Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Kiên Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (616 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN KHÁNH TRƯỜNG

KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ
TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TỈNH KIÊN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN KHÁNH TRƯỜNG

KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ
TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TỈNH KIÊN GIANG

Chuyên ngành:
Mã số:

Luật hình sự và Tố tụng hình sự


60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. PHÙNG THẾ VẮC

HÀ NỘI – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiêu cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác
và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

TRẦN KHÁNH TRƯỜNG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ KIỂM

SÁT TỐ GIÁC, TIN BÁO TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ............................ 7
1.1 Khái niệm .................................................................................................... 7
1.2 Quy định pháp luật về kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo
tội phạm và kiến nghị khởi tố........................................................................... 14
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT TỐ

GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH KIÊN GIANG .................................................................... 34
2.1 Các yếu tố tác động đến công tác kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố trên địa bàn tỉnh Kiên Giang ................................. 34
2.2 Thực trạng công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội
phạm và kiến nghị khởi tố ................................................................................ 41
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG
TÁC KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO TỘI PHẠM
VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ TỪ THỰC TIỄN TỈNH KIÊN GIANG....... 60
3.1 Dự báo những yếu tố tác động, ảnh hưởng đến việc tiếp nhận, giải quyết
tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố.................................................. 60
3.2 Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc
tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố ................ 65
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 77


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra


ĐTV

Điều tra viên

KSV

Kiểm sát viên

VKS

Viện Kiểm sát

VKSND

Viện Kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số liệu thụ lý kiểm sát khởi tố án hình sự trên địa bàn tỉnh Kiên Giang
từ năm 2012 đến năm 2016 .................................................................................. 37
Bảng 2.2. Số liệu thụ lý kiểm sát khởi tố vụ án hình sự theo nhóm tội trên địa
bàn tỉnh Kiên Giang từ năm 2012 đến năm 2016 ............................................... 38
Bảng 2.3 Thống kê số lượng KSV làm công tác kiểm sát giải quyết tố giác,
tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố đến tháng 12/2016 ............................ 40
Bảng 2.4 Số liệu tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố VKS thụ lý
kiểm sát từ 2012 đến 2016 ............................................................................ 43


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

VKSND là một trong các cơ quan tiến hành tố tụng được pháp luật
quy định, có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp. Để thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp, VKS đã tiến
hành nhiều công tác kiểm sát khác nhau, trong đó công tác kiểm sát các hoạt
động tiếp nhận giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố. Hoạt
động kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm của VKS có vị trí, vai
trò và ý nghĩa tiên quyết để bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội
đều được phát hiện và xử lý kịp thời, đúng pháp luật. Thực tiễn thực hành
quyền công tố cho thấy, kiểm sát tốt việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm
sẽ quyết định chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát
xét xử những bước quan trọng để có thể khẳng định có hay không có hành vi
tội phạm xảy ra, người nào thực hiện hành vi phạm tội, tính chất, mức độ và
hậu quả do hành vi phạm tội đó gây ra như thế nào. Đồng thời, thông qua hoạt
động này để có cơ sở khẳng định việc khởi tố là đúng người, đúng tội và bảo
đảm các căn cứ để xử lý tội phạm, bảo đảm cho mọi hành vi phạm tội đều
phải được xử lý theo quy định của pháp luật, tránh làm oan, sai và không bỏ
lọt tội phạm. Kiểm sát tốt việc giải quyết tin báo và tố giác tội phạm sẽ giúp
cho việc đồng ý hoặc hủy bỏ quyết định không khởi tố của VKS đối với
CQĐT chính xác và có căn cứ. Hoạt động của VKS nhằm bảo đảm hoạt động
tiếp nhận, xử lý các thong tin liên quan đến tội phạm, các hành vi vi phạm,
các hoạt động điều tra, xác minh làm căn cứ khởi tố vụ án hình sự hoặc không
khởi tố vụ án hình sự của CQĐT đúng quy định của pháp luật, thu thập được
đầy đủ các thông tin, tài liệu, chứng cứ phục vụ quá trình điều tra, khám phá
vụ án. Trong những năm qua VKSND đã có nhiều cố gắng trong thực hiện
công tác kiểm sát các hoạt động tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội
1


phạm và kiến nghị khởi tố, góp phần quan trọng trong hoạt động điều tra
khám phá vụ án, tránh bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan người vô tội.

Trong những năm qua, các cơ quan có thẩm quyền trên địa bàn tỉnh
Kiên Giang đã có những cố gắng tích cực trong việc thực hiện các hoạt động
tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố, đặc biệt
là vai trò của VKS ngày càng được quan tâm, chất lượng ngày càng được
nâng lên, hạn chế đến mức thấp nhất việc khiếu kiện của công dân liên quan
đến kết quả công tác giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Tuy nhiên, ở một góc độ khách quan thì công tác kiểm sát tiếp nhận và giải
quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố trên địa bàn tỉnh Kiên
Giang chưa thực sự đạt hiệu quả cao, vẫn có những hạn chế trong các quy
định pháp luật và trong thực tiễn áp dụng. Bên cạnh đó, nhận thức về tầm
quan trọng và vai trò của công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội
phạm và kiến nghị khởi tố vẫn chưa thực sự được đề cao, dẫn đến nhiều vụ
việc có dấu hiệu hình sự không được xử lý đúng quy trình, dẫn đến khả năng
bỏ lọt tội phạm là rất lớn, ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân vào các cơ
quan tư pháp.
Từ những vấn đề nêu trên, cho thấy cần phải hoàn thiện công tác kiểm
sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố sao cho hoạt
động này đạt hiệu quả cao. Như vậy, xét ở cả bình diện lý luận và thực tiễn thì
việc nghiên cứu đề tài: "Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn
tỉnh Kiên Giang " là yêu cầu cấp thiết mang tính thời sự trong giai đoạn hiện
nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về các
vấn đề lý luận liên quan đến công tác kiểm sát tố giác, tin báo tội phạm và
2


kiến nghị khởi tố, làm tiền đề cho việc nghiên cứu đề tài như: Giáo trình luật
tố tụng hình sự của Trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Hồng

Đức – Hội luật gia Việt Nam, Bình luận khoa học BLTTHS Việt Nam năm
2003, do PGS, TS. Nguyễn Ngọc Anh chủ biên, NXB Chính trị Quốc Gia,
2009. Bên cạnh đó còn có các đề tài khoa học liên quan trực tiếp đến việc
nghiên cứu luận văn đã được đăng tải như: Nguyễn Hải Phong (chủ biên, năm
2014), Một số vấn đề về Tăng cường trách nhiệm thực hành quyền công tố,
gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp, NXB Chính
trị Quốc gia; Bài viết trên tạp chí chuyên ngành của Phạm Quốc Huy (2009)
Bàn về khái niệm “tố giác về tội phạm”, “tin báo về tội phạm” và “kiến nghị
khởi tố” trong BLTTHS, Tạp chí kiểm sát (số 17, năm 2009), Luận văn Thạc
sĩ “Tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang” của tác giá Trương Văn
Chung; Bài viết của Thạc sĩ Nông Xuân Trường (Viện KSND Tối Cao) về
Vai trò, trách nhiệm của VKS trong giải quyết tin báo, tố giác tội phạm thực
trạng và một số giải pháp,…
Có thể thấy, vấn đề tố giác, tin báo tội phạm đã được nghiên cứu dựa
trên các quy định pháp luật hiện hành, tuy nhiên liên quan trực tiếp đến công
tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố từ
thực tiễn địa bàn tỉnh Kiên Giang chưa được nghiên cứu một cách có hệ
thống, toàn diện, sâu sắc. Do vậy, đề tài không trùng với bất cứ đề tài nào đã
được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên
quan đến công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trên địa bàn tỉnh Kiên
3


Giang, luận văn đề xuất những giải pháp tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu
quả công tác kiểm sát giải quyết tố giác tin báo tội phạm, làm tiền đề quan

trọng trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Với phạm vi nghiên cứu nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những
nhiệm vụ chính như sau:
- Luận giải những quy định pháp luật về công tác kiểm sát giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam; trong đó tập trung nghiên cứu, phân tích quy định của BLTTHS
2003, các văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan; các quy định của
BLTTHS 2015.
- Phân tích thực trạng công tác kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo tội
phạm và kiến nghị khởi tố trên địa bàn tỉnh Kiên Giang (từ năm 2010 đến
năm 2016); Những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố
tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Kiên Giang về công tác kiểm sát giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
- Đề xuất các biện pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác
kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định pháp luật và thực
trạng công tác kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: từ năm 2012 đến năm 2016
- Về không gian: tỉnh Kiên Giang
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phép duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử.
4



Một số phương pháp nghiên cứu được sử dụng như: phương pháp so
sánh, phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch sử và phương pháp tổng hợp, đánh giá
những vấn đề lý luận và thực tiễn về tố giác, tin báo tội phạm trong các công
trình của một số nhà nghiên cứu khoa học. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài
còn dựa vào số liệu trong các báo cáo tổng kết công tác ngành Toà án nhân
dân Tỉnh Kiên Giang, VKSND Tỉnh Kiên Giang và thông tin trên mạng
Internet để phân tích, đánh giá, tổng hợp các vấn đề thực tiễn xung quanh vấn
đề kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
6.1 Ý nghĩa khoa học
Luận văn sẽ so sánh, đánh giá những bước phát triển nổi bật của pháp
luật Việt Nam quy định về kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và
kiến nghị khởi tố từ năm 2012 cho đến nay; Trên cơ sở phân tích thực tiễn
vận dụng quy định pháp luật tố tụng hình sự về kiểm sát giải quyết tố giác, tin
báo tội phạm và kiến nghị khởi tố giai đoạn 2012 – 2016 và một số tồn tại,
vướng mắc khi áp dụng trên trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, luận văn đưa ra
một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật, làm
nguồn tài liệu nghiên cứu, tham khảo phục vụ công tác ở địa phương.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng để kiến nghị các cơ quan
chức năng áp dụng pháp luật vào thực tiễn một cách linh hoạt, đồng bộ, nâng
cao hiệu quả công tác kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến
nghị khởi tố trong thời gian tới trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
7. Cấu trúc
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn gồm 3 chương:

5



Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về kiểm sát giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật Tố tụng Hình
sự Việt Nam
Chương 2: Thực trạng công tác kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố trên địa bàn tỉnh Kiên Giang
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố từ thực tiễn
tỉnh Kiên Giang.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT GIẢI
QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1 Khái niệm
1.1.1 Khái niệm tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố
Trong xã hội luôn phát sinh nhiều vấn đề mới và phức tạp kèm theo đó là
các thông tin có dấu hiệu hoặc hành vi vi phạm, do đó cần phân biệt rõ thông
tin nào là tố giác, tin báo về tội phạm, các thông tin nào thuộc kiến nghị, phản
ánh, khiếu nại hoặc tố cáo. Trong thực tiễn, thường nhầm lẫn giữa tố cáo và tố
giác tội phạm do hai khái niệm này có những đặc điểm gần giống nhau dẫn
đến việc phân loại không chính xác, kéo theo một loạt các hoạt động áp dụng
pháp luật không phù hợp, làm cho việc xử lý, giải quyết không đúng trình tự,
thẩm quyền theo quy định pháp luật.
Khái niệm tố cáo có thể được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau. Dưới
góc độ pháp lý, theo khoản 1 Điều 2 Luật Tố cáo năm 2011 thì: “Tố cáo là
việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ

chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà
nước; quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức” [12]. Do vậy,
tố cáo là việc công dân báo tin về mọi hành vi vi phạm pháp luật cho cơ quan,
tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết. Những vi phạm này có thể là vi phạm
pháp luật về hành chính, dân sự…và mỗi lĩnh vực có trình tự, thủ tục giải
quyết tố cáo khác nhau. Riêng đối với tố cáo hành vi vi phạm pháp luật có
dấu hiệu tội phạm do cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết theo quy định của
pháp luật Tố tụng hình sự.

7


Theo Thông tư liên tịch số 06 giải thích: “Tố giác về tội phạm là những
thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm do cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ
ràng cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết”.[1]
Như vậy ở một khía cạnh nào đó có thể hiểu tố giác về tội phạm là tố cáo
hành vi phạm tội, nếu hiểu theo cách này thì nội hàm khái niệm tố cáo đã bao
hàm cả khái niệm tố giác về tội phạm. Tuy nhiên, tố cáo và tố giác tội phạm
có sự khác biệt, thể hiện: Đối tượng của tố cáo là hành vi vi phạm pháp luật
trong mọi lĩnh vực, không phân biệt tính chất, mức độ vi phạm. Còn đối
tượng của tố giác về tội phạm chỉ có hành vi vi phạm pháp luật có thể cấu
thành tội phạm (Cũng cần thống nhất thêm cách hiểu về khái niệm “Có dấu
hiệu tội phạm” theo quy định tại khoản 3 Điều 31 Luật Tố cáo phải căn cứ
vào các dấu hiệu được quy định của Bộ luật hình sự đối với tội phạm tương
ứng chứ không căn cứ vào ý chí chủ quan của người tố cáo). Việc phân loại,
xử lý, giải quyết tố cáo phải tuân theo trình tự, thủ tục do Luật Tố cáo và các
văn bản quy phạm pháp luật khác quy định. Việc giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm phải tuân theo trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự
và Thông tư 06/2013. Sự khác biệt giữa hai khái niệm này còn thể hiện ở chỗ:
Tố cáo là quyền, công dân có thể tố cáo, nhưng cũng có thể không. Còn tố

giác về tội phạm vừa là quyền nhưng cũng đồng thời là nghĩa vụ của công
dân. Sự khác biệt này có thể dẫn đến những hệ quả pháp lý rất khác nhau, tố
cáo chỉ phát sinh quan hệ pháp lý khi công dân trực tiếp hoặc gửi đơn tố cáo
đến cơ quan, cá nhân có thẩm quyền. Còn tố giác tội phạm trong một số
trường hợp phát sinh quan hệ pháp lý ngay từ thời điểm tội phạm xảy ra
(trường hợp phạm tội Không tố giác tội phạm theo Điều 314 Bộ luật Hình sự).
Về khái niệm tố giác, tin báo tội phạm theo quy định pháp luật Việt Nam
có những định nghĩa khác nhau qua các giai đoạn lịch sử khác nhau.

8


Thông tư liên ngành số 03/1992 định nghĩa như sau: Tố giác và tin báo
về tội phạm là những thông tin về tội phạm được quy định trong BLHS do
công dân, cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội cung cấp cho cơ
quan có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết, do các phương tiện thông tin đại
chúng nêu lên hoặc do người phạm tội tự thú. Tố giác, tin báo về tội phạm có
thể được thể hiện bằng các hình thức thông tin.[26]
Do sự thay đổi về các thành phần kinh tế, điều kiện xã hội, các hình thức
thông tin về tội phạm và các hành vi phạm tội nên khái niệm trên không còn
phù hợp với tình hình thực tế. BLTTHS năm 2003 quy định theo hướng khái
quát hóa về định nghĩa và chỉ mô tả hành vi, phương thức để công dân báo tin
về tội phạm: Công dân có thể tố giác tội phạm với CQĐT, VKS, Tòa án hoặc
với các cơ quan khác, tổ chức. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức
tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác. Cơ quan, tổ chức
khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội
phạm cho CQĐT bằng văn bản. [10]
Tuy nhiên với quy định của BLTTHS 2003, thực tiễn áp dụng gặp phải
nhiều khó khăn, việc đánh giá thế nào là tố giác, thế nào là tin báo hoặc kiến
nghị khởi tố không được hiểu rõ ràng và thi hành thống nhất. Do vậy Thông

tư liên tịch số 06/2013 đưa ra các khái niệm cụ thể: [1]
Tố giác về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm
do cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng cung cấp cho cơ quan, cá nhân có
trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết.
Tin báo về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm
trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc do cơ quan, tổ chức cung cấp
cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết.

9


Kiến nghị khởi tố là việc các cơ quan nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ
của mình phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm và có văn bản kiến nghị
CQĐT xem xét khởi tố vụ án hình sự.
Theo chúng tôi, để đảm bảo cho các khái niệm về tố giác, tin báo tội
phạm và kiến nghị khởi tố được hiểu thống nhất, đầy đủ và chính xác thì cần
phải đưa ra một khái niệm ngắn gọn nhưng phải thể hiện được cả nội hàm và
ngoại diên của nó. Điều 144, BLTTHS 2015 đã đưa ra được khái niệm tố
giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố một cách khái quát nhưng đầy đủ
cả về chủ thể, đặc điểm lẫn nguồn gốc của thông tin:
Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu
hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền.
Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ
quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin
về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng.
Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị
bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho CQĐT, VKS
có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm. [15]
Chúng tôi hoàn toàn thống nhất với khái niệm của ba nhóm thuật ngữ
nêu trên và với việc sửa đổi hoàn thiện các khái niệm tố giác, tin báo tội phạm

và kiến nghị khởi tố, BLTTHS 2015 giúp cho việc nhận thức các thuật ngữ
này ở một góc độ đầy đủ, toàn diện hơn.
1.1.2 Khái niệm kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và
kiến nghị khởi tố
Quyền lực nhà nước là vấn đề quan trọng và phức tạp. Việc nắm giữ, tổ
chức và sử dụng quyền lực nhà nước có hiệu quả sẽ là điều kiện để thực hiện
được những mục đích đã đề ra, mang lại quyền và lợi ích chính đáng cho nhân
dân. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước thường tiềm ẩn
10


rất nhiều hành vi mang tính tiêu cực từ phía cơ quan nhà nước, cán bộ, công
chức có thẩm quyền, có thể dẫn tới tác động tiêu cực cho sự phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước. Do vậy pháp luật Việt Nam quy định các cơ chế để
kiểm soát quyền lực Nhà nước, trong đó có hoạt động kiểm sát.
Kiểm soát được hiểu là xem xét, đánh giá, theo dõi nhằm phát hiện, ngăn
chặn những điều trái với quy định. Theo từ điển giải thích Tiếng Việt thì kiểm
sát là kiểm tra và giám sát việc chấp hành pháp luật của Nhà nước. Nội dung
của khái niệm kiểm sát là hoạt động kiểm tra và giám sát. Đối tượng là việc
chấp hành pháp luật của Nhà nước.
Hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị
khởi tố là một giai đoạn hoạt động được quy định trong BLTTHS. “VKS có
trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết của CQĐT đối với tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố”.
Mặc dù BLTTHS 2003 không nêu cụ thể thẩm quyền của VKS trong giai
đoạn tiếp nhận nhưng căn cứ các quy định pháp luật hiện hành cần hiểu trách
nhiệm của VKS không dừng lại ở giai đoạn giải quyết mà cả giai đoạn tiếp
nhận và xử lý các tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố. Cụ thể tại
Điều 13 Luật tổ chức VKSND quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND
khi kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến

nghị khởi tố bao gồm [13]: Tiếp nhận đầy đủ tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố do các cơ quan, tổ chức, cá nhân chuyển đến và chuyển
ngay cho CQĐT có thẩm quyền giải quyết; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có
trách nhiệm thông báo đầy đủ, kịp thời tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố đã tiếp nhận cho VKSND; Trực tiếp kiểm sát; kiểm sát việc kiểm
tra, xác minh, lập hồ sơ và kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
11


kiến nghị khởi tố; CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra có trách nhiệm thông báo đầy đủ, kịp thời kết quả xác minh, giải
quyết cho VKSND;
Khi phát hiện việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố không đầy đủ, vi phạm pháp luật thì VKSND yêu cầu
CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực
hiện các hoạt động như: Tiếp nhận, kiểm tra, xác minh, ra quyết định giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đầy đủ, đúng pháp luật;
Kiểm tra việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố và thông báo kết quả cho VKSND; Cung cấp tài liệu về vi phạm pháp luật
trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi
tố; Khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý nghiêm người vi phạm; Ngoài ra
VKS là cơ quan được giao thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về thẩm
quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; Thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo quy định của BLTTHS. [13]
Như vậy có thể hiểu kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo
tội phạm và kiến nghị khởi tố là hoạt động của VKSND thông qua việc sử
dụng các quyền năng pháp lý được quy định thực hiện chức năng kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo
tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Song song với chức năng kiểm sát, VKSND còn được giao chức năng
thực hành quyền công tố trong quá trình kiểm sát. Bởi lẽ, nếu đơn thuần chỉ
giao cho VKS chức năng kiểm sát thì trách nhiệm của VKS chỉ dừng lại ở các
hoạt động kiểm tra, giám sát để phát hiện vi phạm, tội phạm của cơ quan, cá
nhân mà không có thẩm quyền xử lý. Do vậy dẫn đến khả năng pháp luật
không đảm bảo tính nghiêm minh, kịp thời xử lý các hành vi vi phạm và
12


phạm tội. Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong tố tụng
hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được
thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
Luật tổ chức VKSND 2014 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND
khi thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố bao gồm: Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người
trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp khác hạn chế
quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố; Hủy bỏ quyết định tạm giữ, các quyết định tố tụng
khác trái pháp luật của cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; Khi cần thiết đề ra yêu cầu kiểm tra,
xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố thực hiện; Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện có vi phạm pháp
luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKSND đã yêu cầu
nhưng không được khắc phục; Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác để thực
hành quyền công tố theo quy định của BLTTHS nhằm chống bỏ lọt tội phạm,
chống làm oan người vô tội. [13]

Bởi những phân tích trên, hoạt động kiểm sát tố giác, tin báo tội phạm và
kiến nghị khởi tố được thực hiện cả giai đoạn tiếp nhận và giải quyết của các
CQĐT có thẩm quyền. Đồng thời cần nhận thức rõ trong giai đoạn tiếp nhận
tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố, VKS có trách nhiệm kiểm sát
nhưng giới hạn thẩm quyền và biện pháp tác động ở mức “yêu cầu”; còn trong
quá trình kiểm sát giải quyết các tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố
của CQĐT, VKS có cả chức năng thực hành quyền công tố với những biện
pháp và quyền năng pháp lý nghiêm khắc hơn.
13


1.2 Quy định pháp luật về kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố
1.2.1 Về chủ thể thực hiện quyền kiểm sát
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, kiểm sát là hoạt động riêng có
của cơ quan kiểm sát, một cơ quan Hiến định. VKS là một loại cơ quan Nhà
nước, do cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất (Quốc hội) lập ra để kiểm soát
quyền lực. Cơ quan này, theo ý tưởng của những người thiết kế ra nó, chính là
cơ quan thay thế cho một số cơ quan kiểm soát quyền lực độc lập như Thanh
tra Nghị viện, Thanh tra Nhà nước… Theo các Hiến pháp trước đây, tuy Quốc
hội lập ra rất nhiều cơ quan, nhưng duy nhất chỉ có VKS mới được trao quyền
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thật ra, khi
lập VKSND ở nước ta, theo mô hình VKS các nước xã hội chủ nghĩa, nhiệm
vụ trọng tâm của cơ quan độc lập này là tập trung kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước - cơ quan hành pháp, do
đó trước đây VKS có chức năng “kiểm sát chung” cả về tư pháp lẫn hành
chính. Tuy nhiên, đến năm 2001, với Nghị quyết của Quốc hội khoá X- Nghị
quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 thì chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND nước ta bị thu hẹp đáng kể.
Giờ đây, VKSND chỉ thực hiện kiểm sát hoạt động tư pháp. Tuy chưa có giải

thích chính thức nào về nội dung kiểm sát hoạt động tư pháp, nhưng thực tiễn
lập pháp và thực hiện pháp luật thời gian qua cho thấy, kiểm sát hoạt động tư
pháp được nhìn nhận như là kiểm sát tố tụng tư pháp, tức là kiểm sát không
chỉ quá trình xét xử mà còn là quá trình điều tra và thi hành án. Đây là chức
năng đặc thù của VKS cùng với chức năng thực hành quyền công tố, tạo cơ sở
pháp lý vững chắc để VKS thực hiện tốt chức năng, vai trò và quyền hạn của
mình trong quá trình bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo về quyền con
người và quyền công dân.
14


Như vậy, VKSND là một cơ quan thuộc hệ thống tổ chức bộ máy Nhà
nước với chức năng Hiến định là: VKSND thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp. [13]
Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định: VKSND là cơ quan thực hành
quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. VKSND có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần
bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. [13]
Theo quy định thì VKSND có hai chức năng cụ thể:
Thứ nhất, chức năng thực hành quyền công tố: là hoạt động của VKSND
trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người
phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án
hình sự.
Thứ hai, Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND để kiểm
sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết

vụ án hình sự; trong lĩnh vực dân sự, thi hành án, khiếu nại, tố cáo trong hoạt
động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, tham gia “kiểm tra việc chấp hành pháp luật của Nhà nước”
trong tố tụng hình sự không chỉ có VKS mà còn các chủ thể khác như người
tham gia tố tụng, các cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, cá nhân công dân và
toàn thể xã hội nói chung. Quyền của các chủ thể khác được “kiểm tra việc
chấp hành pháp luật của Nhà nước” trong lĩnh vực tố tụng hình sự xuất phát
từ những chế định quan trọng của Hiến pháp và pháp luật về tổ chức bộ máy
15


Nhà nước và địa vị pháp lý cơ bản của công dân. Điều 56 Hiến pháp 1992
khẳng định: “Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội”. Điều
13 Luật tổ chức CQĐT hình sự 2015 quy định: “Quốc hội, các cơ quan của
Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại
biểu Hội đồng nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên của Mặt trận giám sát hoạt động điều tra của CQĐT, cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, người có thẩm quyền điều
tra hình sự theo quy định của pháp luật…”. Về bản chất, các hoạt động của
những chủ thể này như: theo dõi, yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng báo cáo
tình hình hoạt động, yêu cầu trả lời lý do ra các quyết định, yêu cầu chấm dứt,
khắc phục vi phạm… cũng hướng tới việc “phát hiện kịp thời vi phạm pháp
luật” và “loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân”
trong tố tụng hình sự. Dù vậy, không thể coi đây là hoạt động kiểm sát việc
tuân theo pháp luật mà chỉ là các hoạt động giám sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự. Sự khác nhau giữa hoạt động kiểm sát của VKS và hoạt
động giám sát của các chủ thể khác chính là một số quyền mà pháp luật cho
phép chỉ có VKS mới có khi thực hiện hoạt động kiểm sát, các quyền này
cũng đồng thời là nghĩa vụ của VKS, tạo nên sự khác biệt về phương thức
thực hiện hoạt động kiểm sát mà các chủ thể khác không có.

Trên cơ sở phân cấp tổ chức theo quy định của Luật tổ chức VKSND
2014 (gồm 04 cấp: VKSND tối cao, cấp cao, cấp tỉnh và cấp huyện), VKSND
thực hiện chức năng kiểm sát theo thẩm quyền được pháp luật quy định, đảm
bảo cho các nguồn thông tin về tội phạm được tiếp nhận, xử lý và giải quyết
đúng quy định, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm.
1.2.2 Về mục đích, đối tượng và phạm vi kiểm sát
VKS thực hiện công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết của cơ quan
có thẩm quyền điều tra đối với tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố
16


nhằm đảm bảo cho mọi tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đều
phải được tiếp nhận, kiểm tra, xác minh, xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm
và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Ngoài ra công tác kiểm sát
còn nhằm mục đích đảm bảo cho việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội
phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT phải khách quan, toàn diện, đầy đủ,
chính xác, kịp thời, đúng pháp luật, những vi phạm pháp luật trong công tác
này phải được phát hiện, khắc phục và xử lý nghiêm minh.
Căn cứ vào khái niệm đã nêu có thể nhận thấy rõ đối tượng của công tác
kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi
tố có thể được hiểu là việc tuân theo pháp luật tố tụng hình sự của cá nhân, cơ
quan có thẩm quyền trong hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội
phạm và kiến nghị khởi tố.
Thông tư liên tịch số 06/2013 quy định Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm
tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm bao gồm [1]: CQĐT trong Công an
nhân dân; CQĐT trong Quân đội nhân dân; CQĐT của VKSND tối cao;
CQĐT của VKS quân sự Trung ương; Bộ đội Biên phòng; Cơ quan Hải quan;
Cơ quan Kiểm lâm; Lực lượng Cảnh sát biển; Các cơ quan khác của Công an
nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Các cơ
quan khác của Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt

động điều tra; VKS; Công an xã, phường, thị trấn, đồn, trạm Công an; Tòa án;
Cơ quan báo chí; Các cơ quan, tổ chức khác.
Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận kiến nghị khởi tố bao gồm:
CQĐT trong Công an nhân dân; CQĐT trong Quân đội nhân dân; CQĐT của
VKSND tối cao; CQĐT của VKS quân sự Trung ương; VKS tiếp nhận và
chuyển ngay đến CQĐT có thẩm quyền giải quyết.
Về thẩm quyền giải quyết Thông tư 06 quy định: Cơ quan có thẩm quyền
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm bao gồm: CQĐT trong Công an nhân
17


dân; CQĐT trong Quân đội nhân dân; CQĐT của VKSND tối cao; CQĐT của
VKS quân sự Trung ương; Bộ đội Biên phòng, cơ quan Hải quan, cơ quan
Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân
dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý mà tiếp nhận tố giác, tin báo
về tội phạm thuộc quyền hạn điều tra của cơ quan mình thì tiến hành giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm đó.
Cơ quan có thẩm quyền giải quyết kiến nghị khởi tố bao gồm: CQĐT
trong Công an nhân dân; CQĐT trong Quân đội nhân dân; CQĐT của
VKSND tối cao; CQĐT của VKS quân sự Trung ương.
Như vậy, pháp luật hiện hành quy định trách nhiệm tiếp nhận và giải
quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố được chia thành hai nhóm
gồm hệ thống CQĐT và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra.
Luật tổ chức CQĐT hình sự 2015 quy định hệ thống CQĐT bao gồm:
CQĐT của Công an nhân dân, CQĐT trong Quân đội nhân dân, CQĐT của
VKSND tối cao. Đây là các cơ quan được phân công nhiệm vụ điều tra
chuyên trách tức hoạt động điều tra là hoạt động chính được phân công, bao
gồm cả việc tiếp nhận và thẩm quyền giải quyết các tố giác, tin báo tội phạm

và kiến nghị khởi tố.
Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra gồm:
Các cơ quan của Bộ đội biên phòng; Các cơ quan của Hải quan; Các cơ quan
của Kiểm lâm; Các cơ quan của lực lượng Cảnh sát biển; Các cơ quan của
Kiểm ngư; Các cơ quan của Công an nhân dân và Các cơ quan khác trong
Quân đội nhân dân. [9]
Xét ở góc độ hoạt động điều tra trong các vụ án hình sự, thì các cơ quan
này không phải là cơ quan chuyên trách mà là các cơ quan quản lý hành chính
18


trong lĩnh vực được phân công. Do vậy, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý
của mình mà tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm hoặc phát hiện hành vi
phạm tội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì tiến hành các hoạt
động kiểm tra, xác minh và điều tra theo quy định của BLTTHS hiện hành
như khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ cho VKS
có thẩm quyền,…
Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động này rất ít khi được các cơ quan này
tiến hành. Phần lớn các cơ quan này chỉ thực hiện việc tiếp nhận thông tin, lấy
lời khai ban đầu và sau đó là thông báo và chuyển toàn bộ hồ sơ đến CQĐT
có thẩm quyền tiếp nhận và giải quyết theo thủ tục tiếp nhận tin báo tội phạm.
Bên cạnh việc quy định trách nhiệm tiếp nhận và thẩm quyền giải quyết
của các cơ quan, pháp luật cũng đồng thời quy định nhiệm vụ và quyền hạn
của những người trực tiếp thực hiện các hoạt động tương ứng trong hệ thống
các cơ quan nói trên như Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT, ĐTV, Viện
trưởng, Phó viện trưởng, KSV, Kiểm tra viên,..
Về phạm vi thực hiện các hoạt động kiểm sát, Điều 11 Thông tư liên tịch
số 06 quy định: “Sau khi nhận được Quyết định phân công giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố của CQĐT theo quy định tại khoản

1 Điều 9 Thông tư liên tịch này, trong thời hạn 3 ngày làm việc, Viện trưởng
VKS phải ra Quyết định phân công kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố và gửi ngay một bản cho CQĐT đã ra Quyết
định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi
tố.”
“Sau khi nhận được văn bản thông báo của Bộ đội Biên phòng, cơ quan
Hải quan, cơ quan Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác
của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một
19


×