Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Giải pháp chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm cho thanh niên từ thực tiễn thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (663.94 KB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH VĂN TÁM

GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ
VÀ TẠO VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH VĂN TÁM

GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ
VÀ TẠO VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 60.34.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS. NGUYỄN THỊ TÂM

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nghiên cứu nêu trong Luận văn Thạc sĩ Chính sách công về “Giải pháp chính
sách đào tạo nghề và tạo việc làm cho thanh niên từ thực tiễn thành phố Đà
Nẵng” là hoàn toàn trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ luận
văn nào khác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này./.
Tác giả luận văn

Huỳnh Văn Tám


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ TẠO
VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN Ở VIỆT NAM - CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN ................................................................................................. 10
1.1. Một số vấn đề lý luận .............................................................................. 10
1.2. Giải pháp chính sách đào tạo nghề, giải quyết việc làm ở Việt Nam trong
thời gian qua - thành quả và vấn đề đặt ra ..................................................... 23
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO
NGHỀ, GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN Ở THÀNH
PHỐ ĐÀ NẴNG ............................................................................................ 33
2.1. Khái quát chung về Thành phố Đà Nẵng ................................................ 33
2.2. Một số kết quả và những vấn đề đặt ra trong giải pháp chính sách đào tạo

nghề, giải quyết việc làm cho thanh niên ở Thành phố Đà Nẵng .................. 38
CHƢƠNG 3. NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH
ĐÀO TẠO NGHỀ, TẠO VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN THÀNH PHỐ
ĐÀ NẴNG ..................................................................................................... 53
3.1. Định hướng chung ................................................................................... 53
3.2. Mục tiêu ................................................................................................... 54
3.3. Nội dung để nâng cao chất lượng-tính khả thi của các giải pháp chính
sách đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho thanh niên thành phố Đà Nẵng . 54
KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN ..................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Bộ LĐ-TB&XH

: Bộ Lao động – Thương binh và xã hội

CN

: Công nghiệp

CNH – HĐH

: Công nghiệp hóa – hiện đại hóa

CSDN

: Chính sách doanh nghiệp

ĐTN


: Đào tạo nghề

GDNN

: Giáo dục nghề nghiệp

KT – XH

: Kinh tế - xã hội



: Lao động

LĐ – VL

: Lao đông – việc làm

LĐTN

: Lao động thanh niên

NN

: Nông nghiệp

NXB

: Nhà xuất bản


Sở LĐ-TB&XH

: Sở Lao động - Thương binh và xã hội

THCS

: Trung học cơ sở

TN

: Thanh niên

TP

: Thành phố

UBND

: Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới và hơn 25 năm thực
hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(năm 1991), Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn, hết sức quan
trọng trong việc xây dựng và phát triển đất nước. Cũng trong quá trình đó,
Việt Nam đã từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới với việc gia nhập
các tổ chức thương mại: WTO, ASEAN, ASEM…Tất cả những chuyển động

đó, thực sự đã mang lại nhiều thời cơ và thách thức đối với sự phát triển của
đất nước.
Theo báo cáo của tổng cục Thống kê, dân số của nước ta năm 2016 là
92,70 triệu người, tăng 987,8 nghìn người, tương đương tăng 1,08% so với
năm 2015. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi đã qua đào tạo năm 2016 ước tính
đạt 20,6%, cao hơn mức 19,9% của năm trước. Năng suất lao động xã hội
của toàn nền kinh tế năm 2016 theo giá hiện hành ước tính đạt 84,5 triệu
đồng/lao động.
Về lực lượng lao động, lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước năm 2016
ước tính là 54,4 triệu người, tăng 455,6 nghìn người so với năm 2015. Lực
lượng lao động trong độ tuổi lao động ước đạt 47,7 triệu người, tăng 275,9
nghìn người so với năm trước. Lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc trong
các ngành kinh tế năm 2016 khoảng 53,3 triệu người, tăng 451,1 nghìn người
so với năm 2015. Trong tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc năm
2016, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 41,9%; khu vực công
nghiệp và xây dựng chiếm 24,7%; khu vực dịch vụ chiếm 33,4%. Lao động từ
15 tuổi trở lên đang làm việc năm 2016 khu vực thành thị chiếm 31,9%; khu
vực nông thôn chiếm 68,1%.

1


Theo ước tính, số người có việc làm trong quý I năm 2016 là 53,3 triệu
người, tăng 861,8 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; quý II là 53,2 triệu
người, tăng 708,7 nghìn người; quý III là 53,3 triệu người, tăng 104,6 nghìn
người; quý IV là 53,4 triệu người, giảm 96,2 nghìn người. Ngược lại với số
lao động có việc làm, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi năm 2016 là
2,30%, trong đó khu vực thành thị là 3,18%; khu vực nông thôn là 1,86%. Tỷ
lệ thất nghiệp của thanh niên năm 2016 là 7,34%, trong đó khu vực thành thị
là 11,30%; khu vực nông thôn là 5,74%. Cùng với số lao động thất nghiệp, tỷ

lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi lao động năm 2016 là 1,64%,
trong đó khu vực thành thị là 0,73%; khu vực nông thôn là 2,10%. Bên cạnh
đó, tỷ lệ động có việc làm phi chính thức ngoài hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản
năm 2016 ước tính là 55,9%.
Ngoài ra, hằng năm lại có thêm gần 1 triệu TN đến tuổi bổ sung vào lực
lượng LĐ. Đây là lực lượng LĐ dồi dào và năng động, đem lại nhiều cơ hội
cho Việt Nam trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế, có vai trò quan
trọng trong quá trình thực hiện sự nghiệp CNH - HĐH đất nước và sự ổn định
chính trị của đất nước. Song thực tế hiện nay, lực lượng LĐTN chưa được đào
tạo và bồi dưỡng kiến thức về nghề nghiệp còn nhiều. Chất lượng của nguồn
nhân lực vốn được xem là khâu then chốt để nâng cao tính bền vững của nền
kinh tế, của phát triển xã hội vẫn còn nhiều hạn chế hay đúng hơn là vẫn chưa
đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập.
Không những thế, việc sử dụng lao động đã được đào tạo cũng đang còn khá
nhiều bất cập. Tình trạng "thừa thầy thiếu thợ" đang tồn tại khá lâu vẫn chưa
có giải pháp xử lý…Việc học nghề - từ sơ cấp, trung cấp và cao đẳng xong
cũng rất khó tìm được việc làm, nếu có thì thu nhập cũng ở mức rất thấp...
ĐTN và tạo việc làm cho TN là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, các cấp,
các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng và phát huy vai trò của lao

2


động nói chung và LĐTN nói riêng. Chính sách ĐTN và giải quyết việc làm
từ lâu đã được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và coi đó là một nhiệm
vụ quan trọng trong chiến lược phát triển KT-XH các giai đoạn vừa qua. Nghị
quyết số 25-NQ/TW ngày 25/7/2008, Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành
Trung ương khóa X “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
TN thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH” đã xác định: “Nâng cao chất lượng LĐ trẻ,
giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho TN” là nhiệm vụ

cần được đặc biệt quan tâm. Cùng với đó, các cơ quan có thẩm quyền từ
Trung ương đến các địa phương đã ban hành hàng loạt chính sách, văn bản
quy phạm pháp luật- chứa đựng trong đó các giải pháp cụ thể để tổ chức thực
hiện chủ trương chung của Đảng và Nhà nước về đào tạo nghề, giải quyết
việc làm cho lao động cả nước nói chung, thanh niên nước ta nói riêng. Nhờ
đó, hoạt động đào tạo nghề, giải quyết việc làm trong cả nước đã có nhiều
chuyển biến tích cực.
Trong xu hướng chung đó, thời gian qua Đảng bộ, chính quyền thành
phố Đà Nẵng đã có nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp trong đào tào
nghề, giải quyết việc làm cho người lao động nói chung, lực lượng trẻ nói
riêng, xem đó như những nội dung, phương thức để xây dựng và phát huy vai
trò của nguồn nhân lực nói chung, lực lượng lao động có tay nghề nói riêng
tham gia vào việc thực hiện các chương trình phát triển kinh tế- xã hội của
Thành phố. Trên thực tế, các chính sách này khi triển khai thực hiện trở thành
một trong những động lực góp phần đưa Đà Nẵng cùng cả nước hội nhập và
phát triển.Tuy nhiên, việc xây dựng và phát huy nguồn nhân lực nói chung,
nguồn nhân lực có chất lượng cao – khâu đột phá trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội trên địa bàn Thành phố hiện nay và sắp tới vẫn còn những bất
cập, vướng mắc. Trong đó, xác lập – xây dựng, ban hành những chính sách
đồng bộ để phát huy hơn nữa vai trò lực lượng lao động trẻ đã qua đào tạo là

3


một trong những ưu tiên cần được đầu tư nghiên cứu, giải quyết ở nhiều cấp
độ khác nhau của toàn Thành phố.
Đề tài “Giải pháp chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm cho thanh
niên từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” hy vọng cung cấp một cách tiếp cận và
một số nội dung đáp ứng yêu cầu bức thiết nói trên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Việc làm và đào tạo nghề là chủ đề thu hút sự quan tâm từ lâu của Đảng,
Nhà nước ta. Cũng vì thế nó trở thành yêu cầu – đơn đặt hàng cho các hoạt
động nghiên cứu của các trung tâm nghiên cứu, giới nghiên cứu trong cả
nước. Đối với lao động thanh niên, kể từ khi Quyết định 103 của Ban Bí thư
Trung ương Đoàn về phê duyệt Đề án “Hỗ trợ thanh niên học nghề và tạo việc
làm giai đoạn 2008-2015” được ban hành, ĐTN, tạo việc làm cho TN càng
nhận được nhiều sự quan tâm của các ngành, các cấp chính quyền địa phương
trong cả nước.Trong nghiên cứu, nhiều năm qua đã xuất hiện khá nhiều công
trình khoa học - với nhiều cấp độ được đăng tải. Trong đó, có thể kể đến một
số công trình tiêu biểu mà chúng tôi được tiếp cận:
 Từ góc độ chung có:
Phạm Thành Nghị và Vũ Hoàng Ngân (2004): Quản lý nguồn nhân lực ở
Việt Nam: một số vấn đề lý luận và thực tiễn. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội;
Phạm Lan Hương (2010): Các vấn đề về quan hệ lao động trong bối cảnh Việt
Nam hội nhập kinh tế quốc tế, Lao động và xã hội, (386); Trung tâm Quốc gia
Dự báo và Thông tin thị trường lao động, Cục Việc làm, Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội: Xu hướng việc làm Việt Nam 2010, Hà Nội, tháng
10/2010; Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Bộ Lao động, Thương binh và
Xã hội: Báo cáo xu hướng lao động và xã hội thời kỳ 2000-2010,Hà Nội,
tháng 3/2011; Lưu Quang Tuấn: Lao động-việc làm năm 2011 và triển vọng
năm 2012, Viện Khoa học lao động và xã hội, , 2012; Trần

4


Việt Tiến: Chính sách việc làm ở Việt Nam: Thực trạng và định hướng hoàn
thiện, Tạp chí Kinh tế phát triển số 181, tháng 7/2012; Pháp luật lao động về
việc làm và giải quyết việc làm ở Việt Nam thời kỳ hội nhập của Đinh Thị Nga
Phượng tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011..
Về ĐTN nói chung và cho ĐTN cho thanh niên nói riêng, hiện nay có các

công trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả sau:
Nguyễn Thị Vân Hạnh (2006), Hoạt động đào tạo nghề cho thanh niên
trong điều kiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, Đại học quốc gia Hà
Nội; Đặng Cảnh Khanh, Phạm Bằng, Một số vấn đề về lao động và việc làm
của thanh niên hiện nay, Nghiên cứu
giải pháp chủ yếu nhằm tạo việc làm cho thanh niên nông thôn huyện Thái
Thụy, tỉnh Thái Bình, luận văn thạc sĩ kinh tế của Bùi Đức Hồng. Trường đại
học Nông nghiệp Hà Nội, năm 2009; Quản lý Nhà nước về công tác đào tạo
nghề cho thanh niên ở tỉnh Phú Thọ của Nguyễn Thị Hoài Lan, tại Học viện
Hành chính, năm 2012; Thực trạng và nhu cầu việc làm của thanh niên nông
thôn hiện nay từ góc nhìn công tác xã hội (nghiên cứu trường hợp tại xã Thụy
Dương huyện Thái Thụy tỉnh Thái Bình) của Mai Thị Ngọc Anh. Trường Đại
học Khoa hoc Xã hôị và Nhân văn – Đaị học Quốc gia Hà Nội. 2014…
- Việc đánh giá, phân tích chính sách ở thành phố Đà Nẵng, trong các
báo cáo tổng kết quá trình xây dựng và phát triển Thành phố của các cơ quan
có thẩm quyền ở các ngành nói riêng, của hệ thống chính trị các cấp nói
chung, gián tiếp hay trực tiếp cũng đã đề cập một số nội dung mang ý nghĩa
tổng kết thực tiễn. Đặc biệt từ ngày chia tách và trở thành thành phố trực
thuộc Trung ương (1997 đến nay), Đà Nẵng là một trong những thành phố tạo
được các dấu ấn nhất định trong đổi mới cách nghĩ, cách làm để phát
triển...Có l đó là lý do thu hút các nhà hoạch định chính sách, các nhà khoa

5


học để tâm nghiên cứu, đúc kết kinh nghiệm và khái quát những nội dung có
tính lý luận về phân tích chính sách nói chung. Trong đó, có thể nêu các công
trình tiêu biểu có liên quan đến chủ đề nghiên cứu như sau:
- “Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở tại thành phố Đà Nẵng- kết quả và
những vấn đề đặt ra”. Tạp chí Cộng sản, Số 20/ 10.20005 và “Để một quyết

sách chính trị đi vào cuộc sống”. Tạp chí Đà Nẵng Ngày nay. Số 12-2005 của
tác giả Hồ Tấn Sáng;
- “Đánh giá mức độ hài lòng về dịch vụ hành chính công tại thành phố
Đà Nẵng: tình hình thực hiện và một số kiến nghị”.Tạp chí Sinh hoạt lý luận.
Số 1(98).2010 của Lê Dân;
- Phương pháp xếp hạng “Chỉ số hài lòng của người dân đối với chất
lượng cung ứng dịch vụ” của các quận, huyện trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng. Tạp chí Phát triển kinh tế-xã hội Đà Nẵng. Số 21/2011 của các tác giả
ng Nguyên Chương và Trần Như Quỳnh;
Đặc biệt công trình: Phân tích chính sách công ở Việt Nam (qua khảo sát
một số quận, huyện ở thành phố Đà Nẵng), Nhà xuất bản Chính trị quốc giaSự thật, HN, 2014 của hai tác giả Hồ Tấn Sáng và Nguyễn Thị Tâm đã đề cập
tương đối khái quát lý luận về phân tích chính sách công cũng như vận dụng
lý luận đó để đánh giá chất lượng, hiệu lực và hiệu quả của quá trình chính
sách, thực thi chính sách ở thành phố Đà Nẵng…
Điểm chung của các công trình này là đã đề cập tương đối toàn diện
những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến chủ đề Chính sách công. Về
phương diện thực tiễn, đáng chú ý là các tổng kết hàng năm của các cấp chính
quyền trong đó chỉ ra những việc làm được và các vấn đề còn bất cập trong
công các ĐTN, giải quyết việc làm; đồng thời nêu lên cách thức để mảng
công việc trên ngày càng có hiệu quả thiết thực.
Tuy nhiên, những công trình đã công bố chủ yếu được tiếp cận tương đối

6


rộng, chưa thật chuyên sâu, nhất là những vấn đề liên quan đến giải pháp
chính sách đào tạo nghề, tạo việc làm cho lực lượng thanh niên ở thành phố
Đà Nẵng.
Vì thế, có thể xem nội dung luận văn của chúng tôi thực hiện là một
trong những đóng góp vào mảng còn thiếu nhưng có ý nghĩa thiết thực đối với

Đà Nẵng hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Xác lập khung lý luận và thực tiễn về giải pháp chính sách ĐTN, tạo
việc làm đối với TN. Trên cơ sở đó để đánh giá thực trạng, đề xuất những nội
dung góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực của các giải pháp chính sách
ĐTN, tạo việc làm cho TN tại thành phố Đà Nẵng đến năm 2025.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về giải pháp
chính sách ĐTN, tạo việc làm cho TN ở Việt Nam hiện nay;
- Phân tích, đánh giá các giải pháp chính sách ĐTN, tạo việc làm cho
TN tại thành phố Đà Nẵng;
- Đề xuất nội dung góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giải pháp
chính sách ĐTN, tạo việc làm cho TN thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những khía cạnh liên quan đến giải pháp chính sách ĐTN, tạo việc làm
cho TN tại thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Các điều tra về số liệu, dữ liệu từ năm 2011 đến nay và
định hướng cho thời kỳ tiếp theo.
- Về không gian: Địa bàn thành phố Đà Nẵng.

7


5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin; quán triệt các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà

nước về thành niên, giáo dục, đào tạo và chính sách đào tạo nghề, tạo việc
làm cho thanh niên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng các phương pháp: Phân tích, tổng hợp, thống kê, so
sánh, đối chiếu.
- Phân tích tài liệu (các tài liệu thống kê, điều tra về đào tạo nghề và tạo
việc làm của thanh niên trên địa bàn thành phố Đà Nẵng).
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm rõ thêm khung lý luận và những vấn đề thực tiễn
đặt ra liên quan đến giải pháp chính sách ĐTN và giải quyết việc làm cho
thanh niên nói chung, thanh niên thành phố Đà Nẵng nói riêng.
6.1. Ý nghĩa thực tiễn
- Có thể làm nguồn tham khảo cho các cấp lãnh đạo quản lý để chỉ đạo,
hoạch định và thực hiện chính sách ĐTN, giải quyết việc làm cho thanh niên
phù hợp trong điều kiện cụ thể của từng địa phương
- Nhằm cung cấp thêm tài liệu cho các chủ thể quan tâm tham khảo
nghiên cứu về chính sách ĐTN và giải quyết việc làm cho thanh niên.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu gồm 3 chương với các tiêu đề như sau:
Chương 1: Giải pháp chính sách đào tạo nghề, tạo việc làm cho thanh
niên ở Việt Nam - cơ sở lý luận và thực tiễn.

8


Chương 2: Thực trạng giải pháp chính sách đào tạo nghề, giải quyết việc
làm cho thanh niên ở thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Nâng cao chất lượng giải pháp chính sách đào tạo nghề, tạo

việc làm cho thanh niên thành phố Đà Nẵng giai đoạn hiện nay.

9


CHƢƠNG 1
GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ TẠO VIỆC
LÀM CHO THANH NIÊN Ở VIỆT NAM - CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN
1.1. Một số vấn đề lý luận
1.1.1. Các khái niệm công cụ
1.1.1.1. Thanh niên
Thanh niên là một thuật ngữ được sử dụng tương đối phổ biến trong đời
sống xã hội cũng như trong các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Do còn
có quan niệm khác nhau về thanh niên, nên hiện tại nội hàm của khái niệm độ tuổi, vị trí, vai trò, quyền, nghĩa vụ..., không hoàn toàn giống nhau.
Ở Việt Nam, Điều 1, Luật Thanh niên (2005) xác định: TN là công dân
Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi. Điều 3 của Luật chỉ rõ: TN có các quyền,
nghĩa vụ của công dân theo quy định của Hiến pháp, pháp luật và các quyền,
nghĩa vụ theo quy định của Luật. TN không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành
phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp đều được tôn
trọng và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. TN là tương lai của đất nước, là lực
lượng xã hội hùng hậu, có tiềm năng to lớn, xung kích trong công cuộc xây
dựng vào bảo vệ Tổ quốc (Điều 4 Luật TN).[21]
Mục 2, Điều 1.Điều lệ Đoàn TN Cộng sản Hồ Chí Minh (Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X Đoàn TNCS Hồ Chí Minh thông qua ngày
12/12/2012) cũng quy định: Thanh niên Việt Nam tuổi từ 16 đến 30, tích cực
học tập, lao động và bảo vệ Tổ quốc, được tìm hiểu về Đoàn và tán thành
Điều lệ Đoàn, tự nguyện hoạt động trong một tổ chức cơ sở của Đoàn, có lý
lịch rõ ràng đều được xét kết nạp vào Đoàn.
Điều 6, mục 1, Điều lệ Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam (sửa đổi, bổ


10


sung năm 2010) cũng quy định: Công dân Việt Nam từ 16 đến 30 tuổi tán
thành Điều lệ Hội, tự nguyện gia nhập Hội thì được xét công nhận là hội viên
Hội LHTN Việt Nam.[21, tr.5]
Trong điều tra LĐ - VL hàng năm của Bộ LĐ-TB&XH, nhóm lao động
thanh niên thường được xác định từ đủ tuổi 15 đến hết tuổi 34.
Dưới góc độ khác, TN được hiểu là một nhóm xã hội đặc thù, bao gồm
những người trong độ tuổi từ 18 đến 30, có quan hệ gắn bó mật thiết với mọi giai
cấp, tầng lớp xã hội, có mặt trong mọi lĩnh vực hoạt động xã hội, có vai trò to
lớn trong hiện tại và giữ vai trò quản lý sự phát triển tương lai của xã hội.
Điều 3, mục 1, Luật Lao động Việt Nam (2012 ) giải thích: Người lao
động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp
đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người sử
dụng lao động. Luật cũng quy định về độ tuổi của người lao động. Theo đó,
đối với nam hết tuổi 60 và đối với nữ hết tuổi 55 được coi là hết tuổi LĐ. Do
đó, tất cả những người đủ 15 và hết tuổi 59 đối với nam và hết 54 đối với nữ
được coi là người trong độ tuổi LĐ. [23]
Từ những phân tích nêu trên, lực lượng thanh niên giới hạn đối tượng
nghiên cứu trong đề tài này là những người LĐ trong độ tuổi từ đủ 15 đến hết
34 tuổi.
1.1.1.2. Chính sách công
Ở Việt Nam, thuật ngữ chính sách công còn tương đối mới mẻ. Cho
đến nay, chung quanh khái niệm này còn có nhiều cách hiểu, các quan
niệm khác nhau.
Trong thực tế, thông thường chúng ta vẫn quen dùng các cụm từ đồng
nghĩa: Chính sách của Nhà nước hoặc chính sách của Đảng và Nhà nước, vì ở
nước ta, Đảng Cộng sản là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo Nhà nước,

lãnh đạo xã hội. Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc vạch ra đường lối,

11


chiến lược, các định hướng chính sách, đó chính là những căn cứ chỉ đạo để
Nhà nước ban hành các chính sách công. [35]
Như vậy về thực chất, chính sách công là chính sách do Nhà nước ban
hành, và đương nhiên ở Việt Nam, các chính sách này là sự cụ thể hóa đường
lối, chiến lược - các định hướng chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam,
nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội – phát triển đất
nước, phục vụ lợi ích của các tầng lớp nhân dân.
Với tư cách là sản phẩm có mục đích của nhà nước, có thể chia sẻ với
các cách quan niệm:“Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước
một cách trực tiếp hay gián tiếp, đều ảnh hưởng đến cuộc sống của mọi công
dân”; hoặc “Chính sách công là chương tr nh hành động hướng đích của chủ
th n m hoặc chi phối quyền lực công cộng- tức quyền lực nhà nước”.
Về cấu trúc, chính sách công gồm nhiều quyết định (luật, quy phạm pháp
luật…) có liên quan lẫn nhau. Đó là một chuỗi các quyết định cùng hướng
vào việc giải quyết một vấn đề nãy sinh từ thực tiễn, do một hay nhiều cấp
khác nhau trong bộ máy nhà nước ban hành và thực thi trong một thời gian
dài và nó có tính lịch sử cụ thể.
Đặc điểm của chính sách công là không có chính sách công chung cho
mọi thời đại, mọi giai đoạn, mà nó luôn phải gắn với từng thời kỳ và từng giai
đoạn lịch sử - cụ thể, với những phạm vi nhất định.“…một chính sách công có
hoàn chỉnh đến mấy cũng cần cần quan sát, điều chỉnh cho phù hợp với sự
thay đổi của điều kiện áp dụng”.
1.1.1.3. Giải pháp chính sách công
Cho đến nay theo chúng tôi tìm hiểu, vẫn chưa có một định nghĩa cụ thể
nào về giải pháp chính sách nói chung, giải pháp chính sách công nói riêng.

Tuy nhiên, từ nội dung, yêu cầu, quy trình xây dựng chính sách công, và
những vấn đề đặt ra trong việc bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả của chính

12


sách, phải chăng có thể chia sẻ với quan niệm của J.Dewey khi phân chia quá
trình hoạch định chính sách thành năm giai đoạn: Cảm nhận tình huống có
vấn đề, xác định vấn đề, hình thành các giải pháp, xem xét các khía cạnh của
giải pháp và lựa chọn một giải pháp rồi thực hiện.
Từ cách tiếp cận trên, có thể hiểu: Giải pháp chính sách công là một
phức hợp những lựa chọn về hành động, cách tác động có liên quan nhằm
hiện thực hoá mục tiêu, yêu cầu của một chính sách xác định.
Chẳng hạn, giải pháp chính sách phát triển nông thôn ở Việt Nam là tập
hợp các chủ trương và hành động của chính phủ nhằm tạo cho nông thôn phát
triển bằng cách tác động vào việc cung cấp các yếu tố đầu vào (đất đai, lao
động, vốn, cơ sở hạ tầng), tác động tới giá đầu vào hay giá đầu ra trong nông
thôn, tác động về việc thay đổi tổ chức, trong đó thị trường đầu vào và cả đầu
ra được thực hiện, tác động vào chuy n giao công nghệ…
Nói cách khác, giải pháp chính sách công là tổng hợp các hoạt động của
các cấp độ chủ thể cầm quyền, trực tiếp hoặc gián tiếp có ảnh hưởng tới toàn
bộ hoạt động và đời sống của công dân, bao gồm các quyết định về cách thức,
công cụ, biện pháp để thực hiện các mục tiêu chính sách.
1.1.1.4. Đào tạo nghề, tạo việc làm cho thanh niên và giải pháp chính
sách đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho thanh niên
Từ dẫn luận trên, có thể hiểu: Giải pháp chính sách đào tạo nghề, giải
quyết việc làm cho thanh niên là một bộ phận hợp thành trong hệ thống chính
sách công.
Ở Việt Nam, Nhà nước là chủ thể ban hành chính sách công, mục đích
của các chính sách đó vừa hướng tới bảo đảm lợi ích- thoả mãn nhu cầu chính

đáng của đa số, vừa thể hiện vai trò của nhà nước trong việc chăm lo cho xã
hội. Khi Nhà nước ban hành các quyết định để thực hiện mục tiêu tổng quát
về phát triển KT – XH, tất nhiên các chủ thể có thẩm quyền phải tính tới các

13


giải pháp đ phát huy vai trò của con người trong việc thực hiện các quyết
định đó. Bởi l , nhân lực luôn là nguồn lực có ý nghĩa quyết định quá trình
vận động, phát triển đời sống kinh tế - xã hội. Nói cách khác, giải pháp chính
sách đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho thanh niên là bộ phận hợp thành
hay một phân hệ trong các giải pháp chính sách phát triển kinh tế- xã hội của
nhà nước.
Để xác định nội hàm khái niệm giải pháp chính sách đào tạo nghề, giải
quyết việc làm cho thanh niên nói riêng và người lao động nói chung, cần
phải thống nhất về nội hàm các khái niệm có liên quan, trong đó, bao gồm:
a. Nghề, đào tạo nghề và các h nh thức đào tạo nghề
* Nghề:
Có rất nhiều khái niệm về nghề được đưa ra song chưa được thống nhất,
chẳng hạn có khái niệm được nêu: "Nghề là một tập hợp LĐ do sự phân công
LĐ xã hội quy định mà giá trị của nó trao đổi được". [22] Nghề mang tính
tương đối, nó phát sinh, phát triển hay mất đi do trình độ của nền sản xuất và
nhu cầu xã hội. Mặc dù khái niệm nghề được hiểu dưới nhiều góc độ khác
nhau song chúng ta có thể nhận thấy một số nét đặc trưng nhất định sau:
+ Đó là hoạt động, là công việc về LĐ của con người được lặp đi lặp lại.
+ Là sự phân công LĐ xã hội, phù hợp với yêu cầu xã hội.
+ Là phương tiện để sinh sống.
+ Là LĐ kỹ năng, kỹ xảo chuyên biệt có giá trị trao đổi trong xã hội đòi
hỏi phải có một quá trình đào tạo nhất định.
* Đào tạo nghề (dạy nghề)

Hiện nay, thuật ngữ “dạy nghề” hoặc “ĐTN” được dùng rất phổ biến, đã
có truyền thống, điều này cũng phù hợp với tình hình thực tế đất nước, xã hội
đòi hỏi cần phải nhấn mạnh vai trò to lớn của ĐTN, trước yêu cầu đào tạo
nguồn nhân lực trực tiếp LĐ sản xuất có tay nghề, đáp ứng yêu cầu phát triển

14


KT - XH. Hơn nữa, cụm từ “ĐTN” thực chất là viết gọn của cụm từ “giáo dục
kỹ thuật và dạy nghề" đã được sử dụng ở nền giáo dục nước nhà từ lâu đời và
rất quen thuộc với nhà giáo trong hệ thống giáo dục.
Theo Điều 3, Luật giáo dục nghề nghiệp (2014) thì ĐTN là: “Hoạt động
dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết
cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi
hoàn thành khoá học hoặc để nâng cao trình độ nghề nghiệp”. [22]
Như vậy, ĐTN có những đặc trưng cơ bản sau:
- ĐTN bao gồm hai quá trình có quan hệ hữu cơ với nhau, đó là:
+ Dạy nghề: “Là quá trình giáo viên truyền bá những kiến thức về lý
thuyết và thực hành để các học viên có được một trình độ, kỹ năng, kỹ xảo, sự
khéo léo, thành thục nhất định về nghề nghiệp”.
+ Học nghề: “Là quá trình tiếp thu những kiến thức về lý thuyết và thực
hành của người LĐ để đạt được một trình độ nghề nghiệp nhất định”.
- ĐTN cho TN là giáo dục kỹ thuật sản xuất cho TN để họ nắm vững
nghề nghiệp, chuyên môn bao gồm ĐTN mới, ĐTN bổ sung, đào tạo lại nghề.
Như vậy, xác định rõ ranh giới giữa đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại
nghề hiện nay là một việc phức tạp, khó khăn.
* Các h nh thức đào tạo nghề
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của ĐTN là xác định các hình
thức đào tạo thích hợp. Hình thức ĐTN là cơ sở để xây dựng kế hoạch ĐTN,
đồng thời cũng là cơ sở để tính toán hiệu quả của ĐTN. Tùy theo yêu cầu và

điều kiện thực tế có thể áp dụng hình thức đào tạo này hay hình thức đào tạo
khác, những hình thức ĐTN đang được áp dụng chủ yếu hiện nay là:
- Kèm cặp trong sản xuất: Là hình thức đào tạo trực tiếp tại nơi làm việc,
chủ yếu thực hành ngay trong quá trình sản xuất. Kèm cặp trong sản xuất
được tiến hành dưới hai hình thức: kèm cặp theo cá nhân và kèm cặp theo tổ

15


chức, đội sản xuất. Với kèm cặp theo cá nhân, mỗi người học nghề được một
công nhân giỏi, thợ giỏi hoặc người có trình độ tay nghề cao hướng dẫn
(Người hướng dẫn). Người hướng dẫn vừa sản xuất vừa tiến hành dạy nghề
theo kế hoạch. Với hình thức kèm cặp theo tổ, đội sản xuất, người học nghề
được tổ chức thành từng tổ và phân công cho những người hướng dẫn dạy
nghề thoát ly sản xuất chuyên trách trình độ nghề nghiệp và phương pháp sư
phạm nhất định. Quá trình đào tạo được tiến hành qua các bước:
+ Bước 1: Người hướng dẫn vừa sản xuất vừa hướng dẫn người học nghề.
+ Bước 2: Giao việc làm thử, người học nghề bắt tay vào làm thử dưới
sự kiểm tra uốn nắn của người hướng dẫn.
+ Bước 3: Giao việc cho người học nghề khi người học nghề có thể tiến
hành công việc độc lập được, người hướng dẫn vẫn thường xuyên theo dõi
giúp đỡ.
- H nh thức mở các lớp trong doanh nghiệp, cơ sở sản xuất: Là các lớp
do doanh nghiệp hoặc cơ sở sản xuất tổ chức nhằm đào tạo riêng cho mình
hoặc cho các doanh nghiệp, cơ sở xuất cùng ngành, cùng lĩnh vực. Chủ yếu
ĐTN cho công nhân mới được tuyển dụng, đào tạo lại nghề, nâng cao tay
nghề, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật mới. Hình thức đào tạo này không đòi
hỏi có đầy đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật riêng, không cần bộ máy chuyên trách
mà dựa vào các điều kiện sẵn có của doanh nghiệp. Chương trình đào tạo gồm
hai phần: lý thuyết và thực hành sản xuất, phần lý thuyết được giảng tập trung

do các kỹ sư, cán bộ kỹ thuật phụ trách, phần thực hành được tiến hành ở các
phân xưởng, cơ sở sản xuất do các kỹ sư hoặc công nhân lành nghề hướng
dẫn cho người học nghề
- H nh thức đào tạo ở các trường chính qui: Đáp ứng yêu cầu sản xuất
ngày càng phát triển trên cơ sở kỹ thuật hiện đại, các Bộ hoặc Ngành thường
tổ chức dạy nghề tập trung, qui mô lớn, đào tạo công nhân có trình độ cao,

16


chủ yếu là đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật, kỹ thuật viên có trình độ cao.
Thời gian đào tạo tùy theo nghề đào tạo và trình độ đào tạo, ra trường được
cấp bằng nghề, chứng chỉ nghề. Khi tổ chức các trường dạy nghề cần phải có
bộ máy quản lý, đội ngũ giáo viên chuyên trách và cơ sở vật chất riêng cho
đào tạo. Để nâng cao chất lượng đào tạo các trường cần phải đảm bảo các
điều kiện sau đây:
+ Phải có đội ngũ giáo viên đủ khả năng chuyên môn và kinh nghiệm
giảng dạy.
+ Phải được trang bị máy móc, thiết bị phục vụ cho giảng dạy và học tập,
các phòng thí nghiệm, xưởng trường. Nhà trường cần tổ chức các phân xưởng
sản xuất vừa phục vụ cho giảng dạy vừa sản xuất của cải vật chất cho xã hội.
Nếu không có điều kiện tổ chức xưởng sản xuất thì nên để gần các doanh
nghiệp lớn của ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho dạy và học. Các tài liệu và
sách giáo khoa phải được biên soạn thống nhất cho các nghề, các trường.
b. Việc làm và phân loại
* Việc làm
Theo Luật Lao động Việt Nam (sửa đổi, bổ sung năm 2007) thì: "Mọi
hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được
thừa nhận là việc làm".[23]
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thì việc làm chỉ đề cập đến

trong mối quan hệ với lực lượng lao động. Vì vậy, “việc làm được coi là
hoạt động có ích mà không bị pháp luật ngăn cấm có thu nhập bằng tiền
(hoặc bằng hiện vật)”.
Theo giáo trình Kinh tế nguồn nhân lực của Khoa Kinh tế và Quản lý
nguồn nhân lực - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, việc làm được
hiểu là:“... trạng thái phù hợp về số lượng và chất lượng giữa tư liệu sản xuất
với sức lao động, để tạo ra hàng hóa theo yêu cầu của thị trường”.

17


Từ các khái niệm trên, có thể thấy việc làm có những đặc trưng sau:
+ Về mặt pháp lý: việc làm phải hợp pháp, phải chịu sự điều chỉnh của
pháp luật về độ tuổi, về những ngành nghề được làm và không được làm.
+ Về mặt kinh tế: việc làm phải đáp ứng lợi ích kinh tế của người lao động,
người sử dụng lao động và đóng góp cho tăng trưởng và phát triển quốc tế.
+ Về chính trị: việc làm thể hiện rõ những quan điểm, đường lối lãnh đạo
của giai cấp cầm quyền.
+ Về xã hội: việc làm phải phù hợp với truyền thống văn hoá, đạo đức,
phong tục tập quán, công bằng xã hội.
+ Về mặt cá thể: việc làm thể hiện những tri thức, năng lực, phẩm chất
của người lao động khi tham gia việc làm ở những ngành cụ thể.
Như vậy, việc làm là một phạm trù kinh tế - xã hội, việc làm chịu sự chi
phối của nhiều mối quan hệ. Quan niệm đúng về việc làm là cơ sở khoa học
để tạo việc làm cho người lao động.
 Phân loại việc làm
Có nhiều cách nhìn nhận và phân loại việc làm, nhưng cơ bản là đứng
trên góc độ chủ thể hoạt động của việc làm là người lao động, thanh niên.
Những hoạt động của người lao động thể hiện hình thức, tính chất, đặc điểm,
yêu cầu và cả xu hướng của việc làm. Việc làm vì thế có thể phân loại theo

chủ thể hoạt động lao động là người lao động và chủ thể tạo việc làm trong
nền kinh tế.
Theo hoạt động của mỗi cá thể người lao động việc làm có thể chia ra
thành: việc làm chính, việc làm phụ. Việc làm chính là công việc mà người
thực hiện dành nhiều thời gian nhất so với công việc khác. Việc làm phụ là
công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất sau công việc chính.
Trong trường hợp việc làm chính và phụ có thời gian bằng nhau thì việc làm
nào có thu nhập cao hơn được xem là việc làm chính. Xét về tính chất việc

18


làm, việc làm có thể mang tính chất ổn định hay tạm thời. Việc làm ổn định
trong một năm đối với người lao động có thời gian làm việc từ 6 tháng trở lên.
Việc làm tạm thời là những công việc dưới 6 tháng.
Các nền kinh tế khác nhau có hình thức tổ chức khác nhau, nhưng thông
thường phân theo các tổ chức thuộc khu vực nhà nước, khu vực doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh, khu vực các tổ chức cộng đồng và khu vực có yếu tố
nước ngoài.
Theo phân loại của cuộc điều tra thực trạng việc làm và thất nghiệp hàng
năm của Bộ LĐ-TB&XH phân ra, việc làm trong các khu vực:
+ Khu vực hành chính: Cơ quan tổ chức hành chính nhà nước (các
bộ, ban, ngành ở trung ương, tỉnh, huyện, xã);
+ Khu vực sự nghiệp: Các đơn vị sự nghiệp (Giáo dục, y tế, văn hóa,
thông tin, truyền hình, thể thao v.v.) gồm cả công lập, bán công, tư thục và
dân lập;
+ Khu vực cộng đồng: các cơ quan đảng, đoàn, tổ chức chính trị, các
hiệp hội;
+ Khu vực sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp trong nước: các doanh
nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp

danh và doanh nghiệp tư nhân;
+ Khu vực hợp tác xã: hiện đang hoạt động theo luật hợp tác xã;
+ Khu vực kinh tế hộ: kinh tế cá thể, hộ gia đình;
+ Khu vực có yếu tố nước ngoài: việc làm trong các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài và trong các cơ quan, tổ chức và cá nhân nước ngoài khác.
Trên thực tế, việc làm được thừa nhận dưới 3 hình thức:
- Làm công việc để nhận được tiền lương, tiền công hoặc hiện vật cho
công việc đó
- Làm công việc để thu lợi cho bản thân, mà bản thân lại có quyền sử

19


dụng hoặc quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ tư liệu sản xuất để tiến hành
công việc đó
- Làm các công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao
dưới hình thức tiền lương, tiền công cho công việc đó. Hình thức này bao
gồm sản xuất nông nghiệp, hoạt động kinh tế phi nông nghiệp do chủ hộ hoặc
một thành viên khác trong gia đình có quyền sử dụng, sở hữu hoặc quản lý.
Ở Việt Nam, khái niệm việc làm đã được quy định tại Điều 13 của bộ
luật Lao động: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp
luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”. [23]
Tùy theo các mục đích nghiên cứu khác nhau mà người ta phân chia việc
làm ra thành nhiều loại.
Theo mức độ sử dụng thời gian làm việc, có việc làm chính và việc làm
phụ. Việc làm chính là công việc mà người thực hiện giành nhiều thời gian
nhất hoặc có thu nhập cao hơn so với công việc khác. Việc làm phụ là công
việc mà người thực hiện giành nhiều thời gian nhất sau công việc chính.
- Ngoài ra, người ta còn chia việc làm thành việc làm toàn thời gian, bán
thời gian, việc làm thêm.

+ Việc làm toàn thời gian: Chỉ một công việc làm 8 tiếng mỗi ngày, hoặc
theo giờ hành chính 8 tiếng mỗi ngày và 5 ngày trong tuần.
+ Việc làm bán thời gian: Mô tả công việc làm không đủ thời gian giờ
hành chính quy định của Nhà nước 8 tiếng mỗi ngày và 5 ngày mỗi tuần. Thời
gian làm việc có thể dao động từ 0.5 đến 5 tiếng mỗi ngày và không liên tục.
+ Việc làm thêm: Mô tả một công việc không chính thức, không thường
xuyên bên cạnh một công việc chính thức và ổn định.
Trong thời kỳ hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, Tổ chức lao động quốc
tế (ILO) còn khuyến cáo và đề cập tới việc làm nhân văn hay việc làm bền
vững. Từ những nội dung đã trình bày có thể hiểu: Chính sách đào tạo nghề,

20


×