BÀI DỰ THI TÌM HIỂU TÁM MƯƠI NĂM ĐỒN THANH NIÊN
CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
lý do chọn đề tài :
1. Nhằm đẩy mạnh cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm
theo lời Bác” trong học sinh, sinh viên, thiết thực kỷ niệm 80 năm
ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (26/3/1931 – 26/3/2011)
2. Cổ vũ tuổi trẻ tiếp tục rèn luyện và khẳng định niềm tin vào sự
nghiệp đổi mới, xác định trách nhiệm của thế hệ trẻ trong cơng cuộc cơng
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước
3. Góp phần tạo mơi trường để học sinh, sinh viên rèn luyện kỹ
năng viết – một kỹ năng cần thiết và quan trọng.
Câu hỏi :
Câu 1. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh thành lập ngày, tháng, năm nào? Do ai
sáng lập? Bạn hãy cho biết về 8 đoàn viên TNCS đầu tiên?
Câu 2. Từ khi thành lập đến nay Đồn TNCS Hồ Chí Minh đã mấy lần
đổi tên? Bạn hãy cho biết ý nghĩa việc đổi tên của Đoàn qua các thời kỳ?
Câu 3. Bạn hãy nêu những truyền thống vẻ vang của tuổi trẻ Việt Nam và
của Đồn TNCS Hồ Chí Minh 80 năm qua?
Câu 4. Hãy viết về một tấm gương tiêu biểu đã hoặc đang làm cơng tác
Đồn ở trường Đại học Vinh mà đồng chí biết.
Câu 5. Từ thực tế học tập, lao động, cơng tác tại trường Đại học Vinh,
đồng chí có đề xuất những mơ hình gì để xây dựng tổ chức Đoàn - Hội
vững mạnh, mở rộng mặt trận tập hợp đoàn kết thanh niên, phát huy vai
trò của tuổi trẻ thu hút đơng đảo đồn viên thanh niên tham gia trong đào
tạo theo học chế tín chỉ.
Câu 1. Đồn TNCS Hồ Chí Minh thành lập ngày, tháng, năm nào? Do ai
sáng lập? Bạn hãy cho biết về 8 đoàn viên TNCS đầu tiên?
Trả lời:
Đồn TNCS Hồ Chí Minh thành lập ngày 26/3/1931, trong hoàn cảnh lịch
sử củ thể:
- Cuối năm 1929, cùng với sự ra đời của tổ chức ĐCS, trên đất nước ta đã
hình thành những cơ sở đầu tiên của Đồn TNCS, đó là các Chi bộ Đồn
và các nhóm đoàn viên hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng do các đảng
viên trực tiếp phụ trách. Đây là mốc quan trọng trong q trình tiến tới
thành lập Đồn.
- Trong hội nghị thành lập Đảng tháng 12/1930, công tác vận động thanh
niên được đồng chí Nguyễn ái Quốc và các đại biểu đặc biệt quan tâm.
Trong Điều lệ vắn tắt của Đảng ghi rõ: “ Người dưới 27 tuổi phải vào
Thanh niên Cộng sản Đồn”.(cịn nữa)
- Đến tháng 10 năm 1930, tại hội nghị TƯ lần thứ nhất, trong “ án nghị
quyết của T.Ư toàn thể hội nghị về tình hình hiện tại ở Đơng Dương và
nhiệm vụ cần kíp của Đảng”, phần nói về Thanh niên Cộng sản Đoàn đã
chỉ rõ: “Đảng phải thi hành ngay án nghị quyết của Quốc tế Thanh niên
Cộng sản, phái ra một số đồng chí trẻ tuổi phụ trách tổ chức ra Thành niên
Cộng sản Đoàn và giúp cho đồn có tính chất độc lập”. Đặc biệt Hội nghị
đã dành thời gian để thảo luận và thông qua một ngị quyết rất quan trọng
về công tác vận động thanh niên. Đây là văn kiện có giá trị lý luận và thực
tiễn, thể hiện sự vận dụng sáng tạo và nhuần nhuyễn những nguyên lý
chung về xây dựng đoàn, một tổ chức thanh niên kiểu mới của Đảng trong
các nghị quyết của QTCS và QTTNCS vào hoàn cảnh nước ta.
- Vào đầu năm 1931, thực hiện án nghị quyết tháng 10/1930 về công tác
thanh niên của Hội nghị T.Ư Đảng, các cơ sở Đoàn của Đảng trong các
nghị quyết của QTCS và QTTNCS vào hoàn cảnh nước ta.
- Vào đầu năm 1931, thực hiện án nghị quyết tháng 10/1930 về công tác
thanh niên của Hội nghị T.Ư Đảng, các cơ sở Đoàn đã được xây dựng trên
hầu khắp nước ta từ Bắc vào Nam. Tuy nhiên hệ thống tổ chức của đoàn
vẫn chưa được thống nhất và đoàn chưa có sinh hoạt riêng.
- Từ ngày 20 đến 26/3/1931 khi tiến hành Hội nghị BCH TƯ Đảng lần II
trong đó T.Ư dành một phần quan trọng để thảo luận và tiếp tục có nhũng
quyết định quan trọng về cơng tác thanh vận như chính thức chỉ định một
đồng chí trong ban thường vụ trực tiếp phụ trách công tác vận động thanh
niên. Nghị quyết hội nghị T.Ư Đoàn TNLĐ Việt Nam, Đại hội ĐOàn toand
quốc lần thứ III họp từ ngsỳ 22 đến 25 tháng 3 năm 1961 đã thảo luận và
biểu quyết lấy ngày 26/3/1931 là ngày kỷ niệm thành lập đồn hàng năm.
* Đồn TNCS Hồ Chí Minh thành lập ngày 26/3/1931 do Đảng Cộng sản
Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập.
* Tám đồn viên TNCS đầu tiên gồm:
- Đồng chí Lê Hữu Trọng, với bí danh là Lý Tự Trọng
- Đồng chí Đinh Chương Long, với bí danh là Lý Văn minh,
- Đồng chí Vương Thúc Thoại, với bí danh là Lý Thúc Chất
-
Đồng
chí
Hồng
Tự,
với
bí
danh
là
Lý
Anh
Tự
- Đồng chí Ngơ Chí Thơng, với bí danh là Lý Trí Thơng
- Đồng chí Ngơ hậu Đức, với bí danh là Lý Phương Đức
- Đồng chí Nguyễn Thị Tích, với bí danh là Lý Phương Thuận
- Đồng chí Nguyễn Sinh Thản, với bí danh là Lý Nam Thanh.
* Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930), Đảng đã thấy rõ
tầm quan trọng của việc xây dựng tổ chức Đoàn. Tại Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng lần thứ hai họp từ ngày 20/3 đến 26/3/1931,
Trung ương Đảng đã dành một ngày trong thời gian Hội nghị để bàn và
quyết định những vấn đề quan trọng về công tác vận động thanh niên của
Đảng. Xuất phát từ ý nghĩa đặc biệt ấy, được sự đồng ý của Bộ Chính trị
và Bác Hồ, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ III (họp từ ngày 22 đến
25/3/1961 tại Hà Nội) đã quyết định lấy ngày 26/3/1931 là ngày thành lập
Đồn.
* Chủ tịch Hồ Chí Minh là Người sáng lập và rèn luyện Đồn
TNCS Hồ Chí Minh. Bác không những quan tâm, chăm lo cho thế hệ trẻ
mà còn là tấm gương tiêu biểu cho thế hệ trẻ noi gương học tập.
* Ngày trực tiếp giáo dục, giác ngộ và sáng lập ra tổ chức Đoàn TNCS Hồ
Chí Minh là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
* 8 Đồn thanh niên cộng sản đầu tiên:
1. Lê Hữu Trọng - Bí danh Lý Tự Trọng.
2. Đinh Chương Long - Bí danh Lý Văn Minh.
3. Vương Thúc Thoại - Bí danh Lý Thúc Chất.
4. Hồng Tự - Bí danh Lý Anh Tự .
5. Ngơ Trí Thơng - Bí danh Lý Trí Thơng.
6. Ngơ Hậu Đức - Bí danh Lý Phương Đức (nữ).
7. Nguyễn Thị Tích - Bí danh Lý Phương Thuận (nữ)
8. Lý Nam Thanh.
Câu 2: Từ khi thành lập đến nay Đồn TNCS Hồ Chí Minh đã mấy lần
đổi tên? Bạn hãy cho biết ý nghĩa của việc đổi tên gọi của Đoàn qua
các thời kỳ?
Trả lời:
Theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ ba (tháng
3/1961), ngày 26/3/1931, được lấy là ngày thành lâp Đồn TNCS Hồ Chí
Minh. Cho đến nay, trải qua 75 năm xây dựng và phát triển, Đoàn đã mang
nhiều tên gọi khác nhau. Điều này không chỉ đáp ứng nhu cầu, nhiệm vụ
cách mạng của từng thời kỳ lịch sử mà cịn thể hiện q trình trưởng thành
của tổ chức Đồn.
1. Đồn thanh niên Dân chủ Đơng Dương.
- Mùa hè năm 1935 trước những chuyển biến tích cực của tình hình thế giới
và trong nước , Hội nghị TƯ (tháng 7/1936) đã định ra đường lối, phương
pháp
tổ chức và đấu tranh
cách
mạng
trong
thời kì mới.
- Thực hiện chủ trương trên Mặt trận Thống nhất Dân chủ được thành lập
nhằm tập trung mũi nhon đấu tranh chống bọn phản động thuộc địa và tay
sai, đòi các quyền tự do, dân chủ cải thiện đời sống. Tại Hội nghị công tác
vận động thanh niên cũng đặc biệt được coi trọng. Theo đó, thưịi kì cánh
mạng từ giữa năm 1936 đến mùa thu năm 1939 , Đồn thanh niên Cộng sản
Đơng Dương đ]ợc đổi tên thành Đồn Thanh niên dân chủ Đơng Dương.
- Việc đổi tên tổ chức Đoàn đã đáp ưngd được mục tiêu đấu tranh cách
mạng trong giai đoạn 1936 – 1939. Ngồi ra cịn tạo điều kiện cho Đồn có
thể ra hoạt động, đấu tranh cơng khai theo chủ trương của Đảng.
2. Đồn thanh niên Phản đế Đơng Dương
- Tháng 11 năm 1939 Hội nghị TƯ 6 của Đảng đã ra Nghị quyết nhấn
mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc trở thành nhiệm vụ hàng đầu của Cách
mạng Việt Nam. Hội nghị đã chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất
Dân tộc Phản đế Đông Dương. Theo chủ trương của Đảng, Đồn Thanh
niên Dân chủ Đơng Dương mang tên mới là Đồn Thanh niên Phản đé
Đơng Dương tiếp nối sự nghiệp vẻ vang của các tổ chức TNCS và TNDC
trước đây.
3. Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam.
- Tháng 11/1940, Hội nghị T.Ư Đảng lần thứ 7 đã nhấn mạnh mục tiêu
Cứu Quốc của cách mạng Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị nhấn mạnh”…
Việt Nam Thanh niên Cứu quốc… là toàn thể tất thảy thanh niên từ 18 đến
22
tuổi
muốn
tranh
đấu
đánh
Pháp,
đuổi
Nhât”.
- Tại Hội nghị T.Ư Đảng lần thứ 8 (tháng 5/1941), Nguyễn Ái Quốc đã
quyết định thành lập Mặt trạn Việt Minh và các Hội Cứu quốc trong đó có
Đồn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam nhằm tập hợp hết thảy mọi lực vào
mục tiêu đánh đổ tổ quốc, tay sai giải phóng dân tộc, giành lại độc lập tự
do.
4. Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam.
- Sau năm 1954 cách mạng Việt Nam chuyển sang thời kỳ mới: thời kỳ đấu
tranh xây dựng Chủ nghĩa xã hội miền Bắc và giải phóng miền Nam hồn
thành thống nhất nước nhà.
- Trước tình hình mới của cách mạng Việt Nam, tháng 9/1954, Bộ Chính trị
T.Ư Đảng đã chủ trương đổi tên Đoàn TNCQ Việt Nam thành Đoàn Thanh
niên Lao động Việt Nam.
5. Đồn Thanh niên lao động Hồ Chí Minh.
- Thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đáp ứng
nguyện vọng của thế hệ trẻ Việt Nam và theo đề nghị của Đoàn TNLĐ Việt
Nam, nhân dịp kỉ niệm lần thứ 40 ngày thành lập Đảng (3/2/1930 3/2/1970), BCH T.Ư Đảng đã ra nghị quyết cho Đoàn Thanh niên và Đội
Thiếu niên, Đội nhi đồng được mang tên vị Lãnh tụ vĩ đại của dân tộc - Hồ
Chí Minh. Theo đó Đồn Thanh niên đổi tên thành Đồn Thanh niên lao
động Hồ Chí minh.
6. Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
- Sau kháng chiến chống mĩ thắng lợi, ngày 26/3/1976, nhân dịp Lễ kỷ
niệm lần thứ 45 ngày htành lập Đoàn, các tổ chức Đoàn trong cả nước đã
thống nhất mang tên chung là Đồn TNLĐ Hồ Chí Minh. Tại Đại hội lần
thứ IV của Đảng (tháng 12/1976) đã quyết định đổi tên Đoàn TNLĐ Hồ
Chí Minh thành Đồn Thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh.
* Ý nghĩa của việc đổi tên Đồn qua các thời kỳ.
Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt lịch sử đấu tranh cách mạng giải
phóng dân tộc, Đồn TNCS Hồ Chí Minh ln thể hiện là lực lưọng xung
kích đi đầu trong sự nghiệp cách mạng dân tộc. Việc đổi tên đó khơng chỉ
đáp ứng những u cầu của cách mạng qua từng chặng đường lịch sử của
tổ chức Đồn mà qua đó lực lượng thanh niên luôn được tổ chức, giáo dục
thành những chiến sĩ cách mạng tiên phong thực hiện thành công những
đường lối, chủ trương cách mạng của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh.
Câu 3 :Bạn hãy nêu những truyền thống vẻ vang của tuổi trẻ Việt Nam
và của Đồn TNCS Hồ Chí Minh 75 năm qua?
Trả lời:
Suốt 75 năm cống hiến và trưởng thành dưới ngọn cờ của Đảng quang vinh
và Bác Hồ kính u, Tổ chức Đồn và tuổi trẻ nước ta đã xây đắp nên
những truyền thống vẻ vang, đó là:
- Truyền thống yêu nước nồng nàn, gắn bó thiêt tha, trung thành tuyệt đối
với Đảng, với nhân dân, với chế độ XHCN.
Truyền thống quý báu này đã tạo nên động lực vô giá xuyên suốt các thời
kỳ lịch sủ. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, điều kiện nào, tuyệt đại bộ phận
thanh niên luôn siết chặt hàng ngũ xung quanh Đảng lãnh đạo, chấp hành
nghiêm chỉnh các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Truyền thống của đội qn xung kích cách mạng, dám đón lấy những
nhiệm vụ nặng nề, dám đi đến những nơi khó khăn, gian khổ, dám suy nghĩ
sáng tạo để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Thực hiện lời dạy của Bác Hồ:
“ Đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên”, thế hệ trẻ nước ta luôn
nêu cao tinh thần hăng hái, sẵn sàng xung phong đi những nơi Tổ quốc cần,
dù đó là biên cương hay hải đảo, dù cơng việc đó là mới mẻ hay khó khăn.
- Truyền thống gắn bó đồn kết trong lớp người cùng lứa tuổi, trong các tổ
chức Đoàn và Hội. đoàn kết gắn bó với nhân dân; thương yêu giúp đỡ nhau
trong hoạn nạn, đặc biệt là vào những thời điểm phải đối mặt với kẻ thù
hay thiên tai. Đoàn kết dân tộc và đồn kết quốc tế ln hịa quyện với
nhau, thơng cảm và đồng tâm hợp lực vì những mục tiêu cao cả của dân tộc
và thời đại.
- Truyền thống hiếu học, ham hiểu biết để tự mình nâng cao trình độ chính
trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật, quản lý và quân sự… say mê sáng tạo trong
hạot động thực tiễn để cống hiến cho sự nghiệp của dân tộc và của Đảng.
Học ở nhà trường, học trong cuộc sống, học để làm người có ích cho xã hội
luôn được thanh niên ta phấn đấu thực hiện ngày càng tốt hơn.
Phát huy những truyền thống quý báu nêu trên, các thế hệ đoàn viên, hội
viên thanh niên, đội viên thiếu niên và nhi đồng ở nước ta đẫ tiếp bước theo
nhau góp phần đưa sự nghiệp cách mạng của nước ta ngày càng phát triển
mạnh mẽ vượt qua mọi khó khăn, thử thách đạt nhiều thắng lợi hết sức to
lớn, những kỳ tích vẻ vang trong thế kỷ vẻ vang trong thế kỷ XX làm cho
tổ quốc chúng ta có vị thế xứng đáng trong cộng đồng quốc tế, vững tiến
vào thế kỷ XXI.
Câu 4: Bạn hiểu thế nào là “Sống đẹp – Sống có ích”? Bạn hãy kể thật
ngắn gọn một hành động, một việc làm của bạn hặc một người thân
của bạn mà bạn cho rằng là “Sống có ích”?
Trả lời:
* “Sống đẹp – Sống có ích “, trước hết là: sống có mục đích, có lý tưởng,
có ước mơ, hồi bão, có ý thức đầy đủ về Đức – trí – thể – mỹ, có lỗi sống
giản dị trong sáng, lành mạnh và quan hệ đúng mực, đoàn kết, tương thân,
tương ái, đồng thời nâng cao tinh thần xung kích, tình nguyện, đi đầu trong
mọi hoạt động.
Mặt khác: khơng ngừng học hỏi, tìm hiểu truyền thống văn hóa dân tộc và
nhân loại, nâng cao năng lực của bản thân cho công cuộc xây dựng và bảo
vệ tổ quốc.
- Sống và làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật, kiên quyết đấu tranh bài
trừ các tệ nạn xã hội với những lối sống tha hóa và những quan niệm sai
lệch, giáo dụ mọi người cùng tiến bộ.
* Hãy kể thật ngắn gọn một hành động, một việc làm của bạn hoặc một
người thân của bạn mà bạn cho rằng là “Sống đệp – Sống có ích”?
Câu 5.:Từ thực tế học tập cơng tác của mình, bạn có đề xuất gì để xây
dựng tổ chức Đoàn, Hội vững mạnh, mở rộng đoàn kết tập hợp Thanh
niên, phát huy vai trò của tuổi trẻ trong sự nghiệp CNH – HĐH đất
nước. (Bài viết không quá 1.500 từ).
Trả lời:
- Trước hết cần phải chú trọng việc nâng cao chất lượng đoàn viên trên cơ
sở những tiêu chí, mơ hình chất lượng đồn viên, chất lượng chi đoàn.
- Chú trọng đào tạo, sử dụng và phát huy tính tích cực cá nhân, để mỗi
đồn viên, cán bộ đoàn nhận thấy niềm vinh dự và tự hào, thấy rõ được rõ
vai trò của họ đối với tập thể, đối với xã hội…
- Đối với phương thức hoạt động đoàn, cải tiến sinh hoạt, chú trọng quan
tâm giải đáp nhu cầu, nguyện vọng của Đoàn viên, thanh niên một cách
thiết thực và bảo vệ chăm lo lợi ích của thanh thiếu niên.
- Mọi hoạt động cuả chi đoàn, Đoàn cơ sỏ phải đảm bảo sự lãnh đạo của
cấp ủy Đảng, sự quan tâm của chính quyền và sự phối hợp của các đoàn thể
nhằm lồng ghép các nội dung hoạt động của hệ thống chính trị, đảm bảo
tính chủ động, tích cực của các đoàn viên…
GỢI Ý TRẢ LỜI CÁC CÂU HỎI CUỘC THI TÌM HIỂU
“80 NĂM TRUYỀN THỐNG VẺ VANG CỦA ĐỒN TNCS HỒ CHÍ
MINH”
------------------------------------
CÂU 1: Bạn hãy cho biết Đồn TNCS Hồ Chí Minh thành lập ngày,
tháng, năm nào? Do ai sáng lập? Từ khi thành lập đến nay Đoàn TNCS
Hồ Chí Minh đã mấy lần đổi tên? Ý nghĩa việc đổi tên gọi của Đoàn qua
các thời kỳ?
Gợi ý trả lời:
* Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930), Đảng đã
thấy rõ tầm quan trọng của việc xây dựng tổ chức Đoàn. Tại Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai họp từ ngày 20/3 đến
26/3/1931, Trung ương Đảng đã dành một ngày trong thời gian Hội nghị
để bàn và quyết định những vấn đề quan trọng về công tác vận động
thanh niên của Đảng. Xuất phát từ ý nghĩa đặc biệt ấy, được sự đồng ý
của Bộ Chính trị và Bác Hồ, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ III (họp từ
ngày 22 đến 25/3/1961 tại Hà Nội) đã quyết định lấy ngày 26/3/1931 là
ngày thành lập Đồn.
* Chủ tịch Hồ Chí Minh là Người sáng lập và rèn luyện Đồn
TNCS Hồ Chí Minh. Bác không những quan tâm, chăm lo cho thế hệ trẻ
mà còn là tấm gương tiêu biểu cho thế hệ trẻ noi gương học tập.
* Từ ngày 26/3/1931 đến nay, để phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ
của từng thời kỳ cách mạng, Đoàn đã đổi tên nhiều lần:
- Từ 1931 - 1936: Đồn TNCS Việt Nam; Đồn TNCS Đơng
Dương.
- Từ 1937 - 1939: Đồn Thanh niên Dân chủ Đơng Dương.
- Từ 11/1939 - 1941: Đoàn Thanh niên phản đế Đơng Dương.
- Từ 5/1941 - 1956: Đồn Thanh niên cứu quốc Việt Nam.
- Từ 25/10/1956 - 1970: Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam.
- Từ 2/1970 - 11/1976: Đoàn Thanh niên lao động Hồ Chí Minh.
- Từ 12/1976 đến nay: Đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.
* Ý nghĩa việc đổi tên gọi của Đoàn qua các thời kỳ:
- Đồn Thanh niên cộng sản Đơng Dương: Tháng 5/1935, Mặt trận
Nhân dân Pháp được thành lập và sau đó giành được đa số phiếu trong
cuộc bầu cử Quốc hội tháng 6/1936. Chính phủ phái tả lên cầm quyền ở
Pháp. Căn cứ diễn biến tình hình thế giới và trong nước, tháng 7/1936,
Hội nghị T.Ư Đảng đã định ra đường lối, phương pháp tổ chức và đấu
tranh cách mạng trong thời kỳ mới. Nhiệm vụ của Đảng và nhân dân ta
lúc này là tập trung mũi nhọn đấu tranh chống bọn phản động thuộc địa và
tay sai, đòi các quyền tự do, dân chủ, cải thiện đời sống. Vì vậy, Đảng chủ
trương lập Mặt trận Nhân dân Phản đế sau đổi thành mặt trận Thống nhất
Dân chủ. Hội nghị BCH T.Ư Đảng họp tháng 7/1936 đã ra những quyết
định quan trọng nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác
vận động thanh niên. Theo đó, trong thời kỳ cách mạng từ giữa năm 1936
đến mùa thu năm 1939, Đồn Thanh niên Cộng sản Đơng Dương mang tên
Đồn Thanh niên Dân chủ Đơng Dương.
- Đồn Thanh niên Phản đế Đông Dương: Tháng 11/1939, T.Ư
Đảng họp Hội nghị lần thứ 6 tại Bà Điểm (Hóc Mơn, Gia Định). Nghị
quyết Hội nghị nhấn mạnh giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của
CMGP dân tộc, là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Đông Dương. Hội
nghị chủ trương lập Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương
nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các giai cấp và dân tộc ở
Đông Dương để đánh đổ đế quốc Pháp và tay sai của chúng. Theo chủ
trương của Đảng, Đồn Thanh niên Dân chủ Đơng Dương mang tên mới
là Đồn Thanh niên Phản đế Đơng Dương tiếp nối sự nghiệp vẻ vang của
các tổ chức TNCS và TNDC trước đây.
- Đoàn Thanh niên cứu quốc Việt Nam: Tháng 11/1940, Hội nghị
TƯ Đảng lần thứ 7 họp tại Đình Bảng (Bắc Ninh) trong đó có phần nói
về: “Vấn đề tổ chức các đoàn thể quần chúng”. Nghị quyết hội nghị ghi:
“Vì chính sách của Đảng ta hiện tại là chính sách cứu quốc cho nên mục
đích các hội quần chúng cũng xoay về việc cứu quốc là cốt yếu… Việt
Nam thanh niên Cứu quốc từ nay là đoàn thể của tất thảy thanh niên từ 18
đến 22 tuổi muốn tranh đấu đánh Pháp, đuổi Nhật”.
Tháng 5/1941, Hội nghị lần thứ 8 của TƯ Đảng họp tại Pắc Bó
(Cao Bằng) do Nguyễn Ái Quốc, đại diện của Quốc tế cộng sản triệu tập
và chủ trì. Hội nghị đã nêu một quyết tâm sắt đá: “Trong lúc này, nếu
không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, khơng địi được độc lập,
tự do cho tồn thể dân tộc, thì chẳng những tồn thể quốc gia dân tộc cịn
chịu mãi kiếp trâu ngựa, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm
cũng khơng địi lại được”. Để tập hợp động viên các tầng lớp nhân dân
đứng lên đánh đuổi phát xít Pháp - Nhật, Hội nghị quyết định thành lập
Việt Nam Độc lập đồng minh (Gọi tắt là Việt Minh) và các Hội cứu quốc,
trong đó có: Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam - một tổ chức của
những thanh niên yêu nước tiếp nối sự nghiệp của các tổ chức thanh niên
do Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập và lãnh đạo trước đó.
- Đồn Thanh niên Lao động Việt Nam: Tháng 7/1954, hịa bình
được lập lại trên miền Bắc, căn cứ vào tình hình và nhiệm vụ mới, Bộ
Chính trị T.Ư Đảng trong phiên họp tháng 9/1954 đã chủ trương đổi tên
Đoàn TNCQ Việt Nam thành Đoàn TNLĐ Việt Nam và xây dựng Đồn
TNLĐ Việt Nam thành một tổ chức thực sự có tác dụng là lực lượng dự
trữ và cánh tay của Đảng.
- Đồn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh: Ngày 2 - 9 - 1969, Chủ
tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của Đảng và nhân dân Việt Nam, Anh hùng
giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới, người sáng lập rèn luyện
Đoàn ta qua đời. Toàn thể cán bộ, ĐVTN và đội viên thiếu niên, nhi đồng
nước ta vĩnh biệt Người với nỗi xót thương vơ hạn. Thực hiện Di chúc
thiêng liêng của Bác, đáp ứng nguyện vọng của thế hệ trẻ và theo đề nghị
của Đoàn TNLĐ Việt Nam, nhân dịp kỉ niệm lần thứ 40 ngày thành lập
Đảng (3/2/1930 - 3/2/1970), BCH T.Ư Đảng đã ra Nghị quyết cho Đoàn
Thanh niên và đội thiếu niên, Đội Nhi đồng được mang tên Bác.
- Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh: Đại hội lần thứ IV của
Đảng họp từ ngày 14 đến 20/12/1976 tại Thủ đô Hà Nội đã quyết định đổi
tên đảng Lao động Việt Nam (2 - 1951) thành Đảng Cộng Sản Việt Nam và
thể theo nguyện vọng của cán bộ, ĐVTN cả nước, Đại hội Đảng lần thứ IV
đã quyết định đổi tên Đồn TNLĐ Hồ Chí Minh thành Đồn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh.
CÂU 2: Trải qua 80 năm lịch sử vẻ vang của Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh đã có những thế hệ đồn viên, thanh niên nào được vinh danh dưới
ngọn cờ vinh quang của Đảng cộng sản Việt Nam?
Gợi ý trả lời:
Trải qua 80 năm truyền thống vẻ vang của Đồn TNCS Hồ Chí
Minh, lịch sử cách mạng Việt Nam tự hào chứng kiến 5 thế hệ đoàn viên,
thanh niên được vinh danh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng cộng sản Việt
Nam.
- Thế hệ đoàn viên thanh niên tham gia Dựng Đảng, Dựng Đoàn
và làm nên cuộc Cách mạng Tháng tám thần kỳ mà tiêu biểu là Ngô Gia
Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Lý Tự Trọng, Châu văn Liêm, Hồng Quang, Hà
Văn Mạnh… với bản “Tuyên ngôn” bất tử của người chiến sỹ cộng sản
trẻ tuổi Lý Tự Trọng trước toàn án đế quốc: “Con đường của thanh niên
chỉ là con đường cách mạng, khơng thể có con đường nào khác”.
- Thế hệ đồn viên thanh niên Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh làm
nên trận Điện Biên chấn động địa cầu, mà tiêu biểu là Lê Gia Định,
Nguyễn Ngọc Nại, Võ Thị Sáu, Ngơ Mây, Cù Chính Lan, Phan Đình
Giót, Bế Văn Đàn, Tỗ Vĩnh Diện… cùng hàng triệu người con ưu tú khác
của dân tộc cầm vũ khí đứng lên đánh bại đế quốc, thực dân mở ra thời
kỳ chiến đấu giải phóng dân tộc cho nhiều nước thuộc địa trên thế giới.
- Thế hệ đoàn viên, thanh niên Ba sẵn sàng, Năm xung phung,
Quyết chiến Quyết thắng xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, đem giang
sơn về một mối, mà tiêu biểu là Trần Thị Lý, Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn
Viết Xuân, KpaKơlơn, Lê Thị Hồng Gấm, Đoàn Thị Liên, Trịnh Tố Tâm,
Vũ Xuân Thiều, Đặng Thùy Trâm… cùng hàng chục triệu người con ưu
tú khác của dân tộc kiên cường với chân lý “Khơng có gì q hơn Độc
lập, tự do” của Đảng và Bác Hồ sẵn sàng cống hiến tuổi thanh xuân hiên
ngang “Nhằm thẳng quân thù bắn!” đánh bại tên đế quốc giàu mạnh nhất
hành tinh.
- Thế hệ đoàn viên, thanh niên xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa, ra sức phấn đấu lập thân, lập nghiệp, đi đầu thực hiện đường
lối đổi mới đất nước của Đảng khơng ngại gian khổ, khơng sợ khó khăn,
dám nghĩ, dám làm, quyết không cam chịu nghèo nàn, lạc hậu cống hiến
hết mình vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
- Thế hệ đồn viên, thanh niên xung phong tình nguyện, năng
động xung kích, sáng tạo, sẵn sàng lên rừng, ra biển, đi đến bất cứ nơi
đâu Tổ quốc cần, sẵn sàng tình nguyện vì cộng đồng, đồng hành cùng
thanh niên trong học tập, rèn luyện, lao động, công tác với khát vọng góp
phần đắc lực đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước để một ngày
không xa Việt Nam tự hào “sánh vai các cường quốc năm châu” như lời
Bác dạy.
CÂU 3: Bạn hãy cho biết hai phong trào lớn “Ba sẵn sàng” trong
thanh niên miền Bắc và “Năm xung phong” trong thanh niên miền Nam
được phát động trong nhiệm kỳ Đại hội Đồn tồn quốc lần thứ mấy?
Những nội dung chính của hai phong trào này?
Gợi ý trả lời:
Trong nhiệm kỳ Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ III (1961 - 1980)
đã phát động 9 phong trào lớn, trong đó có phong trào “Ba sẵn sàng”
trong thanh niên Bắc và phong trào “Năm xung phong” trong thanh niên
miền Nam.
Khởi đầu của phong trào thanh niên “Ba sẵn sàng” là ở Thủ đô Hà
Nội. Ngày 9-8-1964, chỉ 4 ngày sau khi đế quốc Mỹ dựng lên “Sự kiện vịnh
Bắc Bộ”, cho không quân, hải quân đánh phá ác liệt một số điểm ở miền
Bắc, Ban Chấp hành Thành đoàn Hà Nội đã phát động phong trào “Ba sẵn
sàng” trong đoàn viên, thanh niên Thủ đô, thu hút được 26 vạn bạn trẻ tham
gia. Nội dung phong trào là: sẵn sàng chiến đấu; sẵn sàng nhập ngũ; sẵn
sàng đi bất cứ nơi nào Tổ quốc cần đến.
Đáp ứng nguyện vọng tha thiết của tuổi trẻ miền Bắc, hưởng ứng
lời kêu gọi chống Mỹ, cứu nước của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và
Bác Hồ, tháng 2 -1965, Ban Chấp hành Trung ương Đoàn đã phát động
thế hệ trẻ cả nước hưởng ứng phong trào “Ba sẵn sàng” của thanh niên
Hà Nội, với các nội dung như sau: sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu dũng
cảm và sẵn sàng gia nhập các lực lượng vũ trang nhân dân; sẵn sàng khắc
phục khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, học tập trong bất kỳ tình huống nào;
sẵn sàng đi bất cứ nơi nào, làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc cần đến.
Cùng với phong trào “Ba sẵn sàng” của tuổi trẻ miền Bắc, tháng 3
- 1965, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Cục miền Nam, Đoàn Thanh
niên Nhân dân Cách mạng Việt Nam đã phát động phong trào “Năm xung
phong” để tập hợp, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp thanh niên miền Nam
tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tiến tới thống nhất nước
nhà. Nội dung của phong trào “Năm xung phong” là: xung phong tiêu
diệt thật nhiều sinh lực địch; xung phong tòng quân giết giặc; xung phong
trong các cuộc đấu tranh chính trị ở nông thôn cũng như đô thị; xung phong
phục vụ tiền tuyến, vào các đội thanh niên xung phong công tác phục vụ
chiến trường; xung phong sản xuất nông nghiệp trong nông thôn.
Phong trào “Ba sẵn sàng” và phong trào “Năm xung phong” đã trở
thành phong trào thi đua yêu nước, cuốn hút hàng triệu đoàn viên và
thanh niên ở cả hai miền Nam - Bắc tham gia bằng những hoạt động cách
mạng cụ thể, góp phần đưa sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước phát triển
mạnh mẽ, giành được những thắng lợi to lớn.
Tiền thân của tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là
gì?
--------tra
loi-----------
Từ khi thành lập đến nay Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã
mấy lần đổi tên? Bạn hãy cho biết ý nghĩa của việc đổi tên gọi của Đoàn
qua các thời kỳ?
1. Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương
Tháng 5/1935, Mặt trận Nhân dân Pháp được thành lập và sau đó giành
được đa số phiếu trong cuộc bầu cử Quốc hội tháng 6/1936. Chính phủ
phái tả lên cầm quyền ở Pháp. Căn cứ diễn biến tình hình thế giới và
trong nước, tháng 7/1936, Hội nghị Trung ương Đảng đã định ra đường
lối, phương pháp tổ chức và đấu tranh cách mạng trong thời kỳ mới.
Nhiệm vụ của Đảng và nhân dân ta lúc này là tập trung mũi nhọn đấu
tranh chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi các quyền tự do, dân
chủ, cải thiện đời sống. Vì vậy, Đảng chủ trương lập Mặt trận Nhân dân
Phản đế sau đổi thành Mặt trận Thống nhất Dân chủ.
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng họp tháng 7/1936 đã ra những
quyết định quan trọng nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác vận động thanh niên.
Theo đó, trong thời kỳ cách mạng từ giữa năm 1936 đến mùa thu năm
1939, Đoàn Thanh niên Cộng sản Đơng Dương mang tên Đồn Thanh
niên Dân chủ Đơng Dương phù hợp với nhiệm vụ chính trị qua các nghị
quyết của Đảng như trên đã nêu.
Đoàn Thanh niên Dân chủ hoạt động cơng khai, có cơ quan báo chí riêng,
đó là các tờ “Bạn dân”, “Thế giới”, “Mới” phát hành ở cả ba miền đất
nước. Đoàn đã xây dựng đội ngũ của mình gồm hàng vạn đồn viên, đấu
tranh kiên cường dưới ngọn cờ của Đảng, tiếp nối truyền thống vẻ vang
của Đồn Thanh niên Cộng sản Đơng Dương (1931 – 1935).
Ngoài việc phát hành báo, tổ chức Đoàn còn lập các Hội đọc sách, Hội
văn nghệ, Hội thể thao, đặc biệt là hình thành các nhóm nghiên cứu chủ
nghĩa Mác.
Nhiều tác phẩm chính trị, văn học của K.Marx. F.Engels, V.I.Lenin,
Gorki… như: “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”, “Tư bản”, “Nhà nước là
gì?”, “Người mẹ”… cũng như các cuốn sách do các chiến sĩ cộng sản
Việt Nam viết như: “Vấn đề dân cầy” của Qua Ninh và Vân Đình, “Mác
xít phổ thông” của Hải Triều và Thơ Tố Hữu được đơng đảo đồn viên,
thanh niên hân hoan đón đọc.
Được sự quan tâm của các Xứ ủy Đảng, phong trào thanh niên và tổ chức
Đoàn được củng cố, phát triển sâu rộng, có hệ thống từ cơ sở lên đến tỉnh,
thành và xứ.
Tuy nhiên, đến tháng 9/1939, đại chiến thế giới lần thứ 2 bùng nổ. Thực
dân Pháp thẳng tay thi hành chính sách đàn áp, khủng bố phong trào đấu
tranh của các tầng lớp nhân dân và thanh niên ta. Tổ chức Đồn phải trở
lại hoạt động bí mật.
2. Đồn Thanh niên Phản đế Đơng Dương
Tháng 11/1939, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 6 tại Bà Điểm
(Hóc Mơn, Gia Định). Nghị quyết Hội nghị nhấn mạnh giải phóng dân
tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng giải phóng dân tộc, là nhiệm vụ
hàng đầu của cách mạng Đông Dương.
Hội nghị chủ trương lập Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đơng
Dương nhằm đồn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các giai cấp và dân
tộc ở Đông Dương để đánh đổ đế quốc Pháp và tay sai của chúng.
Theo chủ trương của Đảng, Đồn Thanh niên Dân chủ Đơng Dương
mang tên mới là Đồn Thanh niên Phản đế Đơng Dương tiếp nối sự
nghiệp vẻ vang của các tổ chức thanh niên cộng sản và thanh niên dân
chủ trước đây. Đoàn đã xây dựng được cơ sở ở nông thôn, trong nhà máy
và các trường học.
Trong tình hình mới, tổ chức Đồn hoạt động bí mật và được tổ chức chặt
chẽ. Những Đồn viên thanh niên Dân chủ được thử thách, lựa chọn và
chuyển thành Đoàn viên thanh niên Phản đế, các hội viên thanh niên
trong các tổ chức thanh niên phổ thông được giao những cơng tác thích
hợp để thử thách bồi dưỡng.
Tháng 9/1940, Phát xít Nhật xâm lược Đơng Dương. Từ đây nhân dân
Việt Nam một cổ hai tròng, bị hai kẻ thù là phát xít Nhật và thực dân
Pháp cùng thống trị.
Nhưng nhân dân Việt Nam và thế hệ thanh niên nước ta thời kỳ này
không chịu khuất phục: Tháng 9/1940, khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra; tháng
11/1940, khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ với sự xuất hiện lần đầu tiên lá Cờ
đỏ Sao Vàng; tháng 1/1941, nổ ra cuộc binh biến ở đồn Chợ Rạng và đồn
Đô Lương.
Các tổ chức Đồn Thanh niên Dân chủ sau đó là Đồn Thanh niên Phản
đế đã vận động thanh niên đi đầu trong các cuộc đấu tranh và khởi nghĩa
vũ trang từng phần, báo hiệu một thời kỳ mới: chuẩn bị tiến tới tổng khởi
nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
3. Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam
Tháng 11/1940, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 họp tại Đình Bảng
(Bắc Ninh) trong đó có phần nói về: “Vấn đề tổ chức các đồn thể quần
chúng”.
Nghị quyết hội nghị ghi: “Vì chính sách của Đảng ta hiện tại là chính
sách cứu quốc cho nên mục đích các hội quần chúng cũng xoay về việc
cứu quốc là cốt yếu…
… Việt Nam thanh niên Cứu quốc từ nay là đoàn thể của tất thảy thanh
niên từ 18 đến 22 tuổi muốn tranh đấu đánh Pháp, đuổi Nhật”.
Ngày 28/1/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bí mật về nước để cùng Ban
chấp hành Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng
Việt Nam. Đây là sự kiện hết sức quan trọng trong tiến trình phát triển
của cách mạng nước ta…
Tháng 5/1941, Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng họp tại Pắc Bó
(Cao Bằng) do Nguyễn Ái Quốc, đại diện của Quốc tế cộng sản triệu tập
và chủ trì. Hội nghị đã nêu một quyết tâm sắt đá:
“Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng,
khơng địi được độc lập, tự do cho tồn thể dân tộc, thì chẳng những tồn
thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp trâu ngựa, mà quyền lợi của bộ
phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Để tập hợp động viên các tầng lớp nhân dân đứng lên đánh đuổi phát xít
Pháp - Nhật, Hội nghị quyết định thành lập Việt Nam Độc lập đồng minh
(Gọi tắt là Việt Minh) và các Hội cứu quốc, trong đó có: Đồn Thanh
niên Cứu quốc - Việt Nam - một tổ chức của những thanh niên yêu nước
tiếp nối sự nghiệp của các tổ chức thanh niên do Đảng ta và lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc sáng lập và lãnh đạo trước đó.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 có ý nghĩa lịch sử to lớn. Hội nghị
đã hoàn thành việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược trong thời kỳ mới.