiệm trước Chính phủ trong việc chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang
bộ có liên quan; các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền
hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông
thực hiện QLNN về CNTT theo phân công của Chính phủ; UBND tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực
hiện QLNN về CNTT tại địa phương [8].
1.3.2. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách ứng dụng
Công nghệ thông tin
Đây là nhiệm vụ đầu tiên, quan trọng trong tổ chức thực hiện chính
sách ứng dụng CNTT. Hiệu quả thực hiện chính sách ứng dụng CNTT phụ
thuộc vào chất lượng, tính chính xác, tính khả thi của kế hoạch. Cần phải đầu
tư thời gian và công sức để xây dựng kỹ lưỡng kế hoạch thực hiện chính sách
ứng dụng CNTT trước khi đưa chính sách vào thực tiễn. Các cơ quan có
nhiệm vụ triển khai thực thi chính sách ứng dụng CNTT từ Trung ương đến
địa phương đều phải xây dựng kế hoạch thực hiện như: Về tổ chức điều hành,
về nguyên nhiên liệu, về thời gian triển khai thực hiện và về kiểm tra, đôn đốc
để đưa chính sách ứng dụng CNTT vào thực tiễn.
Ngoài ra, cần phải xây dựng nội quy, quy chế tổ chức điều hành thực
hiện chính sách; nêu rõ quyền hạn, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước và cán
bộ, công chức tham gia thực thi; biện pháp khen thưởng, kỷ luật đối với cá
nhân, tập thể trong tổ chức thực hiện chính sách ứng dụng CNTT. Việc lập kế

hoạch thực hiện chính sách tốt sẽ giúp cho việc thực thi chính sách được khả
thi và không phải qua điều chỉnh, bổ sung trong quá trình thực hiện.

19


1.3.3. Phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách ứng dụng Công
nghệ thông tin
Phổ biến, tuyên truyền là một hoạt động quan trọng trong thực hiện
chính sách ứng dụng CNTT của Đảng và Nhà nước. Hoạt động này không chỉ
giúp các cơ quan Đảng, Nhà nước, các ban, ngành cũng như các tổ chức
doanh nghiệp, nhân dân tham gia ứng dụng CNTT hiểu rõ về mục đích, yêu
cầu, tác động tích cực của chính sách, mà còn giúp các cơ quan Nhà nước, các
CBCCVC, các tổ chức xã hội có trách nhiệm tổ chức thực thi chính sách được
nhận thức đầy đủ tính chất, tầm quan trọng, trình độ, quy mô của chính sách
đối với các đối tượng vận dụng. Cần phải lựa chọn hình thức, phương pháp
phổ biến, tuyên truyền chính sách ứng dụng CNTT khác nhau như: tổ chức
hội thảo, hội thi, tọa đàm, tạo mối quan tâm, thúc đẩy sự thay đổi nhận thức
của toàn xã hội đối với công tác ứng dụng CNTT, đồng thời qua đó nghiên
cứu xây dựng, phát triển các chương trình ứng dụng CNTT trong công tác
quản lý, điều hành, xử lý công việc hành chính…, có sự tham gia của đối
tượng ứng dụng CNTT.
1.3.4. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách ứng dụng Công
nghệ thông tin
Trong tổ chức thực hiện chính sách ứng dụng CNTT, việc phân công,
phối hợp thực hiện chính sách có ý nghĩa hết sức quan trọng, tác động đến
hiệu quả thực hiện chính sách. Muốn tổ chức thực hiện tốt, phát huy được
những nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách ứng
dụng CNTT thì cần phải tiến hành phân công, phối hợp một cách chặt chẽ,
hợp lý giữa các cơ quan quản lý từ Trung ương đến các cấp chính quyền địa

phương. Đồng thời, xác định trách nhiệm cụ thể giữa cơ quan chủ trì và cơ
quan phối hợp. Thông qua việc phân công, phối hợp thực hiện chính sách một
cách khoa học sẽ mang lại kết quả tốt nhất có thể trong việc thực hiện chính

20


×