Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn Quận Tân Bình Thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌzC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HUỲNH BẢO KHUYÊN

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN TÂN BÌNH,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HUỲNH BẢO KHUYÊN

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN TÂN BÌNH,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số: 60 38 01 05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. VÕ KHÁNH VINH



HÀ NỘI - 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU ...........................................................................8
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sỡ hữu ............8
1.2.Mục đích, các nguyên tắc của phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu.13
1.3. Các chủ thể phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu ............................18
1.4. Nội dung và các biện pháp phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu ...22
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM
PHẠM SỞ HỮU TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH........................................................................................................................28
2.1. Thực trạng nhận thức về phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu trên
địa bàn Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh ....................................................28
2.2. Thực trạng hoạt động của các chủ thể phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm
sở hữu trên địa bàn Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh .................................31
2.3. Thực trạng thực hiện nội dung và các biện pháp phòng ngừa tình hình các tội
xâm phạm sở hữu trên địa bàn Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh ...............36
Chương 3: TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM
PHẠM SỞ HỮU TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH........................................................................................................................56
3.1. Tăng cường nhận thức về phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu trên
địa bàn Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh ....................................................56
3.2. Hoàn thiện tổ chức, lực lượng phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu
...................................................................................................................................59
3.3. Tăng cường các biện pháp phòng ngừa tội phạm ..............................................62
KẾT LUẬN ..............................................................................................................77

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................80


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật Hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

CAND

Công an nhân dân

CSND

Cảnh sát nhân dân

CHXHCN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

HĐND

Hội đồng nhân dân

KSV


Kiểm sát viên

NXB

Nhà xuất bản

TAND

Tòa án nhân dân

TPHCM

Thành phố Hồ Chí Minh

UBND

Ủy ban nhân dân

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỀU
Bảng 2.1: Số vụ phạm tội, số bị cáo phạm các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn
Quận Tân Bình giai đoạn 2012-2016 ........................................................................ 49
Bảng 2.2: Thống kê và thụ lý giải quyết 5 năm của các vụ án xâm phạm sở hữu cấp
tỉnh (TAND TP.HCM) .............................................................................................. 49
Bảng 2.3: Thống kê số vụ phạm tội một số tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn Quận
Tân Bình giai đoạn 2012-2016 .................................................................................. 51

Biểu đồ 2.1: Tình trạng nghề nghiệp của người phạm các tội xâm phạm sở hữu trên
địa bàn Quận Tân Bình giai đoạn 2012- 2016 .......................................................... 39
Biểu đồ 2.2: Trình độ học vấn của người phạm các tội xâm phạm sở hữu trên địa
bàn Quận Tân Bình giai đoạn 2012-2016 ................................................................. 41
Biểu đồ 2.3: Tỉ lệ người chưa thành niên phạm các tội xâm phạm sở hữu trên địa
bàn Quận Tân Bình giai đoạn 2012-2016 ................................................................. 42
Biểu đồ 2.4: Tỉ lệ người phạm tội là học sinh cấp 2, cấp 3 trong tổng số người phạm
tội là người chưa thành niên ...................................................................................... 43
Biểu đồ 2.5: Tỉ lệ người nghiện ma túy trong tổng số người phạm các tội xâm phạm
sở hữu trên địa bàn Quận Tân Bình giai đoạn 2012-2016 ........................................ 44
Biểu đồ 2.6 : Tỉ lệ bị cáo phạm tội tái phạm, tái phạm nguy hiểm do TAND Quận
Tân Bình thụ lý, xét xử giai đoạn 2012-2016 ........................................................... 47
Biểu đồ 2.7: Tỉ lệ bị cáo phạm tội cướp giật tài sản trong trường hợp tái phạm, tái
phạm nguy hiểm ........................................................................................................ 47
Biểu đồ 2.8: Cơ cấu các tội cụ thể trong nhóm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn
Quận Tân Bình giai đoạn 2012-2016 ........................................................................ 51
Biểu đồ 2.9: Diễn biến một số tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn Quận Tân Bình
giai đoạn 2012- 2016 ................................................................................................. 52
Biểu đồ 2.10 : Tỉ lệ bị cáo là phụ nữ bị xét xử các tội xâm phạm sở hữu tại TAND
Quận Tân Bình giai đoạn 2012-2016 ........................................................................ 54


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm về sở hữu trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh đang có xu hướng tăng về số vụ phạm tội, số người
phạm tội cũng như về tính chất nguy hiểm. Thực tế này xảy ra phổ biến tại 24
quận, huyện, trong đó có Quận Tân Bình. Là một quận có nền kinh tế phát triển
mạnh với những ưu thế về địa lý (có hai cửa ngõ giao thông quan trọng của cả
nước là cụm cảng hàng không sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất và quốc lộ 22

hướng về Củ Chi, Campuchia), khu vực này đã có những đóng góp quan trọng
vào sự phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung.
Tuy nhiên, với những nguyên nhân khách quan và chủ quan, tình hình tội phạm
trên địa bàn, nhất là các tội phạm về sở hữu, đang gây ra nhiều thiệt hại về vật
chất, tinh thần cho người dân, ảnh hưởng đến tình hình trật tự an toàn xã hội.
Theo số liệu thống kê từ Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, trong những
năm gần đây, trung bình mỗi năm Tòa án nhân dân Quận Tân Bình xét xử hơn
300 vụ phạm tội về sở hữu xảy ra trên địa bàn quận. Không những gia tăng về số
vụ, số người phạm tội, tính chất nguy hiểm của nhóm tội phạm này trên địa bàn
cũng đáng báo động, thể hiện trong thủ đoạn phạm tội ngày càng liều lĩnh, tinh
vi, tính có tổ chức trong việc thực hiện hành vi phạm tội, tính chống đối nguy
hiểm khi bị phát hiện và truy đuổi. Đứng trước tình hình này, các chủ thể phòng
ngừa tội phạm đã tiến hành nhiều biện pháp phòng ngừa, đấu tranh phòng chống
tội phạm nhưng nhìn chung hoạt động này vẫn chưa đạt hiệu quả và sự gia tăng
của tội phạm là một minh chứng cụ thể. Chính vì lý do trên, việc nghiên cứu
thực trạng phòng ngừa, đánh giá những kết quả đã đât được, những hạn chế của
hoạt động phòng ngừa và tìm ra những nguyên nhân của những hạn chế để từ đó
đưa ra các biện pháp phòng ngừa các tội phạm về sở hữu trên địa bàn Quận Tân
Bình, Thành phố Hồ Chí Minh là yêu cầu mang tính cấp thiết và học viên chọn
đề tài “Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn Quận Tân
Bình - Thành phố Hồ Chí Minh” cũng nhằm đáp ứng yêu cầu cấp thiết đó.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến đề tài “Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu trên
địa bàn Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh”, tác giả có tham khảo một số
công trình nghiên cứu sau:
1


- Giáo trình Tội phạm học của các trường đại học như Giáo trình Tội
phạm học của GS.TS Võ Khánh Vinh, Giáo trình Tội phạm học, Trường đại học

Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Hồng Đức, 2013. Các giáo trình này sẽ cung
cấp cho học viên những kiến thức cơ sở, nền tảng nhất về tình hình tội phạm,
phòng ngừa tội phạm.
- Các sách chuyên khảo, bao gồm: Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm
học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; - Nguyễn
Ngọc Điệp (2000), Tìm hiểu và bình luận các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Mũi Cà
Mau; Nguyễn Mai Bộ (2010), Các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự
năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
Các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt tài sản, Trần Văn Độ, Cao Thị
Oanh, Nxb Tư pháp, 2015. Từ các công trình này, học viên sẽ kế thừa những nội
dung liên quan đến dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm sở hữu, các quan
điểm tiến bộ về phòng ngừa tình hình tội phạm, tình hình tội xâm phạm sở hữu
tại Việt Nam hiện nay, từ đó tham khảo cho việc nghiên cứu các tội xâm phạm
sở hữu trên địa bàn Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Các bài tạp chí khoa học như : Nguyễn Ngọc Chí (1997), Một số vấn đề
đồng phạm trong các tội phạm sở hữu, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số 110);
Võ Khánh Vinh (2004), Về những xu hướng và nội dung cơ bản của chiến lược
đấu tranh với tình hình tội phạm, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số 10)
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: “Tội phạm trộm cắp xe gắn máy có
tổ chức tại các tỉnh, thành phố phía Nam - Thực trạng và giải pháp phòng ngừa,
đấu tranh”, Vũ Anh Sơn
- Phạm Hồng Cử (2004), Tội phạm trộm cắp tài sản và công tác phòng
ngừa, đấu tranh tại Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng, nguyên nhân và giải
pháp, Trường đại học Cảnh sát nhân dân, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Luận án tiến sĩ: Nguyễn Ngọc Chí (2000), Trách nhiệm hình sự đối với
các tội xâm phạm sở hữu, Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội;
Nguyễn Văn Thanh (2016), Các tội xâm phạm sở hữu theo pháp luật Hình sự

2



Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, luận án tiến sĩ luật học, Học
viện Khoa học xã hội.
- Luận văn thạc sĩ: Sy La Vông In Tha Pa Sít (2013), Phòng ngừa các tội
phạm sở hữu của công dân trên địa bàn tỉnh Chăm Pa Sắc, luận văn thạc sĩ luật
học, Trường đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh.
- Trần Thị Phượng, Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài
sản theo luật hình sự Việt Nam, luận văn thạc sĩ luật học, Đại học quốc gia Hà
Nội 2015 (Các tội xâm phạm sở hữu được quy định tại Chương XXIV Bộ luật
Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009, gồm 13 tội được quy
định từ điều 133 đến điều 145. Căn cứ vào tính chất của mục đích phạm tội,
khoa học luật hình sự chia các tội xâm phạm sở hữu thành nhóm các tội có mục
đích tư lợi bao gồm 10 tội từ điều 133 đến điều 142 BLHS 1999 và nhóm các tội
không có mục đích tư lợi từ điều 143 đến điều 145. Đối với nhóm các tội có mục
đích tư lợi, dựa vào dấu hiệu chiếm đoạt, chúng lại được chia nhỏ ra thành nhóm
có tính chiếm đoạt bao gồm 8 tội từ điều 133 đến điều 140 và nhóm không có
tính chiếm đoạt gồm các điều 141, 142 BLHS 1999).
- Tô Lan Phương (2016), Phòng ngừa tội phạm trộm cắp trên địa bàn
quận Tân Bình, luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội.
Với các công trình nêu trên, tác giả luận văn sẽ kế thừa những vấn đề lý
luận chung về phòng ngừa tội phạm, những đặc thù trong hoạt động phòng ngừa
các tội phạm về sở hữu trên một địa bàn cụ thể. Do phạm vi nghiên cứu và mục
đích nghiên cứu khác nhau, các công trình trên chưa nghiên cứu sâu về thực
trạng phòng ngừa các tội phạm về sở hữu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh,
chưa đánh giá hiệu quả của hoạt động này trong thời gian qua trên địa bàn.
Những vấn đề này học viên sẽ tập trung giải quyết trong luận văn và sẽ kiến
nghị một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa nhóm tội
phạm này trên địa bàn Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian
sắp tới..
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là xây dựng các biện pháp nhằm tăng
cường phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn Quận Tân Bình,
Thành phố Hồ Chí Minh.
3


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có một số nhiệm vụ
cụ thể:
- Tổng hợp những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm nói
chung và những vấn đề lý luận về phòng ngừa nhóm tội phạm, cụ thể là nhóm
các tội phạm về sở hữu như khái niệm, cơ sở của phòng ngừa, các nguyên tắc
phòng ngừa, các biện pháp phòng ngừa và chủ thể phòng ngừa các tội phạm về
sở hữu.
- Đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình các tội về sở hữu trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh, cụ thể là thực trạng tổ chức lực lượng phòng ngừa và
thực trạng áp dụng các biện pháp phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở
hữu. Xác định những hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế của hoạt động
phòng ngừa tình hình tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn Quận Tân Bình.
- Dự báo hoạt động phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu trên
địa bàn Quận Tân Bình - Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
- Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường phòng ngừa tình hình các tội
xâm phạm sở hữu trên địa bàn Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phòng ngừa tình hình các tội xâm
phạm sở hữu trên địa bàn quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Xét về nội dung, luận văn nghiên cứu hoạt động phòng ngừa tình hình

các tội xâm phạm sở hữu trong phạm vi khoa học Tội phạm học thuộc chuyên
ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.
- Về thời gian: luận văn sử dụng chất liệu nghiên cứu trong phạm vi 5
năm, từ năm 2012 đến năm 2016.
- Về không gian: luận văn nghiên cứu hoạt động phòng ngừa tình hình
các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp luận là
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác-

4


Lênin; các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước, các quy định của pháp
luật liên quan đến hoạt động phòng ngừa tội phạm, trong đó có các tội xâm
phạm sở hữu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, đặc biệt là
các phương pháp sau:
Phương pháp hệ thống: Phương pháp hệ thống được sử dụng khi tác giả
trình bày những vấn đề lý luận tại chương 1.
Phương pháp tổng hợp, phân tích: Phương pháp tổng hợp, phân tích được
sử dụng trong việc tổng hợp, phân tích kết quả từ các hoạt động phòng ngừa tội
phạm, các số liệu thống kê về tình hình tội phạm, các bản án có hiệu lực của Tòa
án phân tích thực trạng hoạt động phòng ngừa tội phạm của các chủ thể phòng
ngừa tại chương 2.
Phương pháp nghiên cứu lịch sử: Phương pháp nghiên cứu lịch sử được
sử dụng khi đánh giá thực trạng phòng ngừa tại chương 2, đề xuất các biện pháp
tăng cường phòng ngừa tội phạm tại chương 3.

Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng trong việc thống
kê số vụ phạm tội, số người phạm tội, thống kê một số đặc điểm về nhân thân
người phạm tội, thống kê các loại hình phạt được Tòa án áp dụng, thống kê thiệt
hại do các tội phạm này gây ra tại chương 2 của luận văn.
Phương pháp nghiên cứu điển hình: Phương pháp nghiên cứu điển hình
được sử dụng khi nghiên cứu điển hình một số địa bàn tập trung nhiều các tội
phạm xâm phạm sở hữu, nghiên cứu điển hình các đặc điểm nhân thân một số
người phạm tội tại chương 2.
Phương pháp nghiên cứu so sánh: Phương pháp nghiên cứu so sánh được
sử dụng khi tác giả sso sánh mức độ, cơ cấu của tình hình tội phạm trong những
giai đoạn khác nhau tại chương 2.
Phương pháp điều tra xã hội học: Phương pháp điều tra xã hội học được
sử dụng khi đánh giá cấp độ, tỉ lệ ẩn của tội phạm, dự báo một số vấn đề của tình
hình tội phạm tại chương 2.

5


Phương pháp chuyên gia: Phương pháp chuyên gia được sử dụng khi
đánh giá tội phạm ẩn, nguyên nhân và điều kiện của tội phạm, dự báo tình hình
tội phạm trong thời gian tới, các biện pháp phòng ngừa tội phạm tại chương 2.
Bên cạnh đó luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác
của Tội phạm học như phương pháp quy nạp và diễn dịch, phương pháp mô tả,
phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án trong nội dung chương những vấn đề lý
luận về phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu; trong việc mô tả bức
tranh về tình hình tội phạm, mô tả các đặc điểm nhân thân người phạm tội tại
chương 2 cũng như nghiên cứu hồ sơ khi nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện
của nhóm tội phạm này tại Quận Tân Bình - Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, học tập và nghiên
cứu khoa học trong lĩnh vực khoa học pháp lý hình sự. Kết quả nghiên cứu của
luận văn có thể được sử dụng để xây dựng các biện pháp phòng ngừa tình hình
các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn Quận Tân Bình. Bên cạnh đó, luận văn
còn góp phần làm rõ hơn lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm trên một địa
bàn cụ thể.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Dựa trên kết qủa nghiên cứu về thực trạng phòng ngừa các tội xâm phạm
sở hữu trên địa bàn quận Tân Bình- Thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt là những
hạn chế còn tồn tại đã ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động này trong thời gian
qua, luận văn có thể là tài liệu tham khảo để các chủ thể phòng ngừa tội phạm
tham khảo, rút kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình
hình các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí
Minh trong thời gian tới.
7. Cơ cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ
lục, Luận văn được cấu trúc thành 03 chương như sau:
6


Chương 1: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình các tội xâm
phạm sở hữu.
Chương 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu
trên địa bàn quận Tân Bình - Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Tăng cường phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu
trên địa bàn Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh

7



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm
sỡ hữu
1.1.1. Khái niệm các tội xâm phạm sở hữu
Các tội xâm phạm sở hữu quy định trong chương XIV Bộ luật hình sự
năm 1999 là các tội được sát nhập từ các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa
quy định tại chương IV và các tội xâm phạm sở hữu của công dân quy định tại
chương VI Bộ luật hình sự năm 1985.
Về tội phạm, chương XIV quy định 13 tội danh phản ảnh đúng bản chất
của tên chương là các tội xâm phạm sở hữu, một số tội tuy có xâm phạm sở hữu
nhưng xuất phát từ bản chất của hành vi nên được nhà làm luật quy định ở các
chương khác như: Tội tham ô; tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài
sản được quy định tại Mục A Chương XXI các tội phạm về tham nhũng.
Với cách hiểu tội phạm được quy định trong điều 8 BLHS 1999, có thể
hiểu các tội xâm phạm sở hữu được hiểu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến quan hệ sở hữu của cơ quan, tổ chức và
của cá nhân. Các tội phạm này được quy đinh tại Chương XIV, từ Điều 133 đến
Điều 145, cụ thể: Tội cướp tài sản (Điều 133), Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài
sản (Điều 134), Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 135), Tội cướp giật tài sản (Điều
136), Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 137), Tội trộm cắp tài sản (Điều
138), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139), Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản (Điều 140), Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 141), Tội sử dụng
trái phép tài sản (Điều 142), Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều
143), Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hai nghiêm trọng đến tài sản (Điều 145).
Đặc điểm nổi bật của các tội xâm phạm sở hữu là có tính chất chiếm đoạt,
nhưng không phải tội phạm nào có tính chất chiếm đoạt đều là tội xâm phạm sở
8



hữu. Ngược lại tội xâm phạm sở hữu không nhất thiết có tính chất chiếm đoạt
như các tội: chiếm giữ trái phép tài sản; sử dụng trái phép tài sản; huỷ hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản; thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài
sản và vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản không phải là các tội có tính
chất chiếm đoạt.
Đặc điểm pháp lý của các tội xâm phạm sở hữu:
- Khách thể của tội phạm: các tội này xâm phạm quyền chiếm hữu tài
sản, quyền sử dụng hoặc quyền định đoạt tài sản. Những tài sản thuộc quyền sở
hữu bao gồm: tài sản thuộc sở hữu nhà nước, tài sản thuộc sở hữu tập thể, tài sản
đang tạm thời thuộc quyền quản lý của nhà nước, xí nghiệp quốc doanh, các hợp
tác xã, tài sản công dân thuộc thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu
sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong
các tổ chức kinh tế khác. Mọi tài sản đều thể hiện dưới dạng vật, tiền, giấy tờ có
giá trị tài sản.
Mặt khách quan của các tội phạm xâm phạm quyền sở hữu thể hiện bằng
các hành vi sau đây:
+ Hành vi chiếm đoạt tài sản: là hành vi chuyển dịch vị trí pháp lý của tài
sản trái pháp luật, chuyển dịch quyền sở hữu hợp pháp của chủ thể sang chủ thể
khác không đúng pháp luật. Hành vi chiếm đoạt được thực hiện bằng nhiều
phương pháp, thủ đoạn khác nhau nhưng tất cả mọi hành vi chiếm đoạt đều thực
hiện bằng phương pháp chủ động tích cực (phương pháp hành động), biến tài
sản của người khác thành tài sản của mình.
+ Hành vi chiếm giữ trái phép tài sản: là hành vi chiếm tài sản của chủ
thể đã mất khả năng thực tế quản lý tài sản.
+ Hành vi sử dụng trái phép tài sản: là trường hợp xâm phạm quyền sử
dụng tài sản một cách trái phép, khai thác giá trị sử dụng của tài sản mà không
được phép của chủ tài sản.
+ Hành vi hủy hoại, làm hư hỏng tài sản, làm mất một phần hoặc toàn bộ

giá trị tài sản.
Dấu hiệu hậu quả tác hại trong yếu tố khách quan của các tội phạm xâm
phạm tài sản là mức độ thiệt hại nguy hại quy ra tiền. Để định tội cần chú ý coi
trọng những quy định về giá trị tài sản bị gây thiệt hại, bị chiếm đoạt.
9


- Mặt chủ quan các tội phạm xâm phạm quyền sở hữu: phần lớn các tội
phạm xâm phạm quyền sở hữu tài sản được thực hiện do hình thức lỗi cố ý, có
một số tội được thực hiện do vô ý, như: tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản và tội cố ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản.
- Chủ thể của các tội xâm phạm quyền sở hữu tài sản là bất kỳ người nào
có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi theo quy định chung.
Đa số các tội xâm phạm sở hữu là các tội được thực hiện do cố ý. Trong
số 13 tội quy định trong chương XIV Bộ luật hình sự năm 1999, thì có tới 11 tội
được thực hiện do cố ý, đó là các tội: Cướp tài sản; bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài
sản; cưỡng đoạt tài sản; cướp giật tài sản; công nhiên chiếm đoạt tài sản; trộm
cắp tài sản; lừa đảo chiếm đoạt tài sản; lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản;
chiếm giữ trái phép tài sản; sử dụng trái phép tài sản và huỷ hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản. Chỉ có hai tội được thực hiện do vô ý, đó là các tội: thiếu trách
nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản và vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng
đến tài sản.
Về hình phạt: các tội này có hình phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù từ
sáu tháng đến tù chung thân, riêng tội Cướp tài sản có hình phạt cao nhất là tử
hình (Điều 133 BLHS 1999).
1.1.2. Định nghĩa và ý nghĩa của phòng ngừa tình hình các tội xâm
phạm sở hữu
Liên quan đến định nghĩa phòng ngừa tội phạm, các nhà khoa học hiện
nay tại Việt Nam nhìn chung đều thống nhất về định nghĩa phòng ngừa tình hình
tội phạm, đó là việc sử dụng những biện pháp nhà nước và xã hội tác động vào

nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm nhằm hạn chế tiến tới loại trừ
tình hình tội phạm ra khỏi xã hội [21,tr. 276].
Trong các công trình này, lý luận về phòng ngừa tội phạm đã được đề cập
khá rõ và nhìn chung không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhà nghiên cứu.
Liên quan đến định nghĩa phòng ngừa tội phạm, đa số các tác giả khác thừa nhận
phòng ngừa tội phạm là hoạt động nhằm ngăn ngừa trước và hoạt động chống
sau khi tội phạm xảy ra.
10


Qua việc tham khảo các quan điểm này kết hợp với định nghĩa các tội
xâm phạm sở hữu được trình bày tại phần 1.1, chúng tôi cho rằng: Phòng ngừa
tình hình các tội xâm phạm sở hữu là hoạt động sử dụng các biện pháp xã hội và
nhà nước tác động vào nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm nhằm
ngăn ngừa trước không để cho tình hình các tội xâm phạm sở hữu xảy ra và tiến
hành những biện pháp kịp thời phát hiện, xử lý nhằm tiếp tục phòng ngừa tình
hình các tội xâm phạm sở hữu.
Với định nghĩa phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu này,
chúng tôi có thể xác định bản chất của phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm
sở hữu có thể thể hiện ở hai nội dung:
Thứ nhất, phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu là việc áp dụng
các biện pháp mang tính xã hội tác động vào nguyên nhân và điều kiện của tội
phạm nhằm ngăn ngừa trước không cho tội phạm xảy ra. Các biện pháp mang
tính xã hội này là những biện pháp nhằm bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần
cho con người để con người không thực hiện hành vi phạm tội do thiếu thốn vật
chất hay do hạn chế trong nhận thức; đó là các biện pháp về kinh tế xã hội, văn
hóa xã hội, tâm lý xã hội, giáo dục…Về bản chất, các biện pháp này không
mang tính cưỡng chế bắt buộc nên có thể được xây dựng và triển khai bởi nhiều
chủ thể khác nhau, tuy nhiên phải tuân thủ theo các nguyên tắc của phòng ngừa
tội phạm.

Thứ hai, phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu còn là việc áp
dụng các biện pháp mang tính nhà nước (còn được gọi là biện pháp mang tính
cưỡng chế nhà nước, các biện pháp mang tính bắt buộc) nhằm kịp thời phát hiện,
xử lý sau khi tội phạm xảy ra nhằm tiếp tục phòng ngừa tội phạm. Các biện pháp
này thực chất là các biện pháp được thực hiện trong quá trình phát hiện, khởi tố,
truy tố, xét xử tội phạm từ các chủ thể là các cơ quan tiến hành tố tụng.
Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu mang ý nghĩa quan trọng:
Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có ý nghĩa quan trọng
trong việc bảo vệ con người và mang tính nhân đạo sâu sắc. Con người được bảo
11


vệ ở đây bao gồm người có nguy cơ phạm tội, người là nạn nhân của tội phạm
và cả cộng đồng xã hội. Phòng ngừa tội phạm tốt, có hiệu quả tức là ngăn ngừa
trước không cho một người thực hiện hành vi phạm tội, không để họ phải bị
những hạn chế về quyền con người khi chấp hành hình phạt (thậm chí bị mất
quyền sống khi bị áp dụng hình phạt tử hình). Nói cách khác, khi phòng ngừa
các tội xâm phạm sở hữu đạt hiệu quả thì mọi người trong xã hội có điều kiện
được hưởng các quyền tự do, có điều kiện hưởng thụ các giá trị vật chất và tinh
thần vì những thiệt hại do các tội phạm này gây ra cho xã hội đã bị hạn chế tối
đa.
+ Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có ý nghĩa quan trọng
về mặt kinh tế. Phòng ngừa tội phạm không để cho tội phạm xảy ra sẽ hạn chế
thấp nhất những thiệt hại do tội phạm gây ra cho nạn nhân trực tiếp của tội phạm
và những thiệt hại khác về kinh tế. Điều này thể hiện ở những chi phí mà Nhà
nước phải bỏ ra cho hoạt động phát hiện, xử lý tội phạm, những chi phí trong
quá trình thi hành án. Số tiền dùng phục vụ cho công tác tố tụng sẽ có ý nghĩa
tích cực nếu được đầu tư vào các hoạt động an sinh xã hội, giải quyết các vấn đề
về cơ sở vật chất hạ tầng, tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống vật chất tinh
thần của người dân.

+ Phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu có ý nghĩa trong việc đảm bảo
trật tự an toàn xã hội. Phòng ngừa tốt không để cho tội phạm xảy ra hoặc hạn
chế thấp nhất tình trạng phạm tội sẽ khiến cho hoạt động tổ chức quản lý xã hội
được dễ dàng hơn, các chủ thể quản lý xã hội sẽ không bị rơi vào tình trạng căng
thẳng đối phó với tội phạm và nhất là người dân sẽ được sống trong môi trường
trong lành, an toàn hơn.
+ Phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu có ý nghĩa trong việc bảo đảm uy
tín của Đảng, Nhà nước ta trong quan hệ đối nội và đối ngoại. Phòng ngừa tội
phạm là nghĩa vụ của tất cả mọi người trong xã hội nhưng các cơ quan nhà nước
là chủ thể giữ vai trò chuyên trách và thường xuyên nên hiệu quả của phòng
ngừa sẽ phản ánh năng lực của các cơ quan nhà nước và ảnh hưởng đến và uy tín
của Đảng và nhà nước trong việc lãnh đạo, quản lý đất nước.
12


1.2. Mục đích, các nguyên tắc của phòng ngừa tình hình các tội xâm
phạm sở hữu
1.2.1. Mục đích của phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu
Mục đích của phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu xuất phát từ
mục đích của phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, đó là:
- Hạn chế, xóa bỏ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm,
ngăn ngừa không cho tình hình các tội xâm phạm sở hữu xảy ra.
Định nghĩa phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu đã nêu rõ,
phòng ngừa tình hình tội phạm là việc tác động vào nguyên nhân và điều kiện
nhằm giảm bớt và tiến tới loại trừ tội phạm, do đó, mục đích được xem là quan
trọng nhất của phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu. Mụch đích này
của phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu phù hợp với Chỉ thị số
48/CT/TW “về tăng cường sự lạnh đạo của Đảng đối với công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm trong tình hình mới” trong đó đã chỉ rõ: “trong thời gian
tới công tác phòng chống tội phạm phải kiềm chế, làm giảm các loại tội phạm,

nhất là các loại tội phạm nghiêm trọng, tội phạm mới, tạo môi trường lành mạnh
phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ cuộc sống hạnh
phúc và bình yên của nhân dân”. Để tác động, xóa bỏ nguyên nhân và điều kiện
của tình hình các tội xâm phạm sở hữu, vấn đề quan trọng là xác định nguyên
nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu và sử dụng các biện
pháp tác động triệt tiêu các nguyên nhân và điều kiện đó. Về mặt lý luận, nguyên
nhân và điều kiện của tình hình tội phạm là sự tương tác giữa các hiện tượng và
quá trình xã hội, trong đó tình hình tội phạm được xem là kết quả của sự tương
tác của những hiện tượng và quá trình xã hội, cụ thể như các quan hệ kinh tế xã
hội, văn hóa xã hội, tâm lý xã hội, quản lý xã hội, giáo dục, pháp luật… Để tác
động, triệt tiêu các mâu thuẫn về xã hội này cần sự phát hiện, thừa nhận những
mặt trái, những mâu thuẫn của các hiện tượng xã hội nói trên, đồng thời xây
dựng các chiến lược, phương án đấu tranh ngắn hạn và dài hạn nhằm xóa bỏ các
nguyên nhân và điều kiện này nhằm hướng tới mục tiêu ngăn ngừa tội phạm.
13


Các biện pháp tác động vào các mâu thuẫn xã hội này chủ yếu là những biện
pháp cũng mang tính xã hội, tức là những biện pháp nhằm nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của con người, để họ không đi vào con đường phạm tội do các
nhu cầu cần thiết không được bảo đảm.
Tuy nhiên, mục đích của phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu
là triệt tiêu nguyên nhân và điều kiện của nhóm tội xâm phạm sở hữu, do đó
ngoài việc xóa bỏ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, mục đích
của phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu còn là hạn chế, xóa bỏ
nguyên nhân và điều kiện đặc trưng của nhóm tội phạm sở hữu.Vấn đề đặt ra là
nguyên nhân và điều kiện của nhóm tội phạm sở hữu là gì? Trên tinh thần kế
thừa các vấn đề lý luận về nguyên nhân và điều kiện của nhóm tội phạm, chúng
tôi cho rằng tác động vào nguyên nhân và điều kiện của nhóm tội xâm phạm sở
hữu ngoài việc tác động vào các hiện tượng và quá trình xã hội thì còn phải tác

động vào các nguyên nhân và điều kiện của các tội phạm cụ thể trong nhóm tội
phạm về sở hữu, đó là các xóa bỏ các đặc điểm tiêu cực của cá nhân người phạm
tội và xóa bỏ, loại trừ các tình huống hỗ trợ cho tội phạm cụ thể đó xảy ra. Có
như vậy thì mục đích phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu mới đạt
được như mong muốn.
- Ngăn chặn kịp thời, không để xảy ra các hành vi phạm tội mới. Xuất
phát từ định nghĩa phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu đã trình bày,
phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu không chỉ là tác động vào
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm mà mục đích của phòng ngừa
tình hình các tội xâm phạm sở hữu còn nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm
tội mới. Kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội mới có thể hiểu theo các nghĩa sau:
Thứ nhất, ngăn chặn hành vi phạm tội mới là ngăn chặn hành vi của
người có nguy cơ phạm tội khi người này đã hình thành động cơ phạm tội, lên
kế hoạch chuẩn bị phạm tội. Để ngăn chặn hành vi phạm tội này, vấn đề quan
trọng là chủ thể phòng ngừa phải kịp thời phát hiện những biểu hiện tâm lý tiêu
cực của người phạm tội, kịp thời áp dụng những biện pháp nhằm triệt tiêu những
14


tâm lý tiêu cực đó; hoặc chủ thể phòng ngừa tội phạm kịp thời phát hiện sự
chuẩn bị thực hiện hành vi phạm tội của cá nhân thông qua các biểu hiện như
sửa soạn công cụ, phương tiện, tập họp đồng phạm… Mục đích của phòng ngừa
tội phạm trong trường hợp này là ngăn ngừa không để cho hành vi phạm tội xảy
ra – không thể hiện thực hóa hành vi phạm tội dù đã tồn tại ý định, động cơ
phạm tội, mặc dù cá nhân đã có kế hoạch để thực hiện hành vi phạm tội, do đó
để đạt được mục đích này, đòi hỏi các chủ thể phải có mối quan hệ gần gũi với
người phạm tội (như mối quan hệ gia đình, huyết thống, bạn bè, công việc…)
hoặc các cơ quan chức năng trong quá trình kiểm tra, giám sát, quản lý các đối
tượng có nguy cơ phạm tội cao.
Thứ hai, ngăn chặn hành vi phạm tội mới là việc kịp thời phát hiện, xử lý

người đã thực hiện hành vi phạm tội để họ tiếp tục không phạm tội mới và răn
đe những người khác trong xã hội không thực hiện hành vi phạm tội về sở hữu.
Các biện pháp được áp dụng nhằm đạt được mục đích này là các biện pháp
mang tính cưỡng chế bắt buộc được áp dụng bởi các chủ thể là các cơ quan tiến
hành tố tụng hoặc một số chủ thể khác (trong trường hợp bắt tội phạm quả tang).
1.2.2. Các nguyên tắc của phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở
hữu
Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu là hoạt động khó khăn và
phức tạp và có khả năng ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của nhiều người nên cần
tuân thủ những nguyên tắc nhất định nhằm bảo đảm cho hoạt động phòng ngừa
nhóm tội này không vi phạm quyền con người và đạt hiệu quả cao. Theo chúng
tôi, phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu cần tuân thủ các nguyên tắc: nguyên
tắc pháp chế, nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc cụ thể hóa.
- Nguyên tắc pháp chế trong hoạt động phòng ngừa tình hình các tội
xâm phạm sở hữu được hiểu là hoạt động phòng ngừa các tội phạm này phải
tuân thủ các quy định của pháp luật. Các quy định của pháp luật ở đây được hiểu
là các quy định của Hiến pháp, các văn bản luật và các văn bản quy phạm pháp
luật khác có liên quan đến hoạt động phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu. Xuất
15


phát từ tính nguy hiểm của tình hình các tội xâm phạm sở hữu, có thể thấy là
hiện đang có tâm lý từ phía các chủ thể là muốn nhanh chóng hạn chế, loại trừ
các tội xâm phạm sở hữu ra khỏi xã hội. Tâm lý này của các chủ thể phòng ngừa
tội phạm sẽ có thể dẫn đến những nguy cơ vi phạm pháp luật trong việc triển
khai, áp dụng các biện pháp phòng ngừa; do đó, tuân thủ nguyên tắc pháp chế là
yêu cầu đầu tiên và quan trọng nhất khi phòng ngừa tội phạm nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của những người có liên quan. Để nguyên tắc pháp chế
được tuân thủ trong hoạt động phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu
thì yêu cầu các quy định của pháp luật về phòng ngừa tội phạm được hoàn thiện;

bên cạnh đó, ý thức tuân thủ các quy định pháp luật từ các chủ thể phòng ngừa
tội phạm cũng giữ vai trò rất quan trọng. Các biện pháp phòng ngừa cũng như
các chủ thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm phải tuân thủ các quy
định của pháp luật nhằm mục đích bảo vệ pháp chế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của những người chịu sự tác động của các biện pháp phòng ngừa, đảm bảo
cho họat động phòng ngừa tội phạm đạt hiệu quả.
- Nguyên tắc nhân đạo trong hoạt động phòng ngừa tình hình các tội
xâm phạm sở hữu được hiểu là các biện pháp phòng ngừa các tội phạm này
không nhằm làm tổn thương con người mà phải hướng con người tới cuộc sống
tốt đẹp hơn. Con người được đề cập ở đây có thể là bị can, bị cáo, người phạm
tội, những người khác chịu sự tác động từ các biện pháp phòng ngừa tội phạm.
Xét cho cùng, mục đích của phòng ngừa tội phạm là nhằm bảo vệ con người,
chính vì vậy khi phòng ngừa tội phạm, các chủ thể phòng ngừa không được sử
dụng các biện pháp nhằm gây tổn thương đến con người. Khi triển khai, áp dụng
các biện pháp phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu, chủ thể phòng ngừa tội
phạm vì mục đích phòng ngừa tội phạm có thể sẽ áp dụng các biện pháp vô tình
gây tổn thương đến bị can, bị cáo, người phạm tội, nạn nhân trực tiếp và những
người là nạn nhân gián tiếp của tội phạm. Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc
nhân đạo trong hoạt động phòng ngừa tội phạm có ý nghĩa bảo đảm quyền, lợi
ích hợp pháp của những người có liên quan, bảo đảm tính nhân đạo xã hội chủ
16


nghĩa của nhà nước ta trong hoạt động phòng ngừa tội phạm và nhằm hướng đến
mục đích chung nhất là nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tội phạm, bảo
vệ tối đa quyền, lợi ích hợp pháp của con người.
- Nguyên tắc dân chủ trong hoạt động phòng ngừa các tội xâm phạm sở
hữu được hiểu là hoạt động phòng ngừa phải có sự tham gia của toàn thể các
tầng lớp, lực lượng trong xã hội, đặc biệt là quần chúng nhân dân. Phòng ngừa
tội phạm thực chất là hoạt động quản lý xã hội, mà hoạt động này muốn đạt hiệu

quả cần phải có sự tham gia của toàn xã hội. Các tội xâm phạm sở hữu có liên
quan mật thiết đến vấn đề về đặc điểm dân cư, văn hóa của từng khu vực dân cư,
chính vì vậy phòng ngừa các tội phạm này phải được sự hưởng ứng, tham gia
rộng rãi từ phía người dân thì mới có thể đạt hiệu quả như mong muốn. Do đó,
để nguyên tắc này được áp dụng trong thực tế thì cần thiết phải có sự ghi nhận
nội dung này trong các quy định của pháp luật về phòng ngừa các tội xâm phạm
sở hữu, bên cạnh đó, cần phải nhận thức rằng các chủ thể phòng ngừa tội phạm
là quần chúng nhân dân là lực lượng đông đảo nhất nhưng không có công cụ,
phương tiện nhằm đấu tranh trực tiếp với tội phạm cho nên quần chúng nhân dân
cần được sự hướng dẫn, tạo điều kiện từ các chủ thể chuyên trách là cơ quan nhà
nước trực tiếp áp dụng các biện pháp phòng ngừa hay phát hiện, xử lý tội phạm.
Việc thực hiện, tuân thủ nguyên tắc dân chủ trong hoạt động phòng ngừa các tội
xâm phạm sở hữu nhằm phát huy được hết sức mạnh của các tầng lớp nhân dân
trong xã hội trong hoạt động phòng ngừa trước không để cho tội phạm xảy ra và
kịp thời phát hiện tội phạm, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa
tội phạm.
- Nguyên tắc cụ thể hóa trong hoạt động phòng ngừa các tội xâm phạm sở
hữu được hiểu là phòng ngừa các tội phạm này phải được tiến hành cụ thể phù
hợp với những đặc điểm nhân thân của người chịu sự tác động bởi các biện pháp
phòng ngừa, đặc biệt là phải tùy thuộc vào khu vực địa lý, đặc điểm lịch sử, tự
nhiên, xã hội, dân cư người đó đang sinh sống. Nói cách khác, nguyên tắc này
thể hiện ở hai khía cạnh: Thứ nhất, phòng ngừa các tội phạm này phải được tiến
hành cụ thể đối với các đối tượng có nhân thân khác nhau. Tùy thuộc vào độ
tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, đặc biệt là đối với các đối tượng có nguy cơ
17


phạm tội cao như người chưa thành niên, người không có nghề nghiệp, người có
nhân thân xấu, người có tiền án, tiền sự, người nghiện ma túy… thì cần được áp
dụng những biện pháp phòng ngừa riêng biệt, khác với những người bình

thường trong xã hội. Thứ hai, ở mỗi địa phương sẽ có thể tồn tại những đặc điểm
đặc trưng về tự nhiên, xã hội có ảnh hưởng đến tình hình các tội xâm phạm sở
hữu, các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm. Chính vì vậy, tương ứng với
những đặc điểm về tự nhiên và xã hội này mà chủ thể phòng ngừa cần thiết kế,
áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm cho phù hợp với hoàn cảnh của mỗi
địa phương, nói cách khác, phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu phải căn cứ
vào thực tiễn tình hình tội phạm (trong đó có thực tiễn nhân thân người phạm
tội), thực tiễn tự nhiên, xã hội (lịch sử, dân cư, kinh tế, văn hóa, giáo dục) và
thực tiễn khả năng của chủ thể phòng ngừa tội phạm. Để áp dụng được nguyên
tắc này khi thiết kế các biện pháp phòng ngừa, các chủ thể phòng ngừa sẽ nghiên
cứu kỹ đối tượng chịu sự tác động cũng như những điều kiện xã hội như kinh tế,
văn hóa, phong tục vùng miền mà đối tượng đó đang sống để có các biện pháp
tác động phù hợp. Ý nghĩa quan trọng nhất của nguyên tắc này là nhằm bảo đảm
hiệu quả cho hoạt động phòng ngừa tội phạm.
1.3. Các chủ thể phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu
Chủ thể phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu là những người và tổ chức
tham gia phòng ngừa các tội phạm này một cách thường xuyên và có hệ thống.
Chủ thể phòng ngừa các tội phạm này bao gồm chủ thể lãnh đạo quá trình phòng
ngừa mà còn chủ thể thực hiện quá trình phòng ngừa tội phạm. Với cách hiểu
này, chủ thể phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu bao gồm:
- Chủ thể lãnh đạo hoạt động phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu:
Chủ thể lãnh đạo hoạt động phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu hiện
nay tại Việt Nam là Đảng Cộng sản Việt Nam. Với vai trò là tổ chức chính trị
duy nhất lãnh đạo xã hội (Điều 4 Hiến pháp 2013), Đảng Cộng sản Việt Nam
phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu thông qua việc định hướng phòng chống
tội phạm nói chung, trong đó có các tội phạm về các tội xâm phạm sở hữu trong
từng giai đoạn, định hướng hoàn thiện cơ cấu tổ chức các cơ quan đấu tranh

18



phòng chống tội phạm, thông qua các Nghị quyết của Đảng. Bên cạnh đó, vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong hoạt động phòng ngừa nhóm tội phạm này
còn thể hiện ở sự tiên phong, giữ vai trò nòng cốt trong hoạt động phòng ngừa
tội phạm của các Đảng viên.
- Chủ thể thực hiện hoạt động phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu:
Quá trình phòng ngừa tội phạm bao gồm khâu ban hành các quy định của
pháp luật đến khâu triển khai thực hiện các quy định của pháp luật, do đó chủ
thể phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu bao gồm các chủ thể ban hành pháp
luật phòng ngừa tội phạm và chủ thể triển khai thi hành các quy định pháp luật
phòng ngừa tội phạm.
 Chủ thể ban hành pháp luật phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu:
Chủ thể ban hành pháp luật phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu bao
gồm Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp.
(1) Quốc hội:
Là cơ quan quyền lực nhà nước duy nhất có quyền lập Hiến và lập pháp,
Quốc hội là chủ thể phòng ngừa tội phạm có vai trò trong việc ban hành các luật
điều chỉnh hoạt động phòng ngừa các tội phạm như Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố
tụng hình sự… Ngoài ra, Quốc hội còn có vai trò trong việc kiểm tra giám sát
hoạt động của các cơ quan nhà nước, của cán bộ nhằm phòng ngừa các hành vi
phạm tội, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật nói chung, trong đó có pháp
luật về phòng chống các tội xâm phạm sở hữu (Điều 1 Luật Tổ chức Quốc hội
2014).
(2) Hội đồng nhân dân các cấp:
Là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, Hội đồng nhân dân các cấp
có vai trò phòng ngừa các tội phạm về các tội xâm phạm sở hữu thể hiện trong
việc quyết định những chủ trương, biện pháp kinh tế xã hội quan trọng để cải
thiện đời sống vật chất, tinh thần của người dân nhằm phòng ngừa tội phạm
(Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003). Bên cạnh đó, thông qua
Nghị quyết trong các kỳ họp, Hội đồng nhân dân quyết định ban hành các văn

19


bản pháp luật về phòng ngừa tội phạm ở địa phương, đồng thời kiểm tra giám sát
các cơ quan, tổ chức, cá nhân ở địa phương để phòng ngừa các hành vi phạm tội.
 Chủ thể triển khai, thi hành pháp luật phòng ngừa các tội xâm phạm
sở hữu:
Chủ thể triển khai thi hành pháp luật phòng ngừa tội phạm bao gồm
Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan hành chính nhà nước, các cơ
quan tiến hành tố tụng, các tổ chức và các cá nhân, công dân.
(3) Chính phủ:
Chính phủ có vai trò phòng ngừa các tội phạm về các tội xâm phạm sở
hữu thông qua triển khai thi hành các quy định của pháp luật thông qua việc ban
hành các văn bản hướng dẫn thực hiện pháp luật phòng ngừa tội phạm do Quốc
hội ban hành; triển khai các biện pháp mang tính xã hội như xây dựng và thực
hiện các kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục.., trong toàn quốc gia
nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân nhằm phòng ngừa tội
phạm. Bên cạnh đó, Chính phủ còn có vai trò lãnh đạo hoạt động phòng chống
tội phạm các tội xâm phạm sở hữu thông qua Ban chỉ đạo quốc gia phòng chống
tội phạm, xây dựng chương trình quốc gia phòng chống các tội phạm về các tội
xâm phạm sở hữu (Điều 14 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001).
(4) Uỷ ban nhân dân các cấp:
Ủy ban nhân dân các cấp là cơ quan hành chính nhà nước có nhiệm vụ
triển khai các chương trình phòng ngừa các tội phạm các tội xâm phạm sở hữu
của Chính phủ, triển khai thực hiện các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các
cấp về các chương trình phòng ngừa tội phạm về các tội xâm phạm sở hữu tại
địa phương. Bên cạnh đó, Ủy ban nhân dân các cấp còn xây dựng và triển khai
kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục ở địa phương nhằm nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của người dân có tác dụng phòng ngừa tội phạm; xây
dựng các chương trình kế hoạch, lãnh đạo hoạt động phòng ngừa các tội phạm

về các tội xâm phạm sở hữu ở địa phương. Các cơ quan hành chính nhà nước
chuyên môn:
20


×