Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

phan tich bai tho thuat hoai cua pham ngu lao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.9 KB, 21 trang )

Phân tích bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão
Bài tham khảo 1
Phạm Ngũ Lão (1255 – 1320), người làng Phù ủng, huyện Đường Hào, nay
thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên, là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ
tầng lớp bình dân song chí lớn tài cao nên ông nhanh chóng trở thành tùy tướng số
một bên cạnh Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Phạm Ngũ Lão từng tham
gia hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông, ông cùng những
tên tuổi lớn khác của triều đình đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần
quan trọng tạo nên hào khí Đông Á của thời đại đó.
Phạm Ngũ Lão làm bài Thuật hoài vào cuối nằm 1284, khi cuộc kháng chiến
lần thứ hai đã đến rất gần. Bài thơ này là một tác phẩm nổi tiếng, được lưu truyển
rộng rãi vì nó bày tỏ khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ trong xã hội phong kiến
đương thời: làm trai phải trả cho xong món nợ công danh, có nghĩa là phải thực
hiện đến cùng lí tưởng trung quân, ái quốc.
Nội dung bài thơ khắc họa nổi bật vẻ đẹp của một con người có sức mạnh, có
lí tưởng, nhân cách cao cả cùng khí thế hào hùng của thời đại.
Phiên âm chữ Hán:
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trải,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
Dịch thơ tiếng Việt:
Múa giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.
(Bùi Văn Nguyên dịch)
Bài thơ được Phạm Ngũ Lão sáng tác trong bối cảnh đặc biệt có một không hai
của lịch sử nước nhà. Triều đại nhà Trần (1226 – 1400) là một triều đại lẫy lừng



với bao chiến công vinh quang, mấy lần quét sạch quân xâm lược Nguyên – Mông
hung tàn ra khỏi bờ cõi, giữ vững sơn hà xã tắc, nêu cao truyền thống bất khuất
của dân tộc Đại Việt.
Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên trong thời đại ấy nên ông sớm thấm nhuần
tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc và nhất là lí tưởng trung quân, ái quốc
của đạo Nho. Ông nhận thức rất rõ ràng về trách nhiệm công dân trước vận mệnh
của đất nước: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.
Bài thơ có nhan đề chữ Hán là Thuật hoài: Thuật là kể lại, là bày tỏ; hoài là nỗi
lòng. Dịch thành Tỏ lòng, nghĩa là bày tỏ khát vọng, hoài bão trong lòng. Chủ thể
trữ tình ở đây là vị danh tướng trẻ tuổi đang chỉ huy quân đội làm nhiệm vụ gìn
giữ non sông.
Nguyên tác Thuật hoài bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt luật Đường,
niêm luật chặt chệ, ý tứ hàm súc, hình tượng kì vĩ, âm điệu hào hùng, ở hai câu thơ
đầu, tác giả bày tộ niềm tự hào to lớn về quân đội của triều đình; trong đó có mình
– một vị tướng. Nhà thơ đã khắc họa vẻ đẹp gân guốc, lẫm liệt, tràn đầy sức sống
của những chiến binh quả cảm.
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu. Dịch nghĩa: Cầm ngang ngọn giáo bảo vệ
giang sơn đã mấy mùa thu. Dịch thơ: Múa giáo non sông trải mấy thu. So với
nguyên văn chữ Hán thì câu thơ dịch chưa lột tả được hết chất oai phong, kiêu
hùng trong tư thế của người lính đang chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hoành sóc là
cầm ngang ngọn giáo. Luôn ở tư thế tấn công dũng mãnh, áp đảo quân thù. Tư thế
của những con người chính nghĩa lồng lộng trong không gian rộng lớn là giang
sơn đất nước suốt một thời gian dài. Có thể nói đây là hình tượng chủ đạo, tượng
trưng cho dân tộc Đại Việt quật cường, không một kẻ thù nào khuất phục được. Từ
hình tượng ấy, ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước ngời ngời tỏa sáng.
Câu thơ thứ hai: Tam quân tì hổ khí thôn ngưu. Dịch nghĩa: Ba quân như hổ
báo, khí thế hùng dũng nuốt trôi trâu. Dịch thơ: Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu
đặc tả khí thế chiến đấu và chiến thắng không gì ngăn cản nổi của quân dân ta.
Hai câu tứ tuyệt chi mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào thời



gian một bức tượng đài tuyệt đẹp về người lính quả cảm với khí thế dũng mãnh,
sẵn sàng xả thân giết giặc cứu nước của đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần.
Là một thành viên trong đạo quân anh hùng ấy, Phạm Ngũ Lão từ một chiến
binh dày dạn đã trở thành một danh tướng khi tuổi còn rất trẻ. Trong con người
ông luôn sôi sục khát vọng công danh của đấng nam nhi thời loạn. Mặt tích cực
của khát vọng công danh ấy chính là ý muốn được chiến đấu, cống hiến đời mình
cho vua, cho nước. Như bao kẻ sĩ cùng thời, Phạm Ngũ Lão tôn thờ lí tưởng trung
quân, ái quốc và quan niệm: Làm trai đứng ở trong trời đất, Phải có danh gì với
núi sông (Chí làm trai – Nguyễn Công Trứ). Bởi thế cho nên khi chưa trả hết nợ
công danh thì bản thân tự lấy làm hổ thẹn:
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hẩu.
(Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.)
Câu thứ ba, thứ tư nói lên khát vọng của Phạm Ngũ Lão là tận tâm phụng sự
triều đại nhà Trần cho đến hết đời, lập được công danh sánh ngang với Gia Cát
Lượng. Gia Cát Lượng (Khổng Minh) là quân sư số một của LƯU Bị, có mưu trí
tuyệt vời. Song điểm làm cho Gia Cát Lượng nổi tiếng lại là lòng tuyệt đối trung
thành với chủ. Ông đã từng phát biểu quan điểm của mình là: Cúi mình tận tụy,
đến chết mới thôi. Trở lại câu thơ thứ nhất, ta thấy Phạm Ngũ Lão mới phụng sự
được có mấy thu (tức là mấy năm), muốn được như Gia Cát Lượng thì ông còn
phải phụng sự nhiều lắm, lâu lắm! Câu thơ thứ tư: Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ
hầu thực chất là một lời thề suốt đời trung thành với chủ tướng Trần Hưng Đạo của
Phạm Ngũ Lão.
Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Cảm xúc hào sảng ban
đầu dần chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình. Như thế ta có
thể hiểu vì sao mà Phạm Ngũ Lão lại dùng từ thẹn. Cũng có thể đây là cách nói thể
hiện khát vọng, hoài bão của ông là muốn noi gương thần tượng của mình, muốn
sánh với Vũ hầu.



Lấy gương sáng trong lịch sử cổ kim rồi soi mình vào đó mà so sánh, phấn đấu
vươn lên cho bằng người, đó là tòng tự ái, tự trọng đáng quý cẩn phải có ở một
đấng trượng phu. Là một tùy tướng thân cận của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc
Tuấn, Phạm Ngụ Lão luôn sát cánh bên cạnh chủ tướng, chấp nhận xông pha nơi
làn tên mũi đạn, làm gương cho ba quân tướng sĩ. Ông đã dồn hết tài năng, tâm
huyết để tìm ra những cách đánh thần kì nhất nhằm quét sạch quân xâm lược ra
khỏi bờ cõi.
Phạm Ngũ Lão suy nghĩ rất cụ thể và thiết thực: một ngày còn bóng quân thù
là nợ công danh của tuổi trẻ với giang sơn xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Mà
như vậy tức là phận sự với vua, với nước chưa tròn, khát vọng công danh chưa
thỏa. Cách nghĩ, cách sống của Phạm Ngũ Lão rất tích cực, tiến bộ. Ông muốn
sống cho xứng đáng với thời đại anh hùng, dân tộc anh hùng.
Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có trái tim vô cùng nhạy cảm
của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng khí và
hoài bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục sâu sắc về
nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại. Thuật hoài đã
vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão đến muôn đời sau.
Bài tham khảo 2
Khi nói đến Phạm Ngũ Lão, chúng ta liền nhớ đến người anh hùng xuất thân ở
tầng lớp bình dân, ngồi đan sọt mà lo việc nước. Về sau, chàng trai làng Phù Ủng
ấy đã trở thành nhân vật lịch sử từng có công lớn trong kháng chiến chống quân
Nguyên-Mông,giữ địa vị cao ở đời Trần.
Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được các sử
gia ngợi ca là “Hào khí Đông A”. Thơ văn đời Trần là tiếng nói của những anh
hùng – thi sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. “Hịch tướng sĩ” của Trần
Quốc Tuấn, “Thuật hoài” (Tỏ lòng ) của Phạm Ngũ Lão, “Bạch Đằng giang phú”
của Trương Hán Siêu.v.v… là những kiệt tác chứa chan tình yêu nước và niềm tự
hào dân tộc.

Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng,


văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán: “Thuật hoài” và
“Vãn Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại vương”.
Bài thơ “Tỏ lòng” thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến
công của người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nó là bức chân dung tự hoạ
của danh tướng Phạm Ngũ Lão.
Hoành sóc giang san kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.
Cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) là một tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang
dũng mãnh. Câu thơ “Hoàng sóc giang sơn kháp kỷ thu” là một câu thơ có hình
tượng kỳ vĩ, tráng lệ, vừa mang tầm vóc không gian (giang sơn) vừa mang kích
thước thời gian chiều dài lịch sử (kháp kỷ thu). Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ
thuở “bình Nguyên” ra trận hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền
thoại. Chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện qua một vần thơ cổ kính trang nghiêm:
cầm ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn
yêu quý.
Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức
mạnh phi thường, mạnh như hổ báo (tỳ hổ) quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược.
Khí thế của đội quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể
ngăn cản nổi. “Khí thôn Ngưu” nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át,
làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời. Hoặc có thể hiểu : ba quân thế mạnh nuốt trôi
trâu. Biện pháp tu từ thậm xưng sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc
hoành tráng, vũ trụ: “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”. Hình ảnh ẩn dụ so sánh:
“Tam quân tì hổ…” trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo, không chỉ có sức biểu
hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân “Sát Thát” đánh đâu thắng đấy mà nó
còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá

trong nền văn học dân tộc:
“Thuyền bè muôn đội;


Tinh kỳ phấp phới
Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói…”
(Bạch Đằng giang phú)
Người chiến sĩ “bình Nguyên” mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát
lập chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng
anh hùng! “Phá cường địch, báo hoàng ân” (Trần Quốc Toản) – “Đầu thần chưa
rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” (Trần Thủ Độ). “…Dẫu cho trăm thân này phơi
ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng” (Trần Quốc
Tuấn)… Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của
tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc đời Trần trong xu thế đi lên đang gánh vác sứ mệnh
lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về những chiến tích hiển hách, về những võ
công oanh liệt của mình có thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hùng của Vũ Hầu
Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Hai câu cuối sử dụng một điển tích (Vũ Hầu) để
nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã:
“Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”
“Công danh” mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được
làm nên bằng máu và tài thao lược, bằng tinh thần quả cảm và chiến công. Đó
không phải là thứ “công danh” tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ
công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương
máu và lòng dũng cảm. Không chỉ “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”, mà
tướng sĩ còn học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu
“Khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể
bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo
Nhai,…” để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững: “Non sông nghìn thuở
vững âu vàng” (Trần Nhân Tông).

“Thuật hoài” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ hùng tráng,
mạnh mẽ. Ngôn ngữ thơ hàm súc, hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ, giọng thơ hào hùng,
trang nghiêm, mang phong vị anh hùng ca. Nó mãi mãi là khúc tráng ca của các


anh hùng tướng sĩ đời Trần, sáng ngời “hào khí Đông-A”.
Bài tham khảo 3
Phạm Ngũ Lão là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ tầng lớp bình dân
song chí lớn tài cao nên ông nhanh chóng trở thành tùy tướng số một bên cạnh
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên xâm lược, Phạm Ngũ Lão cùng những tên tuổi lớn khác của triều đình đã
lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần quan trọng tạo nên hào khí Đông A
của thời đại đó:
Ông sáng tác không nhiều nhưng Thuật hoài là một bài thơ nổi tiếng, được lưu
truyền rộng rãi vì nó bày tỏ khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ trong xã hội phong
kiến đương thời: làm trai phải trả cho xong món nợ công danh, có nghĩa là phải
thực hiện đến cùng lí tưởng trung quân, ái quốc.
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
Dịch thơ tiếng Việt:
Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.
Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh đặc biệt có một không hai của lịch sử
nước nhà. Triều đại nhà Trần (1226 – 14001) là một triều đại lẫy lừng với bao
nhiêu chiến công vinh quang, mấy lần quét sạch quân xâm lược Mông - Nguyên
hung tàn ra khỏi bờ cõi, giữ vững sơn hà xã tắc, nêu cao truyền thống bất khuất
của dân tộc Việt.

Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên trong thời đại ấy nên ông sớm thấm nhuần
lòng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc và nhất là lí tưởng sống của đạo
Nho là trung quân, ái quốc. Ông ý thức rất rõ ràng về trách nhiệm công dân trước


vận mệnh của đất nước: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.
Bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) được làm bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ
tuyệt luật Đường, niêm luật chặt chẽ, ý tứ hàm súc, hình tượng kì vĩ, âm điệu hào
hùng, sảng khoái. Hai câu thơ đầu khắc họa vẻ đẹp gân guốc, lẫm liệt, tràn đầy sức
sống của những trang nam nhi - chiến binh quả cảm đang xả thân vì nước, qua đó
thể hiện hào khí

Đông A ngút trời của quân đội nhà Trần thời ấy.

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu (Dịch nghĩa: cầm ngang ngọn giáo gìn giữ
non sông đã mấy thu); dịch thơ: Múa giáo non sông trải mấy thu. So với nguyên
văn chữ Hán thì câu thơ dịch chưa lột tả được hết chất oai phong, kiêu hùng trong
tư thế của người lính đang chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hoành sóc là cầm ngang
ngọn giáo, luôn ở tư thế tấn công dũng mãnh, áp đảo quân thù. Tư thế của những
người chính nghĩa lồng lộng in hình trong không gian rộng lớn là giang sơn đất
nước trong suốt, một thời gian dài (giang sơn kháp kỉ thu). Có thể nói đây là hình
tượng chủ đạo, tượng trưng cho dân tộc Việt quật cường, không một kẻ thù nào
khuất phục được. Từ hình tượng ấy, ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước ngời
tỏa sáng.
Câu thơ thứ hai: Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu. (Dịch nghĩa: khí thế của ba
quân mạnh như hổ báo, át cả sao Ngưu trên trời). Dịch thơ: Ba quân hùng khí át
sao Ngưu, đặc tả khí thế chiến đấu và chiến thắng không gì ngăn cản nổi của quân
dân ta. Tam quân tì hổ là một ẩn dụ so sánh nghệ thuật nêu bật sức mạnh vô địch
của quân ta. Khí thôn Ngưu là cách nói thậm xưng để tạo nên một hình tượng thơ
kì vĩ mang tầm vũ trụ.

Hai câu tứ tuyệt chỉ mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào thời
gian một bức tượng đài tuyệt đẹp về người lính quả cảm trong đạo quân Sát Thát
nổi tiếng đời Trần.
Là một thành viên của đạo quân anh hùng ấy, Phạm Ngũ Lão từ một chiến
binh dày dạn đã trở thành một danh tướng khi tuổi còn rất trẻ. Trong con người
ông luôn sôi sục khát vọng công danh của đấng nam nhi thời loạn. Mặt tích cực
của khát vọng công danh áy chính là ý muốn được chiến đấu, cống hiến đời mình


cho vua, cho nước. Như bao kẻ sĩ cùng thời, Phạm Ngũ Lão tôn thờ lí tưởng trung
quân, ái quốc và quan niệm: Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi
sông (Chí làm trai - Nguyễn Công Trứ). Bởi thế cho nên khi chưa trả hết nợ công
danh thì tự lấy làm hổ thẹn:
“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu).
Vũ Hầu tức Khổng Minh, một quân sư tài ba của Lưu Bị thời Tam Quốc. Nhờ
mưu trí cao, Khổng Minh đã lập được công lớn, nhiều phen làm cho đôi phương
khốn đốn; vì thế ông rất được Lưu Bị tin yêu.
Lấy gương sáng trong lịch sừ cổ kim soi mình vào đó mà so sánh, phấn đấu
vươn lên cho bằng người, đó là lòng tự ái, lòng tự trọng đáng quý cần phải có ở
một đấng nam nhi. Là một tùy tướng thân cận của Hưng Đạo Đại Vương Trần
Quôc Tuấn, Phạm Ngũ Lão luôn sát cánh bên cạnh chủ tướng, chấp nhận xông pha
nơi làn tên mũi đạn, làm gương cho ba quân tướng sĩ, dồn hết tài năng, tâm huyết
để tìm ra cách đánh thần kì nhất nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi.
Suy nghĩ của Phạm Ngũ Lão rất cụ thể và thiết thực; một ngày còn bóng quân thù
là nợ công danh của tuổi trẻ với giang sơn xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Mà
như vậy là phận sự với vua, với nước chưa tròn, khát vọng công danh chưa thỏa.
Cách nghĩ, cách sống của Phạm Ngũ Lão rất tích cực, tiến bộ. ông muốn sống

xứng đáng với thời đại anh hùng.
Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Cảm xúc hào sảng ban
đầu dần chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình cho nên âm
hưởng trở nên thâm trầm, da diết.
Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có một trái tim nhạy cảm của
một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng trí và hoài
bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục rất sâu sắc về
nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại Thuật hoài đã


làm vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão.
Bài tham khảo 4
Đất nước ta đã trải qua mấy nghìn thu chiến đấu và đổi mới, nay đã được bình
yên, nhân dân ấm no, bở cõi vững vàng. Có được như thế là nhờ công lao của
người đời trước. Mà trong đó, tiêu biểu là danh tướng Phạm Ngũ Lão.”Tỏ Lòng”
là một trong hai bài thơ còn lại của Phạm Ngũ Lão nêu bật khí chất Đông A mạnh
mẽ ấy.
Trở ngược dòng thời gian về cuộc kháng chiến lần hai chống quân Nguyên lần
hai, Phạm Ngũ Lão cho ra đời bài thơ “Tỏ Lòng” với lời thơ hùng hồn của nước
Việt ta và tấm lòng quân tử nặng nợ tình.
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.
Bước vào thời đại chiến tranh ấy, cái thời mà lửa từ trong tim trào ra như suối
như thác. Quyết lòng diệt tan kẻ thù xâm lăng bờ cõi, khẳng định lại một lần
nữa:”Nam quốc sơn hà Nam Đế cư”! Và khi đó, xuất hiện tư thế hiên ngan của
người anh hùng đất Việt “hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”. Tại sao lại không cầm
“dọc” ngọn giáo mà lại cầm “ngang” chứ? Bởi đó chính là tư thế hiên ngang, hùng
dũng của một người anh hùng đang sẵn sàng ra trận chiến đấu. Đó chính là tư thế

ưỡn ngực tự hào mà rằng mình là dân đất Việt và mình sẵn sàng hy sinh để bảo vệ
bờ cõi Việt, bảo vệ nhân dân Việt, bảo vệ non sông gấm vóc ngàn thu này. Và cũng
chính tư thế này đã lấn át cái không gian bao la rộng lớn của giang sơn. Vừa tạo
nên một hình tượng dũng mãnh, vừa nêu lên một khí thế bất khả chiến bại của
quân ta lúc bấy giờ. Ở câu thơ này, tác giả đã khéo léo sử dụng ngôn từ để vẽ nên
một người chiến sĩ rừng rực khí thế Đông A!
Ấy chỉ mới là một người chiến sĩ, vậy còn cả đội quân, cả tam quân thì sao?
“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”. Ta có thể hiểu ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu
hay ba quân khí mạnh lấn át cả sao Ngưu. Và chăng, khi vừa đọc lên câu thơ thì ai


nấy đều đã cảm nhận được cái khí thế hùng dũng ra trận quyết chiến ấy. Cái khí
thế mà cả sao trời cũng phải cúi mình nhún nhường, cái khí thế mà một con trâu to
thật to cũng phải bị nuốt trôi một cách dễ dàng. Chứng tỏ một điều rằng khí thế
hùng mạnh này sẽ ngày càng tăng thêm nhiều hơn nữa theo chiều hướng chiến đấu.
Cũng bởi ngon lữa khát khao tự do cháy bỏng trong tim mỗi con người đất Việt
đang phừng phực cháy, không chỉ là một ngọn lửa mà hàng trăm hàng ngàn ngọn
lửa gộp lại với nhau thành một biển lửa. Một biển lửa đốt cháy mọi âm mưa của kẻ
thù, một biển lửa phá tan mọi gông cùm xiềng xích hàng trăm năm qua, một biển
lửa đốt cháy niềm khát khao độc lập tự do… Và thế, với lửa trong tim và khí chất
“Đông A” hùng dũng. Nhân dân Việt “cầm giáo” xông pha trận mạc, chiến đấu và
mang hạnh phúc, bình yên đến với quê nhà…
Tiếp theo sau đó, Phạm Ngũ Lão chợt nhận ra rằng mình còn một món nợ rất
lớn, mà cả đời ông cũng chưa chắc trả hết, đó là nợ công danh. “Nam nhi vị liễu
công danh trái”. Một món nợ mà chỉ có người nam nhi, quân tử mới cảm thấy rằng
mình không bao giờ trả đủ. Là tại sao vậy? Tại sao lại chiến đấu hết mình, bất chấp
hy sinh… mà vẫn cảm thấy không sao trả hết nợ? Đó là bởi vì đất nước chưa hết
mối lo, nhân dân chưa hết đói khổ, vậy thì sao có thể yên vị mà vui chơi được!
Vậy nên món nơ ngàn đời này vẫn phải trả, trả đến khi nào không thể trả nữa thôi.
Tác giả đã trải lòng mình theo bài thơ, đã tâm sự, đã truyền đạt hết những gì ấp ủ

trong lòng. Phía sau cái hào khí vững mạnh ấy, là một con người còn nặng nợ công
danh, nặng tình, nặng nghĩa. Luôn suy nghĩ, đắng đo vì nước vì dân. Bởi thân “làm
trai cho đáng nên trai”, cho đáng với đất nước ngàn thu này! Cho đáng với Vũ Hầu
Gia Cát Lượng! Để không phải “thẹn” khi nghe chuyện vũ Hầu nữa. Để những
chiến tích còn có thể lưu vang ngàn đời, để người đời sau còn nhớ về một người
anh hùng hết mình hy sinh vì nước vì dân.Cả bài thơ là một giọng điệu oai hùng,
dũng mãnh ào ào khí thế ra trận. Với nghệ thuật dùng từ ngữ giàu hình ảnh, mang
đậm khí chất Đông A.
Lại trở về với hiện tại, bước ra khỏi màn sương lịch sử, ta đã làm gì cho đất
nước này chưa? Ta đã có giữ lại khí thế Đông A ấy không? Ta đã hy sinh gì cho đất


nước này? Vẫn chưa…món nợ ấy ta vẫn chưa trả…chưa trả hết đâu…
Bài tham khảo 5
Âm vang của thời đại Đông A với những chiến công lẫy lừng trong lịch sử
chống ngoại xâm, ba lần đánh bại Nguyên - Mông đã in dấu trên nhiều trang viết
của các nhà thơ đương thời. Phạm Ngũ Lão - danh tướng nhà Trần "đánh đâu
thắng đó" cũng ghi lại những xúc cảm của mình qua Thuật Hoài - tác phẩm thể
hiện rất đẹp hình ảnh và khí thế của người trai thời đại, cũng là tư thế của dân tộc
trong những ngày hào hùng ấy.
Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu
Bài thơ chữ Hán, vẻn vẹn 28 chữ đã có một dung lượng thông điệp thẩm mỹ
lớn, thể hiện khí phách nhà thơ - dũng tướng. Thi ngôn chí là nội dung tư tưởng
của đề tào Thuật hoài, Vịnh hoài, cảm hoài... Nhưng sẽ không thể có cái ung dung
hào sảng nếu tách bài thơ ra khỏi không khí thời đại bừng bừng "sát Thát". . Bài
thơ không tách rời khỏi quỹ đạo tư tưởng Nho giáo trong mẫu hình người anh
hùng cá nhân phong kiến nhưng trước hết nó là nỗi lòng của người "một thời tuy

đã nên tướng giỏi - chí khí anh hùng vẫn khát khao". Giấc mộng lập công dương
danh luôn là điều ám ảnh những kẻ sĩ, đại trượng phu thời phong kiến, đi liền với
các tước phong công, hầu, khanh, tướng. Nhưng trong bài thơ này, con người đã
được phác bằng những câu thơ có sức khái quát cao độ tinh thần dân tộc tự cường.
Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu
Câu khai đề của bài thơ đã tạo một tư thế rất đẹp của con người. Bản dịch
vung giáo, múa giáo đều không ổn vì lập tức nó sẽ phá vỡ đi đối trọng con người không gian. Một bên là giang sơn - sông núi quê hương rộng lớn; một bên là con
người hoành sóc - cầm ngang ngọn giáo trấn giữ non sông. Thế "hoành" của ngọn
giáo khiến tầm vóc con người như vươn lên ngang tầm sông núi. Hình ảnh người
lính vệ quốc toát lên vẻ bình thản hiên ngang. Không những thế, trong mối tương


quan con người - thời gian còn làm nổi bật ấn tượng về sự bền bỉ , uy dũng của
người trai thời đại. Bởi lẽ con người không chỉ đứng đó trong thoáng chốc mà đã
trải qua "mấy thu" rồi. Câu thơ xác lập một tư thế con người lồng lộng giữa đất
trời, ngang tầm vũ trụ. Không những thế, cả đoàn quân cùng chung tư thế ấy:
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu
Câu trên là hình ảnh, câu dưới là thần thái con người. Người chiến sĩ cầm
ngang ngọn giáo kia với tam quân đã tạo thành một tường thành vững chắc, im
phăng phắc mà khí thế "xung thiên". Câu thơ còn gợi về một ý thơ của Quảng
Nghiêm thiền sư: "Nam nhi tự hữu xung thiên chí". Tư thế sẵn sàng xung trận đã
hình thành tứ thơ thật đẹp "tỳ hổ khí thôn ngưu". Tuy rằng cách diễn ý chưa thoát
khỏi lối ước lệ tượng trưng quen thuộc của thơ xưa nhưng để hiểu cặn kẽ cũng
không phải là điều đơn giản. Theo cảm quan thẩm mỹ cổ điển, câu thơ gợi lên khí
phách đoàn quân quyết chiến làm át cả sao Ngưu - vì tinh tú sáng chói trên trời.
Nhưng cách hiểu "ba quân như hổ mạnh nuốt trôi trâu" đem đến cảm nhận cụ thể
hơn về sức mạnh của quân đội còn non trẻ đương đầu với đội quân Nguyên Mông hùng mạnh và thiện chiến, dường như có hàm ý ngợi ca tự hào mạnh mẽ
hơn. Bởi lẽ tỳ hổ là cách so sánh mang đậm chất võ của người thống lĩnh ba quân.
Trong sự liên tưởng ấy, hổ và trâu hoàn toàn không làm mất đi giá trị thẩm mỹ của
câu thơ mà làm rõ hơn cho dũng khí của quân đội nhà Trần.

Nhưng hai câu thơ đầu mới chỉ là nền để nhà thơ bộc bạch lòng mình:
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
Đây mới là điều canh cánh bên lòng của người dũng tướng, gắn với bổn phận
của kẻ làm trai thời phong kiến . Bao đời nay, nợ công danh từng là niềm ám ảnh
khôn nguôi với những người làm trai trong thời phong kiến. Phải chăng, một
người anh hùng như Phạm Ngũ Lão cũng không thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn
"công hầu kha nh tướng" ấy? Giả sử có như vậy cũng là lẽ thường tình, nhất là
trong thời đại giá trị con người được tạo nên từ những chiến công - thời thế tạo anh
hùng. Câu thơ bộc lộ niềm khao khát lớn, một điều băn khoăn chưa trả với đời của


người trai làng Phù Ủng năm nào. Tất cả nỗi niềm của ông được thổ lộ trong sự
đối sánh với tấm gương Vũ Hầu Gia Cát Lượng thuở xưa. Bậc mưu thần, danh sĩ
nổi tiếng thời Tam Quốc, người đã xả thân vì cơ nghiệp nhà Thục, vì chúa Lưu Bị,
nhắm mắt chưa yên công cuộc "ủng Lưu phản Tào". Tất cả đã rõ, tâm niệm của
Phạm Ngũ Lão nào khác nguời xưa khi ông mong muốn làm nên công nghiệp phò
tá cho vua, thực hiện lý tưởng trí quân trạch dân cao cả của bề tôi trung thành tận
tuỵ. Nỗi thẹn của người anh hùng toả sáng một nhân cách lớn. Băn khoăn ấy
không dành riêng cho bản thân mà toàn tâm toàn ý hướng về nghiệp lớn muôn đời,
vì sự bình yên của sơn hà xã tắc.
Bài thơ là sự phản chiếu một thời đại hào hùng, khi lý tưởng trung quân ái
quốc hoà nhịp trọn vẹn trong tình cảm, tâm hồn nhà thơ, thời đại "vua tôi đồng
lòng, anh em hoà thuận, cả nước ra sức".Tâm nguyện của Phạm tướng quân đã
phản chiếu tâm tư của bao người trai thời Trần : ý thức rõ giá trị bản thân, nhận rõ
sự gắn bó cá nhân với cộng đồng - dân tộc - đất nước. Xúc cảm hào hùng toả sáng
trong hình tượng thơ, đem đến cho người đọc cái nhìn trọn vẹn về con người thời
đại Đông A.
Bài tham khảo 6
Việt Nam, đất nước tuy bé nhỏ đầy những gian lao vất vả nhưng rất đỗi anh

hùng đã trải qua bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước với những mốc son chói lọi
trong lịch sử. Một trong những mốc son ấy chính là ba cuộc kháng chiến chống
quân Mông-Nguyên xâm lược của vua tôi nhà Trần. Nhà Trần đã ghi vào pho sử
vàng Đại Việt những chiến công Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử.
Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được ghi lại trong
những áng văn chương kiệt xuất như: "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn, "Bạch
Đằng giang phú" của Trương Hán Siêu, v.v… Đặc biệt và nổi bật hơn hết cả là tác
phẩm "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão. Bài thơ là một khúc tráng ca hào hùng và
mang nặng nỗi niềm của tác giả.
Phạm Ngũ Lão sinh ra trong thời kì loạn lạc với cuộc kháng chiến chống quân
Mông-Nguyên của đất nước. Tên tuổi của ông gắn liền với câu chuyện về một


chàng trai nghèo mãi nghĩ kế giúp vua đánh giặc đến nỗi bi giáo đâm vào đùi. Bên
cạnh một nhà quân sự tài giỏi, ông còn là một nhà thơ vĩ đại với hai tác phẩm
"Thuật hoài" và "Viếng Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương" còn vang
vọng mãi với non sông.
"Thuật hoài" là bản tuyên ngôn về lý tưởng của kẻ làm trai là chiến đấu để bảo
vệ non sông đất nước đồng thời thể hiện khí thế, sức mạnh và khát vọng chiến
thắng của một thời đại anh hùng. Bài thơ tiêu biểu cho quy luật văn chương nghệ
thuật "Quý hồ tinh, bất quý hồ đa"
Mở đầu bài thơ là hình ảnh tráng lệ với âm hưởng hào hùng:
"Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu"
Bước vào thời đại chiến tranh ấy, cái thời mà ngọn lửa như thiêu đốt cả tâm
hồn quyết tâm diệt tan kẻ thù xâm lăng bờ cõi, khẳng định lại một lần nữa: "Nam
quốc sơn hà Nam Đế cư"! Và khi đó, xuất hiện tư thế hiên ngang của người anh
hùng đất Việt "hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu". Câu thơ đầu tiên đã vẽ nên hình
tượng oai phong lẫm liệt của người tráng sĩ với tư thế cầm ngang ngọn giáo sẵn
sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Tư thế ấy mang đậm tính tự hào rằng mình là
người con đất Việt và sẵn sàng hy sinh để bảo vệ bờ cõi Việt, bảo vệ nhân dân Việt,

bảo vệ non sông gấm vóc ngàn thu này. Hình ảnh lớn lao của người chiến sĩ đã
sánh với tầm vóc bao la hùng vĩ của đất trời, lấn át cả khí thế của quân giặc. Đó
còn biểu trưng cho lối sống cao đẹp cống hiến hết sức để bảo vệ đất nước một cách
kiên trì, nhẫn nại. Dù bao nhiêu năm đi chăng nữa thì lí tưởng bảo vệ, khôi phục
non sông vẫn mãi trường tồn.
Nếu câu thơ đầu thể hiện vẻ đẹp của con người với tầm vóc, tư thế, hành động
lớn lao, kỳ vĩ mang tầm vóc vũ trụ thì câu thơ thứ hai tô đậm hình ảnh "ba quân"
tượng trưng cho sức mạnh của quân đội nhà Trần và sức mạnh dân tộc Đại Việt lúc
bấy giờ.
"Tam quân tì hổ khí thôn ngưu"
Đội quân "Sát Thát" ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp với sức mạnh phi
thường, mạnh như hổ báo quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội


quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. "Khí
thôn ngưu" nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu
trên bầu trời xuất phát từ câu "khí thôn Ngưu đẩu" hay đó chính là khí thể hùng
mạnh có thể nuốt trôi trâu của tam quân thời Trần. Biện pháp nghệ thuật cường
điệu hoá sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, có tính sử
thi. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: "Tam quân tì hổ…" trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc
đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân "Sát Thát"
bất khả chiến bại mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển
tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:
Thuyền bè muôn đội,
Tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.

(Phú sông Bạch Đằng – Trương Hán Siêu)
Nếu tư thế của tráng sĩ với hình ảnh cây trường giáo như đo bằng chiều ngang

của non sông thì tư thế của ba quân lớn mạnh đo bằng chiều dọc gợi không gian
mở ra theo chiều rộng của núi sông và mở theo chiều cao đến tận sao Ngưu thăm
thẳm. Con người kì vĩ như át cả không gian bao la, kì vĩ. Hình ảnh tráng sĩ lồng
vào trong hình ảnh dân tộc thật đẹp có tính chất sử thi, hoành tráng. Đó chính là
sức mạnh, âm vang của thời đại, vẻ đẹp của người trai thời Trần, là sản phẩm của
"hào khí Đông A". Nói cách khác, đó là hình ảnh con người vũ trụ, mang tầm vóc
lớn lao. Con người ấy vì ai mà xông pha, quyết chiến? Tất cả xuất phát từ trách
nhiệm, ý thức dân tộc và nền thái bình. Vì thế con người vũ trụ gắn với con người
trách nhiệm, con người ý thức, bổn phận, con người hành động, đó chính là những
biểu hiện của con người cộng đồng, con người xả thân vì đất nước.
Nếu ở hai câu đầu giọng điệu sôi nổi hùng tráng thì đến đây âm hưởng thơ
bỗng dưng như một nốt trầm lắng lại với lời bộc bạch, tâm sự, bày tỏ nỗi lòng của
nhà thơ:


"Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu"
Thời xưa, Nho giáo đã nêu lên triết lí kẻ làm trai từ lúc sinh ra đã gánh nợ
công danh. Người đàn ông phải hướng đến "tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ"
lấy đó là lí tưởng, là cái đích phải hướng tới. Nói như Nguyễn Công Trứ thì:
"Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông".
Thời Trần, cái chí làm trai ấy là "Phá cường địch, báo hoàng ân" của vị anh
hùng trẻ tuổi Trần Quốc Toản, là câu nói quả quyết của Thái sư Trần Thủ Độ: "Đầu
thần còn chưa rơi xuống xin bệ hạ đừng lo" hay đó là vị Quốc Công tiết chế với
"Hịch tướng sĩ" mang đậm hào khí anh hùng: "…dẫu cho thân này phơi ngoài nội
cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng cam lòng". Ấy chính là khát vọng
được gánh vác vận mệnh đất nước, dân tộc, lập chiến công hiển hách, là lý tưởng
lập công danh sự nghiệp của nam nhi thời loạn lạc. "Công danh" mà Phạm Ngũ
Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao

lược, bằng tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ "công danh"
tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà
kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm.
Đặt trong thời đại của Phạm Ngũ Lão, chí làm trai này đã cổ vũ con người từ
bỏ lối sống tầm thường, ích kỉ, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì sự nghiệp lớn lao
"cùng trời đất muôn đời bất hủ". Phạm Ngũ Lão cũng từ cái chí, cái nợ nam nhi,
nam tử đó mà cùng dân tộc chiến đấu chống xâm lược bền bĩ, ròng rã bao năm.
Đặc biệt ở đây cũng từ cái chí, cái nợ đó mà nảy sinh trong tâm trạng một nỗi thẹn.
Phạm Ngũ Lão "thẹn" chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu Gia Cát Lượng đời
Hán để trừ giặc, cứu nước. Thẹn bởi vì so với cha ông mình chưa có gì đáng nói.
Gia Cát Lượng là quân sư của Lưu Bị, mưu trí tuyệt vời, song điểm làm cho Gia
Cát Lượng nổi tiếng là lòng tuyệt đối trung thành với chủ. Vì thế "luống thẹn tai
nghe chuyện Vũ hầu" thực chất là một lời thề suốt đời tận tuỵ với chủ tướng Trần
Hưng Đạo. Xưa nay, những người có nhân cách vẫn thường mang trong mình nỗi


thẹn. Nguyễn Khuyến trong bài thơ "Thu vịnh" từng bày tỏ nỗi thẹn khi nghĩ tới
Đào Tiềm – một danh sĩ cao khiết đời Tấn. Với Phạm Ngũ Lão, tuy là một nhà
thao lựơc kiệt xuất, có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chống
Mông-Nguyên lần hai, ba nhưng ông vẫn tự thấy hổ thẹn. Ông thẹn vì chưa khội
phục được giang sơn, vì kém cỏi chưa được như Vũ hầu, chưa báo được Hoàng ân.
Nỗi thẹn ấy không làm cho con người trở nên nhỏ bé mà trái lại nâng cao phẩm giá
con người. Đó là cái thẹn của một con người có lý tưởng, hoài bão vừa lớn lao,
vừa khiêm nhường. Nỗi thẹn của một con người luôn dành trọn cái tâm cho đất
nước, cho cộng đồng. Ẩn sau cái thẹn cao cả, khiêm tốn và ấy là cả một nỗi niềm
khao khát được cống hiến hơn nữa cho Tổ quốc, cho dân tộc. Ông nguyện học tập
binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu "Khiến cho người người
giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở
cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…" để Tổ quốc Đại Việt
được trường tồn bền vững: "Non sông nghìn thuở vững âu vàng".

Thuật hoài là một bài thơ Đường luật ngắn gọn nhưng hàm súc với thủ pháp
gợi, thiên về ấn tượng, khái quát kết hợp với bút pháp hoành tráng mang âm hưởng
sử thi đã khắc họa vẻ đẹp của người anh hùng hiên ngang, hùng dũng với sức
mạnh lý tưởng lớn lao cao cả, tâm hồn sáng ngời nhận cách cùng khí thế hào hùng,
quyết chiến quyết thắng của "hào khí Đông A"-hào khí thời Trần. Ngày nay, việc
"cứu nước phò nguy" đâu phải là không cần thiết nữa vì vậy, mỗi thanh niên chúng
ta cần học tập thật tốt, rèn luyện nhân cách đạo đức, xác định cho mình lí tưởng
sống đúng đắn và quan trọng hơn là phải biết ước mơ và hành động vì sự nghiệp
đất nước, đưa Việt Nam sánh ngang tầm với các cường quốc khắp năm châu.
Bài tham khảo 7
Đất nước của chúng ta trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử với các cuộc
chiến tranh chống xâm lược và bảo vệ đất nước không ít những vị tướng, ông vua
đã dùng văn chương để nói lên những tâm tư tình cảm của mình trước thời cuộc.
Tiêu biểu trong số ấy phải kể đến nhà thơ vị tướng Phạm Ngũ Lão với bài thơ
thuật hoài, có thể nói bài thơ không chỉ làm cảm xúc nỗi lòng của nhà thơ với hào


khí Đông A mà còn nổi bật lên cảm hứng yêu nước anh hùng bất khuất.
Trước tiên ta nên tìm hiểu về hào khí Đông A là gì?. Hào khí Đông A là Hào
khí Đông A là hào khí đời Trần (chữ Đông và chữ A trong tiếng Hán ghép lại thành
chữ Trần). Cụm thuật ngữ này từ lâu đã được dùng để chỉ cái không khí oai hùng,
hào sảng của thời Trần (thời kì mà chúng ta có những chiến công lừng lẫy khi cả
ba lần đều đánh tan sự xâm lược của giặc Nguyên- Mông). Hào khí Đông A là chỉ
cái khí thế hừng hực

của niềm vui chiến thắng, chỉ cái khát khao mang tính thời

đại mà ở đó ai ai cũng muốn góp sức dựng xây hay dang tay bảo vệ cho sự vững
bền mãi mãi của non sông đất nước mình.Hào khí Đông A từ xã hội đi vào thơ văn
trở thành sự kết tinh cho những biểu hiện cao đẹp của lòng yêu nước. Có không ít

tác phẩm nổi tiếng mang hơi thở của Hào khí Đông A : Tụng giá hoàn kinh sư
(Phò giá về kinh) của Trần Quang; hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn thì thuật hoài
của Phạm Ngũ Lão cũng thể hiện rất rõ hào khí này. Bài thơ được viết theo thể thơ
thất ngôn tứ tuyệt chỉ có bốn câu thơ thôi nhưng nói lên được cả một chí lớn yêu
nước anh hùng bất khuất.
Câu thơ mở đầu thể hiện rõ một tư thế hiên ngang dũng mạnh và không sợ bất
cứ một khó khăn nào:
“Hành sóc giang san kháp kỉ thu”
(Múa giáo non sông trải mấy thu)
Câu thơ như gợi tả hết cái hào khí Đông A của thời bấy giờ, hình ảnh cầm
ngang ngọn giáo thể hiện rõ vẻ đẹp hiên ngang của con người nhà Trần. Nếu như
so sánh thì ta thấy hai chữ “ Múa giáo” như trong bản dịch không lột tả hết những
vẻ của hai chữ “ hành sóc”. Múa giáo thể hiện mơ nhạt và có phần yếu ớt hơn so
với hành sóc. Nghĩa thật sự của hai chữ hành sóc đó là cầm ngang ngọn giáo trên
tay. Ngọn giáo ấy không chỉ là vũ khí chiến đấu của những người anh hùng như
Phạm Ngũ Lão mà nó còn là thứ để họ thể hiện tài năng, bản lĩnh cũng như ý chí
hiên ngang bất khuất của bản thân mình. Với ngọn giáo ấy và tư thế ấy họ đã mang
đến những chiến công lẫy lừng trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ giang sơn của cha
ông. Thêm nữa là cụm từ “ kháp kỉ thu” gợi tả một thời gian của lịch sử. có thể nói


tầm vóc của chiếc giáo kia được đo bằng không gian rộng lớn của giang sơn và
thời gian của chiều dài lịch sử. Nó giống như một chiếc gậy chấn quốc của những
tướng quân tài tình vậy. đặc biệt là những người có ý chí bất khuất hiên ngang
trước những sóng gió và không thôi yêu nước như Phạm Ngũ Lão.
Nếu như câu thơ thứ nhất lột tả được vẻ đẹp của những vị tướng quân thời
Trần thì sang câu thứ hai tác giả tiếp tục miêu tả sức mạnh cũng như vẻ đẹp của
quân đội:
“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
(Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)

Đội quân ấy mang sức mạnh về cả sức quân cũng như tinh thần, sức mạnh ấy
có thể nuốt trôi tất cả những gì cản bước tiến của họ. Chính chiến thắng quân
Nguyên Mông đã chứng minh cho sức mạnh ấy , một quân đội đông đảo như
chúng mà cũng bị bại trước khí thế oai hùng hiên ngang của ta. Đội quân Sát Thát
ra đi với khí thế như hổ báo át đi, mờ đi cả sao Ngưu trên trời. cuộc hành trình cứu
nước gian nan khó khăn và đầy những nguy hiểm nhưng không thể nào làm vơi đi
sức mạnh ý chí trong lòng quân ta được. câu thơ là phép so sánh độc đáo của Phạm
Ngũ Lão, qua đó hào khí Đông A được thể hiện một cách rõ ràng nhất. đồng thời
qua đó thể hiện được chủ nghĩa yêu nước anh hùng.
Tiếp đến câu thơ thứ ba tác giả thể hiện tâm tư tình cảm của mình qua
Nam nhi vị liễu công danh trái
“Công danh nam tử còn vương nợ”
Tác giả nêu lên trách nhiệm bổn phận của một bậc nam nhi sống ở trên đời.
Nếu như Nguyễn Công Trứ thể hiện chí làm trai của mình qua những câu thơ:
“Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho thỏa sức vẫy vùng trong bốn bể”
Thì Phạm Ngũ Lão lại thể hiện quan niệm cũng nhu chí làm trai – một bậc
trượng phu thật sự thì phải có công danh trong thiên hạ. nếu như không có công
danh thì không đáng là một vị anh hùng, một đấng nam nhi sống ở trên đời.
Nguyễn Công Trứ làm trai vẫy vùng trong bốn bể khắp giang sơn đâu cũng đặt


chân đến và không có sóng gió nào có thể cản được bước chân của ông thì Phạm
Ngũ Lão có chí làm trai là phải có công danh với đất nước. Đã sinh ra trên đời thì
phải có công với đất nước của mình. Điều đó phải chăng chính là chủ nghĩa anh
hùng yêu nước trong nhà thơ?
Đến câu thơ cuối cùng tác giả thể hiện sự khiêm tốn của mình, cho rằng những
việc mình làm cho đất nước chưa có gì cả nên luống thẹn :
“Luống thẹn tai nghe thuyết Vũ Hầu”
(Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu)

Phạm Ngũ Lão “thẹn” chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu Gia Cát Lượng
đời Hán để trừ giặc, cứu nước. Thẹn bởi vì so với cha ông mình chưa có gì đáng
nói. Gia Cát Lượng là quân sư của Lưu Bị, mưu trí tuyệt vời, song điểm làm cho
Gia Cát Lượng nổi tiếng là lòng tuyệt đối trung thành với chủ. Vì thế “luống thẹn
tai nghe chuyện Vũ hầu” thực chất là một lời thề suốt đời tận tụy với chủ tướng
Trần Hưng Đạo, “thẹn” còn được hiểu là cách nói thể hiện khát vọng, hoài bão
muốn sánh với Vũ hầu. Xưa nay, những người có nhân cách vẫn thường mang
trong mình nỗi thẹn. có thể thấy trong nhà thơ có một tư tưởng anh hùng yêu nước
lớn mà lại còn có cả sự trung quân nữa. Bấy nhiêu điều mà ông làm được khi đi
đánh giặc, ông đều cho là chưa làm được gì với núi sông của mình.
Bài thơ chỉ có bốn câu thơ thôi nhưng đã lột tả hết được những tâm tư tình
cảm của nhà thơ Phạm Ngũ Lão hay cũng chính là nổi bật lên chủ nghĩa anh hùng
yêu nước của ông nói riêng của quân dân nhà Trần nói chung. Tác giả quan niệm
thật đúng với thời cuộc lúc bấy giờ là đã làm trai sống ở trên đời thì phải có công
danh với đất nước của mình. Bài thơ như một lời tuyên ngôn khẳng định ý chí
quyết tâm của nhà thơ với vận mệnh của đất nước. Qua đây ta càng thêm yêu quý
hơn những anh hung như Phạm Ngũ Lão, một người có ý chí sắt đá kiên trung bất
khuất và nghĩ cho đất nước đầu tiên.



×