Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Các giải pháp thúc đẩy sự tham gia của các trung gian tài chính trên TTCK Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.89 KB, 59 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:
Thị trường chứng khốn Việt Nam đã chính thức đưa vào vận hành
từ tháng 7/2000, đánh dấu bằng việc khai trương Trung tâm giao dịch
chứng khoán (TTGDCK) đầu tiên tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sự ra đời
của TTGDCK đã tạo ra một cơ chế linh hoạt trong thu hút và phân bổ các
nguồn vốn trung, dài hạn đến nơi sử dụng có hiệu quả, góp phần cùng với
hệ thống ngân hàng tạo nên một hệ thống cung ứng vốn cho sự nghiệp cơng
nghiệp hố và hiện đại hố đất nước. Tuy nhiên, việc đưa vào vận hành
TTGDCK chỉ mới là giai đoạn thử nghiệm trước khi chúng ta xây dựng
một Sở giao dịch chứng khốn hồn chỉnh với quy mơ hiện đại, vì vậy các
thiết chế vận hành, quy mô và đối tượng tham gia vào thị trường còn hạn
chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của một thị trường vốn đầy đủ. Đặc biệt là
sự tham gia của các trung gian tài chính vào thị trường chứng khốn cịn
nhiều hạn chế, đây là các định chế tài chính đã tồn tại và phát triển gần 50
năm và có quan hệ gần gũi và mật thiết với thể chế thị trường chứng khoán.
Mặc dù trong thời gian qua, các ngân hàng thương mại, tổ chức bảo hiểm
và tổ chức kiểm toán đã trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào cơ chế vận
hành của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, đây mới chỉ là sự khởi đầu,
hoạt động mang tính chất thăm dị, vì vậy trong q trình triển khai các
trubg gian này hoạt động không hiệu quả, chưa khẳng định được vị thế của
mình. Nhiều tổ chức ngân hàng và tài chính vẫn đứng ngồi cuộc chơi của
thị trường chứng khoán, bởi lẽ cơ chế vận hành và cách thức tham gia vào
thị trường như thế nào để phát huy hiệu quả vẫn là những trở ngại ban đầu
đối với các định chế này.
Xuất phát từ yêu cầu trên, đề tài: “Các giải pháp thúc đẩy sự tham
gia của các trung gian tài chính trên TTCK Việt Nam” là đề tài nghiên

1



cứu nhằm góp phần vào việc khẳng định vị thế của các trung gian tài chính
trong cơ cấu thị trường chứng khốn và đánh giá vai trị, khả năng tham gia
của các tổ chức ngân hàng-tài chính trong giai đoạn vừa qua, trên cơ sở đó
đề xuất các giải pháp thúc đẩy sự tham gia của các tổ chức này vào thị
trường chứng khoán Việt Nam.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Đề tài nghiên cứu nhằm mục đích:
- Nghiên cứu một số mơ hình các trung gian trên thị trường chứng
khốn quốc tế
- Đánh giá vai trị của các trung gian tài chính trong q trình phát
triển thị trường chứng khoán (giai đoạn ban đầu và phát triển sau này).
- Các nhân tố ảnh hưởng tới sự tham gia của các trung gian tài chính
- Các hoạt động của trung gian tài chính trên TTCK
- Đánh giá thực trạng của các trung gian tài chính Việt Nam và hiện
trạng tham gia của các định chế này vào thị trường chứng khốn.
- Các hình thức tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam của
các định chế ngân hàng và tài chính.
- Kiến nghị một số giải pháp tham gia.
3.Đối tượng nghiên cứu
Các hoạt động chính,các kết quả đạt được,sự tham gia của trung gian
tài chính từ khi TTCK Việt nam ra đời và đi vào hoạt động
4. Phạm vi của đề tài:
Xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu của đề tài, nên phạm nghiên cứu
chỉ đề cập đến một số trung gian tài chính hoạt động mang tính chất trung
gian trên thị trường chứng khốn, trong đó khía cạnh nghiên cứu tập trung đi
sâu vào các ngân hàng thương mại và một số trung gian tài chính khác tham
gia dưới hình thức cung ứng các dịch vụ tài chính đối với thị trường (mơi
giới, tư vấn, định mức tín nhiệm, bảo lãnh phát hành, kế toán, kiểm
2



tốn...vv), chứ khơng nghiên cứu dưới góc độ tạo lập hàng hoá cho thị
trường.
5.Kết cấu của đề tài
Tên đề tài “Các giải pháp thúc đẩy sự tham gia của các trung
gian tài chính trên TTCK Việt Nam”
Ngồi phấn mở đầu ,phần kết luận,danh mục tài liệu tham khảo.Đề
án gồm hai chương
- Chương I: Sự tham gia của trung gian tài chính vào TTCK
- ChươngII: Thực trạng và các giả pháp thúc đẩy sự tham gia của các
trung gian tài chính vào TTCK

3


CHƯƠNGI: SỰ THAM GIA CỦA CÁC TRUNG GIAN TÀI CHÍNH
VÀO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN(TTCK)
1- KHÁI NIỆM CHUNG VỀ CÁC TRUNG GIAN TÀI CHÍNH

1.1. Khái niệm trung gian tài chính
Trung gian tài chính là một doanh nghiệp mà tài sản chủ yếu của nó
là các tài sản tài chính hay cịn gọi là các hình thức trái quyền- như cổ
phiếu, trái phiếu và khoản cho vay- thay vì tài sản thực như nhà cửa, công
cụ và nguyên vật liệu. Trung gian tài chính cho khách hàng vay hoặc mua
chứng khốn đầu tư trong thị trường tài chính. Ngồi ra các định chế này
còn cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính khác, từ bảo hiểm và bán các
hợp đồng lương hưu, cho đến giữ hộ tài sản có giá và cung cấp một cơ chế
cho việc thanh toán, chuyển tiền và lưu trữ thơng tin tài chính.
1.2. Những trung gian tài chính chủ yếu
Những trung gian tài chính chủ yếu xuất hiện trong nền kinh tế thị

trường gồm có:
Ngân hàng thương mại
Hiệp hội tiết kiệm và các tổ chức tín dụng khác.
Cơng ty tài chính
Cơng ty chứng khốn
Cơng ty tư vấn tài chính
Cơng ty quản lý quỹ và các quỹ đầu tư (tương hỗ, hưu trí, phát triển).
Các tổ chức bảo hiểm
Các tổ chức kiểm toán độc lập
Các tổ chức định mức tín nhiệm.
Mặc dù các tổ chức tài chính thực hiện cùng lúc một chức năng cơ
bản giống nhau- chấp nhận chứng khoán sơ cấp từ chủ thể vay và phát hành
chứng khoán thứ cấp cho chủ thể cho vay, nhưng giữa chúng vẫn có sự

4


khác nhau. Một số có thể mang tên là các tổ chức trung gian tiền gửi, bởi
vì phần lớn những tài sản tài chính của họ (các nguồn quỹ có thể cho vay)
được tạo thành từ tiền gửi của các doanh nghiệp, hộ gia đình và các tổ chức
khác. Nhóm này bao gồm các ngân hàng thương mại, hiệp hội tiết kiệm và
các tổ chức tín dụng khác.
Các tổ chức trung gian quan trọng khác, mệnh danh là các tổ chức
trung gian hợp đồng, ký hợp đồng với khách hàng của họ để khuyến khích
tiết kiệm và/hoặc bảo vệ tài chính cho trường hợp mất mát tài sản và nhân
mạng. Trong số những tổ chức trung gian hợp đồng được biết đến nhiều
nhất là các công ty bảo hiểm tài sản và tai nạn, các quỹ lương hưu tư nhân
và dân chúng.
Một nhóm tổ chức trung gian thứ 3 thường được gọi là các tổ chức
trung gian thứ cấp bởi vì họ lệ thuộc rất nhiều vào những định chế tài chính

khác (như ngân hàng thương mại) về những quỹ có thể cho vay. Tiêu biểu
là các cơng ty tài chính và quỹ đầu tư địa ốc.
Một nhóm tổ chức trung gian tài chính khác được mệnh danh các tổ
chức trung gian đầu tư, bởi vì họ cung cấp cho dân chúng những chứng
khốn có thể giữ lại vơ hạn định, như là một khoản đầu tư dài hạn hoặc bán
đi nhanh chóng khi khách hàng thu hồi quỹ. Những tổ chức trung gian đầu
tư gồm có quỹ chứng khốn tương hỗ. Nói chung người ta thừa nhận rằng
các chu chuyển tiền nhập và xuất của những tổ chức trung gian chứng
khốn và hợp đồng có thể dự đốn dễ dàng hơn là các quỹ phải thông qua
những loại tổ chức trung gian tiền gửi. Điều này cho phép các tổ chức trung
gian chứng khoán và hợp đồng giảm thiểu những khoản đầu tư lưu hoạt
ngắn hạn và vươn tới những tài sản đầu tư dài hạn có mức sinh lợi cao hơn.
1.3. Vai trò của các trung gian tài chính trênTTCK
Các trung gian tài chính là một phần của hệ thống tài chính. Hệ
thống tài chính bao gồm một mạng lưới các thị trường tài chính, tiền tệ, các
5


định chế, các doanh nghiệp, công chúng và nhà nước tham gia trong hệ
thống đó và điều tiết hoạt động của nó.
Cầu nối tài chính giữa người cho vay và người sử dụng vốn.
Chức năng nền tảng của các trung gian tài chính là chuyển những
khoản tiền từ những người cho vay đến những người đi vay. Những tổ
chức, cá nhân có các khoản thu nhập dư thừa có thể cho các cá nhân, tổ
chức khác trong hệ thống tài chính vay. Các cá nhân, tổ chức và chính phủ
thiếu hụt vốn cho các khoản chi phí và đầu tư phát triển có thể vay, huy
động vốn thơng qua hệ thống tài chính. Hệ thống tài chính và các trung
gian tài chính là con kênh chuyển các khoản vốn các cá nhân, tổ chức dư
thừa vốn sang các cá nhân tổ chức thiếu vốn. Trong các nền kinh tế định
hướng thị trường ngày nay thì hầu hết tiền tiết kiệm của các cá nhân lưu

chuyển thông qua hệ thống tài chính đến người sử dụng vốn chính là các
doanh nghiệp và chính phủ. Thơng qua các trung gian tài chính, người cho
vay và người sử dụng vốn đều được thoả mãn các u cầu về tài chính bên
canh đó người cho vay được đảm bảo an toàn đối với khoản tiền của họ và
người đi vay có thể nhận được khoản tiền họ cần một cách nhanh chóng
cho các nhu cầu sử dụng vốn của họ. Người cho vay muốn thơng qua các
trung gian tài chính vì họ giảm thiểu đối với các rủi ro khơng được thanh
tốn, tính thanh khoản cao, nhà đầu tư có số tiền dư thừa nhỏ cũng co thể
tham gia và sự thuận tiện được cung cấp dịch vụ bởi một trung gian tài
chính tại địa phương.
Giảm thiểu rủi ro trên cơ sở đa dạng hố đầu tư.
Các trung gian tài chính cịn tham gia vào việc tập trung rủi ro và lợi
dụng quy mô hoạt động của họ. Khi đầu tư vào các khoản cho vay và các
tài sản có khác mang tính đa dạng về rủi ro và lợi nhuận thì sự đa dạng đó
sẽ nâng cao tính an tồn của nguồn vốn do nhà đầu tư cung cấp. Hầu hết
các nhà đầu tư nhỏ không thể nào phân tán đúng mức việc sử dụng các

6


khoản tiền vào nhiều loại đầu tư khác nhau. Tuy nhiên, một trung gian tài
chính có thể tập hợp các khoản tiền phân tán của nhiều nhà đầu tư nhỏ và
phân bổ một cách có hiệu quả vào nhiều danh mục khác nhau, do đó giảm
thấp rủi ro cho tất cả moi nhà đầu tư.
Các trung gian tài chính thơng thường sử dụng nguồn vốn huy động
nhằm cho vay và đầu tư chứng khoán. Khi nhận thấy nhu cầu về tín dụng
mạnh thì họ có thể đầu tư ít vào chứng khoán, và sẽ bán số chứng khoán đã
đầu tư trước đó để tạo vốn cho vay mới. Cịn khi mức cầu tín dụng thấp đi,
các định chế tài chính sẽ tăng mức đầu tư vào chứng khoán nhằm tăng thu
nhập, tránh thuế, phân tán rủi ro, và tính thanh khoản của chứng khốn đầu

tư.
Giảm thiểu chi phí hợp đồng và chi phí xử lý thơng tin
Khi các trung gian tài chính phát triển về quy mơ thì phí hoạt động
theo đơn vị có thể thấp hơn và có thể giảm phí dịch vụ ngân hàng, tài chính
cung cấp cho cơng chúng.Nhà đầu tư thường khơng có thời gian và nghiệp
vụ để nắm bắt những thay đổi của thị trường và cũng không thể tiếp cận
thông tin liên quan về các điều kiện của thị trường và cơ hội đầu tư. Các
trung gian tài tài chính sử dụng năng lực của mình để thu thập và xử lý
thơng tin từ thị trường tài chính thay cho nhà đầu tư. Nhằm thu nhập thông
tin đầy đủ về người đi vay, các trung gian tài chính phải tiêu tốn đáng kể về
thời gian, vốn và nghiệp vụ- những nguồn lực mà những nhà đầu tư nhỏ và
ngay cả một số nhà đầu tư lớn khơng có được. Ngày nay,các trung gian tài
chính không những chỉ thực hiện chức năng quan trọng là thu thập thông
tin về người đi vay và xác định độ tín nhiệm , mà cịn giám sát điều kiện và
việc chấp hành của người đi vay để đảm bảo rằng họ tuân thủ các điều
khoản của hợp đồng tín dung và tiếp tục giữ vững uy tín. Bên cạnh đó,
thơng tin về người đi vay được trao đổi giữa các trung gian tài chính, do đó

7


người đi vay có thể tìm kiếm thêm vốn đầu tư từ các trung gian tài chính
khác trên thị trường.
Cung cấp một cơ chế thanh tốn.
Trong hệ thống tài chính ngân hàng của một quốc gia, các trung gian
tài chính thông qua một trung tâm bù trừ trung ương cung cấp dịch vụ
thanh tốn cho tồn xã hội. Hệ thống bù trừ giữa các ngân hàng giải quyết
các giao dịch trong một giai đoạn xác định và chỉ thanh toán các khoản tiền
rịng cần thiết để quyết tốn các khoản thu chi giữa các ngân hàng. Cơ chế
thanh toán mà hệ thống tài chính ngân hàng cung cấp cho xã hội cho phép

giảm bớt chi phí, đảm bảo an tồn cho việc thực hiện các giao dịch. Thông
qua mạng lưới rộng khắp của mình, hệ thống tài chính ngân hàng cho phép
việc thực hiện thanh toán một cách nhanh nhất trên phạm vi toàn thế giới
2. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHỐN

2.1. Khái niệm thị trường chứng khốn
Thị trường chứng khoán (TTCK) là nơi diễn ra các hoạt động giao
dịch mua bán,trao đổi các loại chứng khoán trung và dài hạn.
Xét về mặt hình thức, TTCK chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi
các loại chứng khốn, qua đó thay đổi các chủ thể nắm giữ chứng khoán.
Xét về mặt bản chất:
- TTCK là nơi tập trung và phân phối các nguồn vốn tiết kiệm.
- TTCK là trung gian tài chính trực tiếp:cả chủ thể cung và cầu vốn
đều tham gia vào thị trường một cách trực tiếp.Qua kênh dẫn vốn trực tiếp,
các chủ thể đầu tư đã thực sự gắn quyền sử dụng và quyền sở hữu về vốn,
nâng cao tiềm năng quản lý vốn
- TTCK thực chất là quá trình vận động của tư bản tiền tệ, chuyển tư
bản tiền tệ từ tư bản sở hữu sang tư bản chức năng.
2.2 Phân loại TTCK

8


2.2.1. Phân loại theo hàng hoá
Căn cứ vào hàng hoá được mua bán trên thị trường chứng khốn,có
thể phân chia TTCK thành thị trường trái phiếu ,thị trường cổ phiếu và thị
trường các công cụ dẫn xuất
Thị trường trái phiếu là thị trường mà hàng hố được mua bán đó là
các trái phiếu .Trái phiếu: là một loại chứng khoán nợ xác nhận của tổ chức
phát hành cam kết trả một số tiền được xác định trước (vốn gốc và lãi) vào

một thời điểm được xác định trước trong tương lai.Đơn vị phát hành trái
phiếu là chính phủ, chính quyền địa phương, và các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế theo quy định của pháp luật.
Thị trường cổ phiếu là nơi giao dịch mua bán trao đổi giây tờ xác
nhận cổ phần đóng góp của cổ đơng.Cổ phiếu: Khi một công ty cần huy
động vốn, số vốn cần huy động được chia thành nhiều phần nhỏ bằng nhau
gọi là cổ phần. Người mua cổ phần được gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp
một giấy xác nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu. Cổ phiếu có hai loại: cổ
phiếu thường (cổ phiếu phổ thông) và cổ phiếu ưu đãi.Cổ phiếu sẽ cho
phép cổ đơng có quyền u cầu đối với lợi nhuận sau thuế của công ty cung
như đối với tài sản của công ty khi tài sản này được đem bán
Thị trường các công cụ dẫn xuất là nơi giao dịch mua bán các khoán
phái sinh như quyền mua trước,chứng khế, hợp đồng quyền chọn,hợp đồng
tương lai,..Nó cung cấp các cơng cụ phịng vệ hữu hiệu ,đồng thời cũng là
công cụ đầu cơ lý tưởng cho nhà đầu tư
2.2.2. Phân loại theo quá trình luân chuyển vốn .
Thị trương sơ cấp: Còn gọi là thị trường cấp một hay thị trường phát
hành, hàm ý chỉ nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng khoán mới phát
hành lần đầu. Thị trường sơ cấp là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành.
Thị trường thứ cấp: Còn gọi là thị trường cấp hai hay thị trường lưu
thông,là nơi diễn ra các giao dịch mua bán chứng khoán sau khi đã phát
9


hành lần đầu. Nói cách khác thị trường thứ cấp là thị trường mua đi bán lại
các loại chứng khoán được phát hành qua thị trường sơ cấp.
2.2.3. Phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường
- Thị trường chứng khốn tập trung,tổ chức hình thành nên các sở
giao dịch :là thị trường hoạt động theo đúng các quy định của pháp luật,là
nơi mua bán các loại chứng khoán đã được đăng ký tưc là đã đựoc cơ quan

có thẩm quyền cho phép bảo đảm phân phối và mua bán qua trung
gian.Đây là nơi mua bán trao đổi các loại chứng khốn của các cơng ty lớn
và hoạt động có hiệu quả. Hay các loại chứng khốn do chính phủ hoặc các
cơ quan công quyền phát hành và đảm bảo.
- Thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC): là thị trường mua bán
chứng khốn nằm ngồi sở giao dịch, khơng có địa điểm tập trung mà có
thể diễn ra tại tất cả các quầy sàn giao dịch của các thành viên,đây là thị
trường của các nhà buôn, những người tạo lập thị trường (market makers)
các giao dịch ở đây chủ yếu dựa váo thoả thuận giữa người mua và người
bán các chứng khoán giao dịch ở đây thưong là chứng khốn của các cơng
ty nhỏ mức độ rủi ro cao,ít người biết đến hoặc ít người mua bán
2.2.4. Phân loại theo cơ chế giao dịch
Thị trường giao ngay:là thị trường mua bán chứng khoán theo giá ở
thời điểm giao dịch nhưng việc thực hịên thanh toán và giao hàng có thể
diễn ra sau đó một vài ngày theo thoả thuận
Thị trừơng giao sau:là thị trường mua bán chứng khoán theo một hợp
đồng định sẵn giá cả được thoả thuận trong ngày giao dịch nhưng việc
thanh toán và giao hàng diễn ra trong tương lai
2.3.Vai trò của thị trường chứng khốn
TTCK có vai trị rất quan trong đối với nền kinh tế của mỗi nước,
trong xu thế hội nhập hiện nayđòi hỏi các quốc gia phải thúc đẩy phát triển
10


kinh tế với tốc độ cao và hiệu quả,thực tế phát triển kinh tế ở các quốc gia
đã khẳng định vai trò của TTCK,trong rất nhiều vai trò sau đây là một số
vai trị chính của TTCK:
Thứ nhất TTCK tạo ra các cơng cụ có tính thanh khoản cao,có thể
tích tụ, tập trung và phân phối vốn,chuyển thời hạn của vốn phù hợp với
yêu cầu phát triển kinh tế. Yếu tố thông tin và yếu tố cạnh tranh trên thị

trường sễ đảm bảo cho việc phân phối vốn một cách hiệu quả. Thực tế trên
TTCK tất cả các thông tin được cập nhật và được chuyển tải đến tất cả các
nhà đầu tư nhờ đó họ có thể phân tích và định giá cho chứng khoán, TTCK
tạo ra một sự cạnh tranh hiệu quả trên thị trường tài chính, điều này bụơc
các trung gian tài chính trên thị trường quan tâm đến hoạt động của chính
họ và làm giảm chi phí.
Thứ hai TTCK góp phần thực hiện tái phân phối cơng bằng hơn
thơng qua việc buộc các tập đồn gia đình trị phát hành chứng khốn ra
cơng chúng,giải toả sự tập trung quyền lực kinh tế của các tập đoàn song
vẫn tập trung vốn cho sự phát triển kinh tế.
Thứ ba TTCK tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa quản lý và sở hữu
doanh nghiệp, tạo điều kiện cho việc tiết kiệm vốn và chất xám, tạo điều
kiện thúc đẩy q trình cổ phần hố doanh nghiệp nhà nước, cơ chế thơng
tin hồn hảo tạo khả năng giam sát chặt chẽ của TTCK làm giảm tác động
của các tiêu cực trong quản lý tạo điều kiện kết hợp hài hồ giữa lợi ích của
chủ sử hữu, nhà quản lý và người làm công.
Thứ tư TTCK tạo cơ hội cho Chính phủ huy động được các nguồn tài
chính mà khơng tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo các cơng cụ cho việc
thực hiện các chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ.
Thứ năm TTCK cung cấp dự báo về các chu kỳ kinh doanh trong
tương lai. Việc thay đổi giá chứng khốn có xu hướng đi trước chu kỳ kinh

11


doanh cho phép chính phủ cũng như các cơng ty đánh giá kế hoạch đầu tư
cũng như việc phân bố các nguồn lực của họ một cách hiệu quả.
Thứ sáu Việc mở cửa TTCK làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị
trường quốc tế. Điều này làm cho các cơng ty có thể huy động vốn rẻ hơn
tăng cường đầu tư từ nguồn tiết kiệm bên ngoài,đồng thời tăng khả năng

cạnh tranh trên thị trường quốc tế và mở rông các công cụ kinh doanh của
công ty trong nước.
3. MỘT SỐ MƠ HÌNH TRUNG GIAN TÀI CHÍNH TRÊN THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHỐN THẾ GIỚI

Như đã trình bày ở phần trên, các trung gian tài chính tham gia vào
TTCK dưới nhiều hình thái khác nhau và mức độ tiếp cận cũng hồn tồn
khác nhau, tuy nhiên sự xâm nhập hay nói khác là sự tham gia của mơ hình
trung gian ngân hàng thương mại vào thị trường chứng khoán là đặc trưng
rõ nét nhất và nổi bật nhất. Trong phần này, đề tài đi sâu nghiên cứu một số
mơ hình đặc trưng của sự tham gia của các trung gian ngân hàng tiêu biểu
trên thế giới.
3.1. Mơ hình định chế tài chính đa năng
Theo mơ hình này hoạt động chung trên lĩnh vực ngân hàng, bảo
hiểm, chứng khoán...vv (đặc trưng ngân hàng đa năng Đức và úc).
Mơ hình này chia làm hai loại:
Loại đa năng một phần:Các trung gian tài chính tham gia thị trường
chứng khốn phải thành lập cơng ty con hoạt động độc lập, được áp dụng
tại Anh và một số nước có quan hệ gần với Anh như Canada và úc.
Loại đa năng hoàn toàn: các định chế ngân hàng được phép kinh
doanh chứng khoán, kinh doanh doanh bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ.
Trong mơ hình này khơng có bất kỳ sự tách biệt nào giữa các hoạt động
ngân hàng và chứng khoán. trong hệ thống ngân hàng đa năng, các ngân
hàng thương mại cung cấp một danh mục đầy đủ các dịch vụ ngân hàng,
12


chứng khoán và bảo hiểm, tất cả trong một pháp nhân duy nhất. Mơ hình đa
năng hồn tồn này được áp dụng chủ yếu ở các nước Đúc, Bắc Âu, Hà
Lan, Thụy sỹ và ở Áo.

Ưu điểm của mơ hình này là ngân hàng, cơng ty tài chính, cơng ty
bảo hiểm có thể kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro
cho hoạt động kinh doanh chung và có khả năng về tài chính chịu đựng các
biến động tài chính của TTCK. ở các nước bắt đầu xây dựng TTCK, các
ngân hàng thường có ưu thế về đội ngũ nhân viên có chun mơn cao, về
quy mô vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, mạng lưới khách hàng rộng và đầy đủ
thông tin để thực hiện kinh doanh chứng khốn so với các cơng ty chứng
khốn chun ngành mới thành lập.
Mơ hình này cũng có những hạn chế nhất định, như sau:
- Hoạt động chủ yếu của hệ thống ngân hàng là huy động vốn để cho
vay lấy lãi, do đó ngân hàng thường quan tâm cho khách hàng vay vốn để
kinh doanh và phát triển sản xuất hơn là giúp khách hàng huy động vốn
bằng phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Điều này không những thể hiện rõ ở
các thị trường chứng khoán kém phát triển mà ở ngay thị trường chứng
khoán châu Âu khi so sánh với thị trường chứng khoán Mỹ;
- Trong trường hợp có biến động trên thị trường chứng khốn, thì các
biến động này có thể ảnh hưởng đến hoạt đơng kinh doanh tiền tệ của hệ
thống ngân hàng nếu không có sự tách bạch giữa hai loại hình kinh doanh
này.
- Trong trường hợp có biến động trên thị trường tiền tệ, thì các biến
động này có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh chứng khoán của hệ
thống các tổ chức kinh doanh chứng khốn nếu khơng tách bạch giữa hai
loại hình kinh doanh này. Cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ ở Thái Lan
trước đây mà bắt đầu là khủng hoảng nợ từ giữa năm 1997, khi mà 58 ngân
hàng, cơng ty tài chính, trong đó có nhiều tổ chức được kinh doanh chứng

13


khoán bị phá sản và điều này đã ảnh hưởng hết sức nặng nề đến thị trường

chứng khoán Thái Lan.
3.2. Mơ hình cơng ty chun doanh chứng khốn.
Theo mơ hình này, hoạt động kinh doanh chứng khốn sẽ do các
cơng ty độc lập, chun mơn hố trong lĩnh vực chứng khốn đảm nhận.
Các ngân hàng, các tổ chức tài chính khơng được tham gia vào việc kinh
doanh chứng khốn.
Mơ hình này được áp dụng ở nhiều nước, trong đó đáng chú ý là Mỹ,
Nhật Bản, Hàn Quốc.
Ưu điểm của mô hình này là:
- Hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng;
- Tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển.
Tuy nhiên trong thời gian gần đây, ở các nước áp dụng mơ hình này
đã có xu hướng giảm dần hạn chế về kinh doanh chứng khoán đối với ngân
hàng thương mại và từng bước mở rộng quyền của ngân hàng thương mại,
tổ chức tài chính tham gia vào hoạt động kinh doanh chứng khoán trên thị
trường chứng khoán. Một trong những vấn đề về mơ hình cơng ty chứng
khốn gây tranh luận là nên chăng cho phép cơng ty chứng khốn thực hiện
chức năng quản lý quỹ tín thác đầu tư, hay chức năng công ty quản lý quỹ
đầu tư và từ đó lập các quỹ đầu tư chứng khoán. Vấn đề này ở các nước
khác nhau cũng có cách tiếp cận và mơ hình khác nhau. Một số quốc gia
như Nhật Bản, Trung quốc, Thái Lan và các nước theo mơ hình ngân hàng
đa năng, cho phép cơng ty chứng khốn được làm chức năng cơng ty quản
lý quỹ đầu tư, các quốc gia theo mơ hình chun doanh chứng khốn như
Mỹ thì tách biệt loại hình cơng ty quản lý quỹ tương hỗ đầu tư, tín thác đầu
tư ra khỏi cơng ty kinh doanh chứng khốn.
Vì vậy, việc cho phép cơng ty chứng khốn thực hiện chức năng
công ty quản lý quỹ đầu tư, quỹ tương hỗ là vấn đề lớn và lệ thuộc vào khả
14



năng quản lý, sự phát triển củaTTCK. Tuy nhiên, ở các thị trường mới nổi,
nhiều nhà kinh tế và nhà hoạch định chính sách cho rằng nên tách riêng 2
lĩnh vực hoạt động này (theo mơ hình Mỹ) vì lợi ích của các nhà đầu tư
cũng như để phát triển tốt TTCK
4. CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA TRUNG GIAN TÀI CHÍNH TRÊN THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN

4.1 Sự tham gia của các ngân hàng thương mại vào q trình thành lập
cơng ty chứng khốn
NHTM là đối tượng có rất nhiều thuận lợi trong việc tham gia thành
lập cơng ty chứng khốn trong giai đoạn hiện nay. Với thế mạnh đặc biệt
về tiềm lực tài chính, hầu hết các ngân hàng đều khơng gặp khó khăn đối
với việc đáp ứng các yêu cầu về vốn pháp định trong hoạt động kinh doanh
chứng khoán. Mặt khác, hệ thống mạng lưới chi nhánh rộng khắp và nền
tảng khách hàng sẵn có cũng là một ưu thế vô cùng quan trọng cho các
ngân hàng trong việc triển khai và mở rộng phạm vi hoạt động của các
công ty chứng khoán sau này. Việc chuẩn bị điều kiện nhân sự cũng được
sự hỗ trợ hết sức thuận lợi từ phía ngân hàng mẹ, phần lớn nhân sự của các
cơng ty chứng khốn hiện nay là các cán bộ có kinh nghiệm điều chuyển từ
ngân hàng sang, có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.
Bản thân các ngân hàng – vốn là những tổ chức tín dụng có bề dày kinh
nghiệm trong lĩnh vực tài chính, cũng sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi trong
việc triển khai và mở rộng phạm vi kinh doanh sang một lĩnh vực tài chính
mới với nhiều nội dung hoạt động tương đồng.Các ngân hàng có thể thành
lập theo mơ hình đa năng toàn phần hay chuyên doanh Tuy nhiên, việc
tham gia của các ngân hàng thương mại vào thành lập cơng ty chứng khốn
tham gia thị trường chứng khốn cũng có bước đi và lộ trình khác nhau tuỳ
theo điều kiện mỗi nứơc
4.2 Tham gia của các ngân hàng vào dịch vụ lưu ký chứng khoán.
15



Thành viên lưu ký là một tổ chức được phép cung cấp các dịch vụ về
lưu ký chứng khoán cho khách hàng, thay mặt khách hàng nắm giữ chứng
khoán ký qửi, đảm bảo mọi quyền lợi phát sinh đối với chứng khoán và tài
lưu ký các chứng khoán ký gửi của khách hàng vào trung tâm lưu ký.
Thành viên lưu ký chủ yếu là các cơng ty chứng khốn, ngân hàng lưu ký
thương mại được cấp giấy phép hoạt động. Khách hàng của các thành viên
lưu ký không chỉ là các tổ chức cá nhân đầu tư trong nước, mà cịn là các tổ
chức, các nhân đầu tư nước ngồi sinh sống và làm việc tại nước sở tại, các
nhà đầu tư quốc tế tham gia vào TTCK nước sở tại lưu giữa bảo quản
chứng khốn cho mình, tái lưu ký này vào Trung tâm lưu ký chứng khoán.
Tại những nước đó, mối quan hệ uỷ thác này được thực hiện trên cơ sở các
hợp đồng pháp lý. Do thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ dịch vụ lại đối
với các tổ chức lưu ký toàn cầu, các thành viên lưu ký nước sở tại còn được
gọi là các tổ chức lưu ký phụ
Các tổ chức được phép trở thành thành viên lưu ký là các tổ chức
đáp ứng được các điều kiện về mức vốn, điều kiện về uy tín, điều kiện về
cơ sở vật chất kỹ thuật, khả năng quản lý chứng khoán cho khách hàng,
thực hiện việc đóng góp, thực hiện việc báo cáo và chịu sự quản lý, giám
sát của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và của các tổ chức điều hành
hệ thống. Mỗi nước sẽ có các qui định cụ thể đối với các tổ chức đủ điều
kiện trở thành thành viên lưu ky
4.3. Tham gia của các ngân hàng đóng vai trị ngân hàng chỉ định
thanh tốn, ngân hàng giám sát
Ngân hàng chỉ định thanh toán là ngân hàng thương mại lớn ,được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ định để mở tài khoản thanh toán cho
trung tâm giao dịch và thành viên lưu ký để phục vụ cho việc thanh toán
các giao dịch.Việc thanh toán tiền cho các giao dịch chứng khốn được
thưc hiện bằng hình thức chuyển khoản của thành viên lưu ký và trung tâm

16


giao dịch mở tại ngân hàng chỉ định thanh toán.Thanh tốn bù trừ là khâu
cuối cùng để hồn tất các giao dịch chứng khoán sự tham gia của ngân
hàng chỉ định thanh tốn góp phần thúc đẩy q trình thanh tốn bù trừ
nhanh và chính xác.
Ngân hàng giám sát:để cho một quỹ đầu tư hoạt động có hiệu quả
đặc biệt là quỹ đầu tư chứng khốn cùng với cơng ty quản lý quỹ.Ngân
hàng giám sát thực hiện việc bảo quản ,lưu ký tài sản của quỹ đầu tư chứng
khoán và giám sat công ty quản lý quỹnhằm bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư
4.4. Tham gia của các trung gian tài chính vào bảo lãnh phát hành,đại
lý phân phối chứng khoán trên TTGDCK.
Bảo lãnh phát hành là một trong những lĩnh vực hoạt động của các
cơng ty chứng khốn, ngân hàng thương mại các cơng ty tài chính trên cơ
sở việc thoả thuận mua bán chứng khoán để bán lại hoặc bán chứng khoán
thay mặt người phát hành hay chủ sở hưũ,các hình thức bảo lãnh :bảo lãnh
với cam kết chắc chắn, bảo lãnh theo phương thức dự phòng,bảo lãnh với
cố gắnh cao nhất,bảo lãnh tối thiểu – tối đa. Bảo lãnh phát hành giúp các tổ
chức phát hành thưch hiện các thủ tục trước khi trào bán chứng khốn,tổ
chức việc phân phối chứng khốn và giúp bình ổn giá chứng khoán trong
giai doạn đầu phát hành. Tổ chức bảo lãnh chính có thể lập các tổ hợp bảo
lãnh để giảm thiểu rủi ro và có thể xác định được các đối tượng tham gia
đầu tư vào tổ chức phát hành.
Đại lý phân phối là các công ty mà tổ chức bảo lãnh chính dành
chứng khốn cho họ để họ phân phối.Tổ chức bảo lãnh mua chứng khoán
trực tiếp từ từ tổ chức phát hành còn đại lý phân phối mua chứng khốn từ
tổ chức bảo lãnh chính hoặc tổ chức bảo lãnh thành viên và bán lại các
chứng khốn đó.Đại lý phân phối khơng đóng vai trị của tổ chức bảo lãnh
vì vậy khơng chịu các rủi ro nếu đợt phát hành không thành công.


17


4.5. Tham gia dịch vụ kiểm toán các tổ chức tham gia thị trường chứng
khoán.
Như đã biết, nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng
khốn là tính cơng khai minh bạch nên kiểm toán trở thành một yêu cầu
không thể thiếu đối với hoạt động thị trường chứng khoán. Đặc biệt là tổ
chức niêm yết, nơi phát hành ra các chứng khoán giao dịch trên thị trường.
Việc ra quyết định mua, hoặc bán chứng khốn nào đó, do nhà đầu tư quyết
định trên cơ phân tích các báo cáo kinh doanh và tài chính của doanh
nghiệp. Với tư cách là một tổ chức độc lập, các tổ chức kiểm tốn tiến
hành kiểm tra và xác nhận tính đúng đắn, hợp lý của các báo cáo tài chính
của các tổ chức phát hành và kinh doanh chứng khoán, từ đó đảm bảo các
báo cáo tài chính của các tổ chức phát hành và kinh doanh chứng khốn
được cơng bố công khai ra công chúng là trung thực, hợp lý và minh bạch,
góp phần bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư và nhằm đảm bảo cho giá cả chứng
khoán được hình thành một cách thống nhất, cơng bằng cho tất cả các bên
giao dịch. Chính vì lẽ đó trong lĩnh vực chứng khoán, việc qui định các báo
cáo tài chính của các tổ chức phát hành và kinh doanh chứng khoán phải
được xác nhận bởi một tổ chức kiểm tốn độc lập đã trở thành thơng lệ
quốc tế.
Vai trị của kiểm tốn được thể hiện rõ nét thơng qua tính chuyên
nghiệp và quyền đưa ra các đánh giá về “chất lượng” của các báo cáo tài
chính. Với tư cách là tổ chức độc lập, các tổ chức kiểm toán tiến hành kiểm
tra và xác nhận tính đúng đắn, hợp lý và hợp pháp của các báo cáo tài
chính, từ đó đảm bảo các báo cáo tài chính cơng bố ra cơng chúng là trung
thực và minh bạch. Chính vì lẽ đó, qui định kiểm tốn bắt buộc đối với các
báo cáo tài chính của tổ chức phát hành và kinh doanh chứng khốn đã trở

thành thơng lệ quốc tế. Mức độ cơng khai hố của thị trường càng cao, vai
trị của tổ chức kiểm tốn độc lập càng được đề cao và là một yếu tố không

18


thể thiếu trong câú trúc thị trường,kiểm toán là một yếu tố không thể thiếu
giúp củng cố niềm tin đối với các hoạt động trên thị trường chứng khoán.
Các tổ chức kiểm tốn cịn phải đáp ứng được các u cầu theo quy định
của từng nước như về vốn pháp định, số lượng kiểm tốn viên tối thiểu
trong cơng ty và số lượng khách hàng hàng năm...vv.
4.6. Tham gia của các trung gian tài chính vào việc thành lập các tổ
chức định mức tín nhiệm
Các cơng ty định mức tín nhiệm đóng vai trị nổi bật trong thị trường
chứng khốn mới nổi cũng như thị trường chứng khoán phát triển. Do nhu
cầu cấp thiết để phát triển một thị trường trái phiếu và thị trường tiền tệ
nhiều biến động nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn trong tương lai, vai trị của
các tổ chức định mức tín nhiệm ngày càng có vai trị hết sức quan trọng.
Thơng thường, các cơng ty định mức tín nhiệm thành cơng hơn khi sự tự do
hố thị trường tài chính gây áp lực đến thị trường và quyết định của tư nhân
đóng vai trị lớn trong việc tham gia vào thị trường chứng khoán. Việc tiêu
chuẩn hố các thơng tin tài chính về các cơng ty phát hành chứng khốn ra
cơng chúng sẽ tạo điều kiện cho việc so sánh của các nhà phát hành và
thống nhất hơn trong việc đánh giá các công ty có mức độ rủi ro như nhau.
Việc thành lập tổ chức định mức tín nhiệm cần phải đầu tư lớn về tài chính
và có hiểu biết nhất định về kỹ thuật, do đó rất cần có nhà bảo trợ và trợ
giúp kỹ thuật quốc tế. Một công ty định mức tín nhiệm phụ thuộc vào sự
chính xác và tin cậy của các thơng tin mình có về các nhà phát hành chứng
khốn. Có rất nhiều mơ hình của cơng ty định mức tín nhiệm trong đó mơ
hình thành lập tổ chức tín nhiệm dưới dạng một cơng ty cổ phần trong đó

các cổ đơng chính sẽ là Bộ Tài chính, Uỷ ban Chứng khốn Nhà nước, các
trung gian tài chính lớn và có uy tín như Ngân hàng Nhà nước và các ngân
hàng thương mại, tổng công ty bảo hiểm, các cơng ty tài chính và cơng ty
chứng khốn là mơ hình hoạt động có hiệu quả cao bởi vì Sự tham gia của
19


các trung gian tài chính có uy tín và kinh nghiệm trong cơ cấu sở hữu của
tổ chức định mức tín nhiệm là một đảm bảo rất quan trọng về cơ sở vật chất
kỹ thuật và nguồn nhân lực có chun mơn nghề nghiệp cao trong lĩnh vực
tài chính ngân hàng, tiết kiệm được chi phí đào tạo cơ bản. Nhân viên của
các công ty này phần lớn đều là những người có trình độ cao trong các lĩnh
vực tài chính-ngân hàng, trong đó nhiều người là các chun gia cao cấp về
định mức tín nhiệm và xếp hạng doanh nghiệp từ các ngân hàng lớn chuyển
sang, bởi vì bản thân các ngân hàng, các tổ chức tài chính cũng có những
bộ phận chuyên nghiên cứu và xác định mức độ tín nhiệm của các doanh
nghiệp để thực hiện các khoản cho vay và tài trợ dự án.
5.CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ THAM GIA CỦA CÁC TRUNG GIAN
TÀI CHÍNH TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHỐN

5.1 Ảnh hưởng của mơi trường kinh tế vĩ mô
Một nền kinh tế phát triển ổn định Kinh nghiệm các nước cho thấy
môi trường kinh tế vĩ mơ có tác động vơ cùng quan trọng tới sự hình thành
và phát triển của TTCK từ đó tác động mạnh mẽ tới sự tham gia của các
trung gian vào sự phát triển của TTCK.Sự ổn định về chính trị và tăng
trưởng kinh tế là yếu tố rất quan trọng cho sự hình thành và phát triển
TTCK. Bên cạnh đó cũng phải chú ý đến vấn đề tập qn, thói làm ăn nhỏ
manh mún của phần lớn cơng chúng qua đó mà có những tác động định
hướng, tạo sự hiểu biết mới, hình thức đầu tư mới để cơng chúng quen dần
và coi đó là một hình thức đầu tư có thể thực hiện được với bất cứ ai có

vốn, có ý muốn đầu tư. Khơng những thế cịn phải duy trì tốc độ tăng
trưởng ,lạm phát được kiểm soát, giá trị đồng nội tệ và mức lãi suất được
bình ổn mới tạo được sự tin tưởng của các nhà đầu tư và của người dân khi
đầu tư vào chứng khốn. Ngược lại khi nền kinh tế có những biểu hiện sa
sút, mất ổn định sẽ ảnh hưởng rất mạnh đến khả năng sinh lời của việc đầu
tư chứng khoán, các nhà đầu tư sẽ dừng hoạt động đầu tư vào chứng khoán
20


và như vậy số lượng đầu tư giảm làm cho TTCK hoạt động kém hiệu quả
và có thể đi đến phá sản. Thực tế đã chứng minh rằng nhân tố đóng góp vào
sự phát triển mạnh mẽ của các thị trường mới nổi trong những thập kỷ qua,
ở phần lớn là các nước đang phát triển có sự kết hợp linh hoạt giữa định
hướng phát triển nền kinh tế thị trường với vai trị quản lý vĩ mơ của Nhà
nước trong hoạt động củaTTCK. Các chính sách kinh tế vĩ mô cơ bản tác
động tới tổng cung, tổng cầu của nền kinh tế, thơng qua đó tác động tới
tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mơ (kiểm sốt lạm phát và cân bằng
cán cân thanh toán quốc tế), tạo công ăn việc làm.Sự phát triển của một nền
kinh tế sẽ tác động trực tiếp đến sự phát triển các dịch vụ cung ứng trên
TTCK cả về số lượng và chất lượng
5.2. Chịu ảnh hưởng của sự phát triển thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ là thị trường của các công cụ nợ ngắn hạn thường
dưới một năm. Thị trường tiền tệ tạo tính thanh khoản cho các công cụ nợ
giao dịch trên thị trường và đáp ứng nhu cầu huy động vốn ngắn hạn để chi
tiêu trong khi chưa cân đối được ngân quỹ của Chính phủ và các tổ chức
kinh doanh. Chính phủ phát hành tín phiếu Kho bạc bù đắp những thiếu hụt
tạm thời của ngân sách và cung cấp tài chính cho các khoản chi tiêu trong
chương trình kế hoạch; các cơng ty và ngân hàng thương mại phát hành
giấy tờ thương mại để có nguồn tài chính tận dụng các cơ hội thu lợi nhuận.
Thị trường tiền tệ luôn song song tồn tại với thị trường vốn cụ thể là thị

trường chứng khoán. Hai thị trường này có mối quan hệ chặt chẽ và bổ
sung cho nhau, tạo ra một cơ chế tài chính hồn thiện hơn đáp ứng nhu cầu
huy động vốn cho các tổ chức phát hành. Đồng thời việc song hành hai thị
trường tạo ra một thị trường tài chính ổn định và hồn thiện cho quốc gia,
có ý nghĩa khơng chỉ đối với Chính phủ mà cịn cả với các tổ chức tài chính
cũng như các tổ chức kinh doanh. Thị trường tiền tệ cung cấp cơ hội huy
động vốn ngắn hạn trong khi thị trường chứng khoán lại tạo cơ hội huy
21


động vốn dài hạn cho các tổ chức phát hành, mở ra một cơ chế hoàn chỉnh
cho mọi tổ chức khi tham gia vào thị trường. Chính mối quan hệ chặt chẽ
giữa hai thị trường nên sự phát triển của thị trường tiền tệ cũng có ý nghĩa
hồn thiện thị trường chứng khoán
5.3. Chịu ảnh hưởng của sự phát triển của thị trường chứng khốn
Như một quy luật có tính phổ biến ở nhiều nước trên thế giới ở đâu
có TTCK phát triển thì ở đó hệ thống các tổ chức trung gian tài chính phát
triển,ngược lại ở đâu có cạnh tranh các dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ
tài chính sơi động thì ở đó giao dịch trên TTCK cũng sôi động. TTCK phát
triển làm cho môi trường đầu tư phát triển và các trung gian tai chính có
nhiều cơ hội đầu tư hơn,Sự tham gia của trung gian của trung gian tài chính
vào TTCK như: tham gia là tổ chức lưu ký, bảo lãnh phát hành,đại lý phân
phối chứng khoán, Ngân hàng chỉ định thanh toán… sự tham gia đó đem
lại cho các định chế này nhưng khoản phí và lệ phí thu về nhất định,thị
trường càng phát triển thì khoản nay thu được càng lớn. Bên cạnh đó sự
phát triển của TTCK làm cho các cơng cụ huy động vốn của các tổ chức
này như trái phiếu,cổ phiếu giấy chứng nhận tiền gửi… có mơi trường giao
dịch từ đó tạo khả năng thanh khoản cao cho các công cụ này và đảm bảo
cho các tổ chức này có khả năng huy động vốn nhanh va rẻ hơn. Với một
thị trường phát triển sôi động và ổn định sễ thúc đẩy các trung gian tham

gia tích cực hơn bởi lợi ích của việc tham gia TTCK đem lại là rất lớn, nó
sẽ khẳng định vị thế và uy tín đối với thị trường từ có thể đem lại được lợi
nhuận lơn nhất cho mình
5.4. Chịu ảnh hưởng bởi các chính sách vế thuế ,phí , lệ phí
Trong việc thực hiện chính sách kinh tế vĩ mơ, thuế được Chính phủ
sử dụng như một cơng cụ quan trọng tác động lên tồn bộ qua trình phát
triển cảu nền kinh tế .Thơng qua chính sách thuế Chính phủ thực hiện chính

22


sách ưu đãi khuyến khích hoặc hạn chế sự phát triển cảu các ngành nghề
lĩnh vực theo từng vùng lãnh thơe trong nền kinh tế quốc dân. Về phí đây là
khoản tiền mà các chủ thể tham gia thị trường phải địng góp cho Nhà nước
ví dụ: phí thành viên, phí lưu ký,…Lệ phí đây là khoản tiền mà tổ chức
phải nộp cho Nhà nước để nhận được các giấy phép cần thiết cho hoạt động
của mình. Chính sách thuế, phí và lệ phí có tác dụng lớn trong việc khuyến
khích các trung gian tài chính tham gia,nếu có một chính sách thúê hợp lý
sẽ thúc đẩy các tổ chức trung gian tham gia tích cực hơn bởi khi đó lợi ích
mang lại sẽ nhiều hơn.Đặc biệt ở các thị trường chứng khốn mới nổi chính
sách này có tác dụng rất lớn. Về thuế các cơng ty chứng khốn là một trong
những đối tương được hưởng ưu đãi thuế nhiều nhất.Như ở Việt Nam các
công ty đựơc miễn thuế GTGT đố với các hoạt động kinh doanh chứng
khoán được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong năm đầu tiên và 50%
trong 2 năm tiếp theo. Để có thể thu hút đựợc các trung gian tham gia vừa
với tư cánh nhà cung ứng cá dịch vụ với tư cánh nhà đầu tư cần có một
chinh sách thuế rõ ràng và thống nhất để các tổ chứuc này có chính sách
hợp lý và yên tâm khi tham gia,chính sách thuế ,phí ,lệ phí phù hợp với sự
phát triển của TTCK sẽ là địn bẩy tích cực,là động lưc thúc đẩy các trung
gian tài chính tham gia.

5.5. Chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật
Hệ thống pháp lý sẽ là công cụ không thể thiếu để duy trì cho TTCK
hoạt động nhịp nhàng, lành mạnh, có hiệu quả và ngày càng phát triển.
Muốn có một TTCK ổn định phải có một hệ thống luật pháp hồn chỉnh.
Tính ổn định của TTCK nói lên sự thành công của thị trường.Hệ thống
pháp luật quyết định tới vịêc tham gia cảu các trung gian tài chính vào các
loại hình dịch vụ nào. Hệ thơng pháp luật thống nhất và đồng bộ sẽ tạo môi
trường ổn định ,các chủ thể tham gia có sự phân định rõ ràng về chức năng
nhiệm vụ,quyền hạn sẽ giảm bớt sự chống chéo về thủ tục hành chính,các
23


chủ thể tham gia sẽ không bị chi phối bởi nhiều quy định nhiều loại luật và
quy định.Không phải bất kỳ tổ chức nào muốn tham gia thị trương là có thể
tham gia được nó phải đảm bảo những quy định bắt buộc của cơ quan quản
lý.Hệ thống pháp luật của mỗi nước sẽ quy đinh việc tham gia của các
trung gian tài chính vào thị trường

24


CHƯƠNG II:THỰC TRẠNG VÀ GIẢ PHÁP THÚC ĐẨY SỰ
THAM GIA CỦA CÁC TRUNG GIAN TÀI CHÍNH TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHỐN
1.THỰC TRẠNG THAM GIA CỦA CÁC TRUNG GIAN TÀI CHÍNH VÀO TTCK
Ở VIỆT NAM

1.1. Các tổ chức trung gian tài chính ở Việt Nam
1.1.1. Các Ngân hàng thương mại
Từ giữa năm 1987, hệ thống ngân hàng Việt Nam mới bắt đầu có

những đổi mới về tổ chức và hoạt động, mơ hình ngân hàng hai cấp dần
được hình thành, thay thế cho mơ hình ngân hàng một cấp trước kia. Bên
cạnh NHNN, các loại hình ngân hàng chuyên doanh, ngân hàng cổ phần
cũng dần dần xuất hiện. Năm 1990, hai Pháp lệnh ngân hàng ra đời, góp
phần khẳng định thêm mơ hình ngân hàng hai cấp với NHNN đóng vai trị
ngân hàng trung ương, nằm trong cơ cấu Chính phủ; các NHTM là các
doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm mục tiêu.
Qua hơn mười năm hoạt động, mơ hình ngân hàng hai cấp đã dần thích
nghi với nền kinh tế thị trường và đã có những đóng góp đáng kể cho cơng
cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên
cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động ngân hàng cũng đã bộc lộ những
nhược điểm cần khắc phục, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ hai đã thông qua hai luật: Luật Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam và Luật Các TCTD, đánh dấu một giai đoạn phát triển
mới của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Với việc ban hành hai luật này,
NHNN đã được tăng cường quyền lực và sức mạnh để thực hiện chức năng
quản lý nhà nước và đảm nhiệm vai trò ngân hàng của các ngân hàng; các
TCTD cũng có được mơi trường pháp lý thuận lợi để phát triển cả về số
lượng và chất lượng cũng như đa dạng hố về loại hình. Tính đến nay, hệ
thống NHTM Việt Nam gồm có:6 NHTM nhà nước: Ngân hàng Ngoại

25


×