Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

LÝ LUẬN TIỀN LƯƠNG CỦA C.MÁC TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN CỦA MÁC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.97 KB, 28 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Qua hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành
tựu đáng kể: cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng trưởng ổn định
trong thời gian dài, các tỉnh thành khai thác được tiềm năng sẵn có của mình, góp
phần rất lớn trong việc nâng cao đời sống của nhân dân…Việt Nam đã dần
khẳng định mình trên trường thế giới với những thành tựu đổi mới trong quá trình
xây dựng đất nước theo định hướng XHCN.
Ngày 7 tháng 11 năm 2006, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của
WTO. Đối với một nước có nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp thì tác động của
WTO vào khu vực này càng rõ nét. Đến nay sau 2 năm vào WTO, Nhà nước phải
thực hiện cam kết mở cửa thị trường nội địa theo yêu cầu cắt giảm thuế và bãi bỏ
hàng rào phi thuế quan. Đồng thời phải thực hiện theo đúng những nguyên tắc mà
tổ chức đã đề ra là nguyên tắc tối huệ quốc và đối xử quốc gia. Không riêng một
ngành, một DN cụ thể nào, tất cả đều phải thực hiện theo những nguyên tắc đó.
Ngành công nghiệp mía đường cũng không ngoại lệ, họ cũng vận động
theo xu hướng chung đó. Mặc dù ngành công nghiệp mía đường trong những
năm qua đã góp phần đáng kể, làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội của nhiều vùng
nông thôn Việt Nam. Tuy nhiên, việc gia nhập WTO dẫn đến dỡ bỏ bảo hộ sản
xuất sẽ gây ra áp lực lớn, đặt các nhà máy đường Việt Nam trước trước thử thách
gay gắt: đóng cửa hay tiếp tục tồn tại và phát triển? Việc đóng cửa các nhà máy
sẽ gây ra nhiều khó khăn cho một số vùng trồng mía, nhất là vùng nghèo.Vậy
điều cấp bách cần làm bây giờ là gì? Cần phải đổi mới tổ chức quản lý đối với
ngành công nghiệp mía đường, tăng cường liên kết kinh tế giữa các tác nhân
trong ngành, đặc biệt là gắn kết người nông dân với các nhà máy chế biến là một
nhiệm vụ quan trọng.
Vì vậy, trước những khó khăn đó,cần phải có những biện pháp để nâng
cao sức canh tranh và hiệu quả trong sản xuất , kinh doanh, đưa ra những chính
sách phù hợp để ngành công nghịêp mía đường thực sự là một ngành mũi nhọn
trong khu vực kinh tế nông thôn. Do đó em đã chọn đề tài: “ Tăng cường liên kết
kinh tế trong ngành công nghiệp mía đường ở Việt Nam”.
Mục tiêu của đề án nhằm phân tích thuận lợi và khó khăn hiện tại của ngành


công nghiệp mía đường. Từ đó đưa ra được những giải pháp tăng cường quan hệ
liên kết giữa các tác nhân trong ngành để đạt được mục tiêu cuối cùng là phát
triển bền vững ngành công nghiệp mía đường ở Việt Nam.
Mặc dù trong quá trình thực hiện đề án em đã hết sức cố gắng nhưng do còn
hạn chế về năng lực và thời gian nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em
rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét từ thầy cô và các bạn để bài viết được
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
PHẦN I: Những lý luận chung về liên kết kinh tế
1.1. Khái niệm liên kết kinh tế
Liên kết kinh tế là một trong những hình thức hợp tác ở trình độ cao của
con người trong quá trình sản xuât kinh doanh. Hợp tác giữa con người với con
người đã xuất hiện từ khi loài người xuất hiện thông qua việc ở theo bầy đàn và
biết cùng nhau săn bắn, hái lượm. Qua thời gian, cùng với sự phát triển của lực
lượng sản xuất, trình độ hợp tác ngày càng cao hơn. Ngày nay, để tăng hiệu quả
trong sản xuất kinh doanh thì việc liên kết giữa các đơn vị là một tất yếu không
thể phủ nhận.
Đối với mỗi doanh nghiệp, liên kết kinh tế là một trong những nhân tố quan
trọng hàng đầu tạo ra sự thành công. Vậy liên kết kinh tế là gì? Xét một cách
tổng quát : “ Liên kết kinh tế là sự thiết lập các mối quan hệ giữa chủ thể sản xuất
kinh doanh,giữa các DN thuộc cùng lĩnh vực hoạt động, giữa các đối tác cạnh
tranh, hoặc giữa các doanh nghiệp có các hoạt động mang tính chất bổ sung,
nhằm tiết kiệm thời gian, chi phí, đạt hiệu quả cao hơn trong sản xuất kinh doanh,
tạo ra sức mạnh cạnh tranh, cùng nhau chia sẻ các khả năng, mở ra những thị
trường mới”.
Liên kết kinh tế là một hoạt động rất phức tạp, ngày càng phát triển phong
phú về nội dung, hình thức tổ chức, đối tác tham gia vào quá trình liên kết . Liên
kết kinh tế gồm nhiều loại hình khác nhau như: liên kết ngang (liên kết diễn ra
giữa các DN hoạt động trong cùng một ngành); liên kết dọc (liên kết giữa các
DN trong cùng một dây chuyền công nghệ sản xuất mà trong đó mỗi DN đảm

nhận một bộ phận hoặc một số công đoạn nào đó); liên kết nghiêng (hợp tác
trong nghiên cứu công nghệ); liên kết theo lãnh thổ; liên kết toàn cầu…mỗi loại
hình đều có những đặc điểm riêng cũng như những ưu điểm riêng của nó.
Liên kết kinh tế mang lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia, cụ thể là: tạo
điều kiện để tiết kiệm quy mô, chi phí; giúp doanh nghiệp làm chủ tốt hơn, phản
ứng nhanh nhạy hơn với những thay đổi của môi trường kinh doanh; tạo điều
kiện tăng khả năng linh hoạt của doanh nghiệp; giúp doanh nghiệp tiếp cận nhanh
chóng với công nghệ mới, giảm thiểu rủi ro, chinh phục những thị trường mới và
tạo điều kiện giảm nhẹ cơ cấu bên trong doanh nghiệp thông qua việc chuyên
môn hoá.
Tuy nhiên, liên kết kinh tế cũng có mặt tiêu cực, đó là nó có thể tạo ra sự
độc quyền, không khuyến khích cạnh tranh giữa các chủ thể tham gia thị trường,
dẫn đến gây thiệt hại cho người mua và người bán. Ngoài ra, còn có thể dẫn tới
tình trạng sụp đổ dây chuyền. Để đảm bảo cho sự thành công của các liên kết
kinh tế, cần phải có một chính sách minh bạch, bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế.
1.2. Nguyên tắc liên kết kinh tế
Mọi hoạt động muốn đạt được kết quả như mong muốn đều phải thực hiện trên
những quy tắc nhất định.Hoạt động liên kết cũng không ngoại trừ.Nó được chi
phối bởi 3 nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất: Nguyên tắc lợi ích kinh tế cao nhất. Các hoạt động trong môi
trường của nền kinh tế thị trường, các chủ thể kinh doanh có quyền lựa chọn
nhiều phương thức hoạt động khác nhau để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi
nhuận. Vì vậy DN có thể lựa chọn hoạt động độc lập hoặc tham gia vào liên kết
kinh tế cụ thể nào đó khi nó có thể đem lại lợi ích kinh tế cao nhất cho DN. Nếu
đến khi quyền lợi kinh tế mang lại không như mong muốn, DN có thể chấm dứt
hoạt động liên kết.
Thứ hai: Nguyên tắc bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi giữa các thành
viên tham gia tổ chức liên kết. Quyền lợi của các thành viên sẽ theo đúng thoả
thuận ghi trong hợp đồng liên kết và tương ứng với mức độ đóng góp vào tổ chức

liên kết.
Thứ ba: Nguyên tắc pháp lý độc lập giữa các hoạt động liên kết và các hoạt
động khác. Các chủ thể kinh tế có thể đồng thời tham gia nhiều tổ chức liên kết
khác nhau hoặc vừa tham gia liên kết vừa hoạt động kinh tế độc lập.
1.3. Vai trò của liên kết kinh tế
Liên kết kinh tế là một phương thức đã xuất hiện từ lâu trong hoạt động
kinh tế, nhưng trong bối cảnh toàn cầu hoá như hiện nay, liên kết kinh tế đã và
đang trở thành nhu cầu cấp bách, xuất hiện ở mọi mặt của đời sống xã hội. Liên
kết kinh tế đóng góp vai trò không nhỏ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc
biệt ở lĩnh vực công nghiệp.
1.3.1.Khắc phục những bất lợi về quy mô
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp có một hoặc một
vài lĩnh vực hoạt động chủ đạo, mang tính đặc thù. Bên cạnh đó là một loạt các
hoạt động phụ mà bản thân doanh nghiệp không thực hiện được, nhưng nó lại
không thể thiếu đối với dây chuyền sản xuất chính. Do đó, nếu liên kết với DN
khác thì quá trình sản xuất sẽ diễn ra nhanh mà lại tiết kiệm chi phí, đạt được
mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Thay vì tổ chức sản xuất đầy đủ tất cả các loại phụ
tùng đó, các nhà máy này đặt gia công ở từng cơ sở sản xuất cụ thể. Như vậy sẽ
tiết kiệm được một khoản chi phí khổng lồ. Hình thức này đã xuất hiện từ lâu và
hiện đang rất thịnh hành ở nhiều nước trên thế giới. Như hãng Ford, họ đã đưa ra
mục tiêu tiết kiệm chi phí sản xuất đến năm 2010, mỗi năm 6 tỷ USD, và họ đã
thực hiện bằng cách lên kế hoạch tăng gấp đôi trị giá linh kiện mua từ Trung
Quốc, mỗi năm dự kiến đạt khoảng 2,3 tỷ USD.
Như vậy ta càng khẳng định được một điều “to không phải là tốt”, quan trọng
là mỗi doanh nghiệp phải tự tìm ra được phương thức kinh doanh hợp lý.
1.3.2. Phản ứng nhanh với những thay đổi của thị trường
Không chỉ khắc phục được những bất lợi về quy mô, liên kết kinh tế giúp
DN phản ứng nhanh với những thay đổi của thị trường:
Thứ nhất, nhu cầu thị trường là luôn luôn thay đổi. Do vậy, để tồn tại, doanh
nghiệp phải thay đổi phù hợp với nhu cầu của thị trưòng, có thông tin và khả

năng triển khai nhanh các phương án sản xuất mới. Chính sự liên kết sẽ giúp cho
DN thực hiện được điều đó.
Thứ hai, liên kết kinh tế giúp cho DN tiêu thụ sản phẩm của mình được nhanh
hơn do có sự liên kết giữa hệ thống các nhà thương mại với nhà sản xuất thông
qua hình thức đại lý bán hàng. Do đó sản phẩm của DN được đưa vào thị trường
một cách nhanh chóng hơn, kịp thời hơn.
Thứ ba, liên kết kinh tế giúp cho DN có thể tiếp cận nhanh với các công nghệ
và kỹ thuật mới, nhờ sự phối hợp với các nhà nghiên cứu ở các trường đại học
hay cơ sở nghiên cứu trong và ngoài nước.
Ngược lại, sự thay đổi của thị trường cũng thúc đẩy liên kết kinh tế. Trong
thực tế, khi những thay đổi của môi trường vượt ra khỏi khả năng đáp ứng của
DN, buộc các DN phải tìm cách liên kết với nhau để tìm kiếm sự hỗ trợ về vốn và
công nghệ, kể cả việc tiến hành đặt gia công sản xuất bên ngoài. Mục tiêu cuối
cùng là duy trì sự phồn thịnh của DN và đưa doanh nghiệp lên một vị thế mới.
1.3.3. Giảm rủi ro trong kinh doanh
Ngoài hai lợi ích trên, liên kết kinh tế còn góp phần làm giảm rủi ro trong kinh
doanh. Phát triển sản xuất là một quá trình vận động không ngừng, tích tụ tập
trung rồi lại chia tách, sát nhập, để đáp ứng nhu cầu xã hội và phù hợp với khả
năng nội tại của DN, với mục tiêu tìm kiếm được lợi nhuận cao nhất mà lại giảm
được rủi ro trong kinh doanh.
Trước đây, hai doanh nghiệp là hai đối thủ cạnh tranh của nhau trên cùng
một thị trường với cùng một loại sản phẩm. Nay, khi họ liên kết lại, cùng thoả
hiệp phân chia lại thị trường, cùng hưởng lợi theo tỷ lệ đóng góp. Như vậy liên
kết kinh tế làm giảm đi sự cạnh tranh trong môi trường kinh doanh đầy biến
động.
Khi đứng trước một dự án lớn, nhiều khi vượt quá khả năng sản xuất của
doanh nghiệp. Nếu DN bỏ lỡ thì sẽ mất cơ hội làm ăn, nhưng nếu DN đơn độc
một mình triển khai thực hiện dự án, nhiều khi không kham nổi sẽ dẫn đến hiệu
quả thấp, thậm chí thua lỗ dẫn tới hậu quả đáng tiếc. Để tránh hiện tượng này,
DN đã mời các DN khác tham gia cùng thực hiện. Như vậy, nếu xảy ra rủi ro,

chúng sẽ được phân tán cho các DN theo tỷ lệ đóng góp ghi trong hợp đồng liên
kết.
Phần II: Thực trạng liên kết kinh tế trong ngành công nghiệp
mía đường ở Việt Nam
2.1. Mô hình liên kết bốn nhà
Sau Quyết định 80/2002QĐ-TTg ngày 24 tháng 6 năm 2002 của Chính phủ,
mô hình liên kết giữa bốn nhà: nhà nông, nhà công nghiệp, nhà khoa học, nhà
nước đã dần hình thành. Tuy nhiên, trong quá trình hình thành và phát triển, mô
hình còn tồn tại nhiều vấn đề rất cơ bản cần được giải quyết. Để đạt được hiệu
quả như mong muốn cần phải thực hiện theo những quy tắc nhất định.
2.1.1. Mục đích chung của mô hình liên kết bốn nhà
Một là phát huy sức mạnh tổng hợp của “các nhà”, tận dụng có hiệu quả
cao nhất tiềm năng, lợi thế so sánh về sản xuất nông nghiệp của nước ta nhằm tạo
ra ngày càng nhiều sản phẩm có giá trị cao, tăng sức cạnh tranh trên thị trường,
xuất khẩu thu ngoại tệ lớn cho đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp
và nông thôn.
Hai là, tăng cường quản lý Nhà nước cải cách hành chính - đưa nền hành
chính thực sự vì dân phục vụ chứ không phải chủ yếu “hành dân là chính” như
lâu nay. Mặt khác, từ đó phát triển khoa học công nghệ, gắn khoa học với sản
xuất nông nghiệp, đưa các nhà khoa học về trực tiếp phục vụ nông dân, nông
thôn.
Ba là, tăng cường sự liên kết hỗ trợ lẫn nhau giữa các nhà kinh doanh hướng
vào mục tiêu. đối tượng chung là phục vụ sản xuất nông nghiệp - là nhà nông, và
thông qua đó mà tạo điều kiện để mọi nhà kinh doanh đều phát triển kinh doanh
có hiệu quả.
Bốn là, về phương thức hành động không phải chỉ liên kết song phương mà
còn liên kết tổng hợp, tác động qua lại giữa các “nhà” với nhau, hỗ trợ cho mỗi
nhà thực hiện tốt vai trò, chức năng hoạt động của mình.
2.1.2. Nguyên tắc liên kết giữa các nhà
Mụch đích chung chỉ có thể đạt được khi sự liên kết diễn ra theo nguyên tắc

cơ bản sau đây:
Với nhà nước: Thực hiện được các nguyên tắc quản lý kinh tế vĩ mô về kinh tế
như: tập trung dân chủ; phân công phân cấp mạnh cho cấp dưới và cơ sở kinh
doanh; vận dụng có hiệu quả các quy luật khách quan, đặc biệt là các quy luật,
phạm trù của kinh tế thị trường; hiệu quả kinh tế; kết hợp hài hoà các lợi ích nhà
nước, tập thể,cá nhân người lao động…
Với các “nhà” khác: Tuân thủ pháp luật; thích nghi với thị trường; tự nguyện,
bình đẳng, dân chủ; hiệu quả kinh doanh; và cùng có lợi.
2.2. Chuỗi cung ứng trong ngành công nghiệp mía đường ở Việt Nam
2.2.1. Đặc điểm các tác nhân trong chuỗi
Chuỗi cung ứng trong ngành công nghiệp mía đường bao gồm các tác nhân
chính: các nhà cung ứng nguyên vật liệu, các nhà máy chế biến,các lò đường thủ
công và các nhà phân phối.
2.2.1.1. Nhà cung ứng nguyên liệu
Do điều kiện khí hậu và đất đai ở Việt Nam nên cây mía rất dễ sinh trưởng,
phát triển. Tuy nhiên, chúng chủ yếu được trồng trên những thửa ruộng nhỏ, chỉ
có một số ít vùng chuyên canh cây mía, là vùng nguyên liệu tập trung cho các
nhà máy chế biến. Mía được trồng ở một số nông trường quốc doanh( Lam Sơn
-Thanh Hoá), còn lại phần lớn là do các hộ nông dân sản xuất với qui mô nhỏ và
không đồng đều, xa khu chế biến. Quy mô của các hộ chỉ dưới 0,5 ha/hộ, riêng
khu vực ĐBSCL, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên có diện tích 5 ha/ hộ. Do không
tập trung nên khi thu hoạch rất tốn công, chi phí về nhân công và vận chuyển.
2.2.1.2. Các nhà máy chế biến
Hầu hết tại các nhà máy được xây dựng mới và mở rộng, công nghệ và
thiết bị chế biến đều được nhập khẩu từ các nước phát triển như Ôxtrâylia,
Pháp, Anh, Nhật…Công nghệ và thiết bị tiên tiến chủ yếu áp dụng ở các nhà máy
có quy mô lớn. Còn ở những nhà máy quy mô nhỏ và trung bình, chủ yếu là các
công nghệ và thiết bị đơn giản nhập khẩu từ Trung Quốc, Ấn Độ…Những nhà
máy sử dụng thiết bị có nguồn gốc nhập khẩu từ Trung Quốc chỉ sản xuất được
đường thô và đường trắng RS.

Trong tổng số các nhà máy đường hiện có, hầu hết các nhà máy quy mô
nhỏ( <1500 TMN) đều thuộc sở hữu của doanh nghiệp Nhà nước, Trung ương
hoặc địa phương. Các nhà máy được cổ phần hoá có quy mô lớn hoặc trung
bình(>1500 TMN). Trong khi đó các nhà máy liên doanh hoặc có vốn đầu tư
nước ngoài thường là những nhà máy lớn( >2500 TMN).

×