Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

tiểu luận TÍCH CỰC HÓA HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.13 KB, 25 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA VẬT LÝ

------

BÀI TIỂU LUẬN
Học phần: TÍCH CỰC HÓA HOẠT ĐỘNG NHẬN

THỨC CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC VẬT LÝ

Giảng viên giảng dạy

: PGS. TS. Lê Văn Giáo

Nhóm thực hiện

: nhóm 5

Thành viên nhóm

: Nguyễn Thị Mỹ Phương
Trần Thị Như Quỳnh
Nguyễn Thị Ngọc Quỳnh
Hà Duy Son
Nguyễn Văn Tú

Lớp

: LL&PP dạy học bộ môn Vật lý k24
Huế, tháng 4 năm 2017




MỞ ĐẦU
Chúng ta đang ở vào giai đoạn toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế - xã hội sâu
rộng. Mặt khác, xã hội ngày càng phát triển, lượng thông tin khổng lồ, công nghệ
thông tin có những bước tiến như vũ bão,… kéo theo yêu cầu đối với con người
ngày một cao hơn. Trong tình hình đó, nhiệm vụ của giáo dục càng nặng nề thêm.
Mục đích cuối cùng của giáo dục là đào tạo ra những con người có nhân cách hoàn
thiện, thích ứng với mọi hoàn cảnh và biến đổi của xã hội. Trước yêu cầu đổi mới
giáo dục thì việc tích cực hóa HĐNT của HS càng trở nên bức thiết hơn.
Nếu bạn làm việc (học tập) tích cực thì kết quả thường như thế nào? Rất tốt và
ít nhất bạn cảm thấy hưng phấn để tiếp tục làm (học) những việc tiếp theo. Nếu bạn
luôn làm việc tích cực chắc chắn công việc của bạn sẽ trôi chảy, tiến bộ nhanh, được
nâng lương, thăng chức, cảm thấy hạnh phúc hơn, cuộc sống sung túc hơn… Nếu
bạn luôn học tập tích cực thì tất nhiên bạn sẽ phát triển tư duy, có kết quả tốt, có học
bổng, điểm cao,… Tại sao lại không truyền tính tích cực đó cho học sinh (HS)?
Nếu HS luôn tích cực trong hoạt động nhận thức thì tính tích cực sẽ được rèn
luyện thường xuyên, dần trở thành một phần tính cách của HS, về sau các em sẽ dễ
thành công trong cuộc sống, hữu ích cho xã hội.
Là giáo viên, tôi nhận thấy sự cần thiết của việc tích cực hoạt động nhận thức
của học sinh. Vậy nên tôi xin trình bày bài viết về “Một số vấn đề liên quan đến
việc tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh trong dạy học vật lý”.


NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÍCH CỰC
HÓA HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC TRONG DẠY HỌC VẬT LÝ
1.1. Vì sao phải tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS?
1.1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1.1. Bản chất của quá trình dạy học

Quá trình dạy học là một quá trình đặc biệt, trong đó HS vừa là khách thể vừa
là chủ thể chiếm lĩnh tri thức. Bản thân người học (chủ thể) không tích cực thì
không thể thực hiện tốt việc học tập.
Khi bàn về phương pháp giáo dục J.Piaget đã rất nhấn mạnh đến vai trò hoạt
động của HS. Ông nói: “Trẻ em được phú cho tính hoạt động thực sự và giáo dục
không thể thành công nếu không sử dụng và không thực sự kéo dài tính hoạt động
đó”.
Như vậy có thể nói sự hoạt động của trẻ trong quá trình giáo dục và giáo
dưỡng là yếu tố không thể thiếu được và theo tôi để kéo dài hoạt động đó thì việc
tích cực hoá được coi là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất.
Mặt khác, quá trình dạy học có tính nhiều mặt. Quá trình dạy học chứa đựng
trong nó nhiều quá trình khác nhau như: quá trình nhận thức, quá trình tâm lý và
quá trình xã hội. Các quá trình này luôn tồn tại trong hoạt đông dạy học, chúng tác
động qua lại lẫn nhau và tạo nên hiệu quả của quá trính dạy học (QTDH).
* Dạy học là một quá trình tâm lý
Chủ thể của QTDH là con người. Các yếu tố tâm lý như cảm giác, tri giác, ghi
nhớ, động cơ, hứng thú, ý chí… không thể tách rời quá trình dạy học.
Trong dạy học, vấn đề xây dựng động cơ, phát triển hứng thú học tập của HS
có một ý nghĩa rất quan trọng vì nó có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng học tập.
Trong dạy học, bên cạnh quá trình nhận thức chúng ta cần chú ý đến quá trình diễn
biến tâm lý trong tư duy HS. Quá trình tâm lý và quá trình nhận thức có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau trong hoạt động học tập. Do đó cần phải tạo ra quá trình tâm lý
tích cực trong QTDH nhằm làm biến đổi cấu trúc tư duy và đưa đến sự phát triển
của HS.
* Dạy học là một quá trình nhận thức


Mục đích của dạy học là giúp HS lĩnh hội tri thức, phát triển tư duy, trí tuệ và
tình cảm. Vì thế QTDH trước hết phải là quá trình nhận thức. Đó là quá trình nhận
thức có chọn lọc, không phải cái gì cũng đem dạy cho HS và không phải cái gì cũng

được HS tiếp nhận. Quá trình nhận thức của HS phải là một quá trình đi từ việc giải
quyết mâu thuẫn này đến mâu thuẫn khác, từ đó tư duy của HS sẽ được phát triển.
Mục đích của dạy học là đem đến sự phát triển toàn diện cho HS. Điều đó nói
lên rằng giữa dạy học và phát triển có mối quan hệ với nhau. Đó là mối quan hệ hai
chiều, biện chứng: Trước hết phát triển là mục đích cuối cùng của hoạt động dạy
học, đồng thời khi tư duy HS phát triển thì việc thu nhận và vận dụng kiến thức của
HS sẽ nhanh chóng và hiệu quả hơn, quá trình dạy học diễn ra một cách thuận lợi
hơn. Nghĩa là sự hoạt động và trí tuệ của con người có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Không có hoạt động thì trí tuệ không thể phát triển tốt được, bởi vì “Trí tuệ có
bản chất hoạt động, không phải cái gì cũng “nhất thành bất biến”, trí tuệ được hình
thành dần trong mỗi hoạt động cá nhân”.
* Tính chất xã hội của QTDH
Tính chất xã hội của QTDH được mô tả ở nhiều khía cạnh khác nhau. Trước
hết, đó là sự tác động qua lại giữa con người với con người, sự tác động qua lại giữa
GV và HS, giữa HS với nhau. Cũng như sự tác động qua lại giữa con người với xã
hội, đó là sự tác động qua lại giữa thầy giáo và HS với môi trường dạy học (nhà
trường, gia đình, xã hội). Trong phạm vi một giờ học đó là không khí dạy học và sự
tác động qua lại giữa các thành viên trong lớp. Tính chất xã hội của QTDH còn thể
hiện ở kinh nghiệm xã hội của HS và ảnh hưởng của nó đối với quá trình nhận thức
của người học. Vì thế người ta đã có lưu ý: “Trong dạy học thầy giáo cần quan tâm
đến kinh nghiệm sống và điều kiện học tập thực tế của HS để xây dựng nội dung và
kế hoạch học tập thích hợp” và “việc hiểu được tính chất xã hội của dạy học và ảnh
hưởng to lớn của xã hội với nhà trường sẽ giúp GV điều khiển QTDH thuận lợi”.
Tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS là một trong những nhiệm vụ của
thầy giáo trong nhà trường và cũng là một trong những biện pháp nâng cao chất
lượng dạy học. Tuy không phải là vấn đề mới, nhưng trong xu hướng đổi mới dạy
học hiện nay thì việc tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS là một vấn đề được
đặc biệt quan tâm. Nhiều nhà vật lý học trên thế giới đang hướng tới việc tìm kiếm
con đường tối ưu nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS, nhiều công trình
luận án tiến sĩ cũng đã và đang đề cập đến lĩnh vực này. Tất cả đều hướng tới việc

thay đổi vai trò người dạy và người học nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình dạy
học nhằm đáp ứng được yêu cầu dạy học trong giai đoạn phát triển mới. Trong đó
HS chuyển từ vai trò là người thu nhận thông tin sang vai trò chủ động, tích cực
tham gia tìm kiếm kiến thức. Còn thầy giáo chuyển từ người truyền thông tin sang
vai trò người tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ để HS tự mình khám phá kiến thức mới.


Quá trình tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS sẽ góp phần làm cho mối
quan hệ giữa dạy và học, giữa thầy và trò ngày càng gắn bó và hiệu quả hơn. Tích
cực hoá vừa là biện pháp thực hiện nhiệm vụ dạy học, đồng thời nó góp phần rèn
luyện cho HS những phẩm chất của người lao động mới: tự chủ, năng động, sáng
tạo. Đó là một trong những mục tiêu mà nhà trường phải hướng tới.
Tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS là biện pháp phát hiện những quan
niệm sai lệch của HS qua đó thầy giáo có biện pháp để khắc phục những quan niệm
đó. Vì thế việc khắc phục những quan niệm của HS có vai trò quan trọng trong nhà
trường nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS.
1.1.1.2. Theo tâm lý học
Theo triết học, sự vật chỉ phát triển trong sự vận động. Mục đích của quá trình
dạy học là nhằm giúp HS phát triển toàn diện. Như vậy, để quá trình này diễn ra
thuận lợi và đạt kết quả tốt thì bản thân HS phải vận động, phải tích cực hoạt động.
Theo Vưgôtxki dạy học phải đi trước sự phát triển, kéo theo sự phát triển.
Nghĩa là trong dạy học người thầy phải đặt ra cho người học một nhiệm vụ cao hơn
trình độ của họ (nhiệm vụ chứa đựng một khó khăn cần giải quyết). Dưới sự hướng
dẫn, giúp đỡ của thầy giáo, các em tự vươn lên giải quyết được nhiệm vụ học tập và
đạt được trình độ mới. Khoảng cách giữa trình độ hiện tại của người học và nhiệm
vụ học tập đặt ra mà người học có thể giải quyết được với sự nỗ lực cố gắng của
mình, Vưgôtxki gọi đó là vùng phát triển gần.
Xuất phát từ luận điểm khoa học đó, Vưgôtxki cho rằng vùng phát triển gần là
chỗ tốt nhất cho sự phát triển nhận thức. Vùng phát triển gần là khoảng nằm giữa
trình độ phát triển hiện tại được xác định bằng trình độ độc lập giải quyết vấn đề và

trình độ gần nhất mà các em có thể đạt được với sự giúp đỡ của người lớn hay bạn
bè khi giải quyết vấn đề.
Lý thuyết này chỉ ra rằng trẻ em khác nhau có vùng phát triển gần nhất rất
khác nhau và nó phụ thuộc rất nhiều vào năng lực sư phạm và trình độ chuyên môn
của thầy giáo, phụ thuộc vào cách đặt ra nhiệm vụ học tập trước người học thông
qua nghệ thuật nêu vấn đề, nghệ thuật tạo tình huống và nghệ thuật đặt câu hỏi. Đặc
biệt phụ thuộc vào thái độ tích cực tham gia hoạt động nhận thức của HS. Việc tích
cực hoạt động của HS sẽ làm cho vùng phát triển gần của chính họ được mở rộng
qua đó trình độ của HS được phát triển một cách tích cực, chủ động. Đây chính là
cơ sở cho việc tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS trong quá trình dạy học.
Theo Jean Piaget, trí tuệ con người hình thành trong một quá trình lâu dài
thông qua những hoạt động của giác quan và vận động, kết hợp với những hoạt
động của tư duy...Trí óc con người không phải là cái tủ nhiều ngăn, cứ nhét vào
nhiều đồ vật chừng nào hay chừng ấy. Lí thuyết của J. Piaget đề cao vai trò tích cực


của người học trong việc tạo sự thích nghi và cân bằng trước tự nhiên. Theo
J.Piaget, mỗi khi có sự mất cân bằng xuất hiện, thì sự cân bằng phải được tạo qua
cơ chế đồng hoá và điều ứng để thích nghi.
Trong dạy học, khi người học tiếp nhận thông tin thường đưa đến sự mất cân
bằng về nhận thức. Những điều mà họ được tiếp nhận trở nên mới mẻ so với những
gì đã biết, sẽ tạo nên mâu thuẫn về nhận thức trong tư duy người học (hay ta nói có
sự mất cân bằng về nhận thức). Thông qua cơ chế đồng hoá và điều ứng (tìm những
điểm giống nhau và thay đổi những cái tương tự, những cái gần giống nhằm tạo ra
những cái mới có thể tiếp nhận được sau đó sắp xếp lại theo một trật tự thích hợp
với một cấu trúc mới) sẽ làm cho người học có sự thích nghi và đưa đến sự cân
bằng trong nhận thức của họ. Muốn quá trình điều ứng và đồng hóa diễn ra một
cách nhanh chóng thì nhất định bản thân người học phải hoạt động tích cực.
Như vậy, xuất phát từ cơ sở triết học, từ lý thuyết "vùng phát triển gần nhất"
của Vưgôtxki và lý thuyết "cân bằng" của J. Piaget cho thấy việc tích cực hóa hoạt

động nhận thức của HS trong quá trình dạy học là hết sức cần thiết. HS thông qua
hoạt động của mình mà chiếm lĩnh kiến thức, hình thành và phát triển năng lực trí
tuệ cũng như quan điểm đạo đức, thái độ của bản thân.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
1.1.2.1. Yêu cầu đổi mới mục tiêu giáo dục trong thời đại hiện nay
Sự phát triển KT-XH trong bối cảnh toàn cầu hóa đòi hỏi Ngành giáo dục phải
thay đổi một cách toàn diện về mục tiêu, chương trình, nội dung và PPGD cũng như
PPDH nhằm đáp ứng nhu cầu về nhân lực trong thời đại CNH-HĐH.
Nghị quyết lần thứ 4 BCH Trung ương Đảng khóa VII đã chỉ rõ “cần phải đổi
mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học …Áp dụng phương pháp
dạy học hiện đại để bồi dưỡng cho HS năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải
quyết vấn đề”.
Chỉ thị 15/1999/CT-Bộ giáo dục và đào tạo cũng đã nêu rõ yêu cầu của dạy
học hiện nay là: “Phải đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tính chủ động
sáng tạo, năng lực tự học, tự nghiên cứu của HS, sinh viên...”.
Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số
16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 5/5/2006 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo cũng đã
nêu: “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS, phù hợp với
đặc trưng của môn học, đặc điểm của đối tượng HS, điều kiện của từng lớp học.
Bồi dưỡng cho HS phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kĩ năng vận


dụng kiến thứcvào thực tiễn tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và
trách nhiệm học tập cho HS”.
Luật giáo dục, điều 28 đã qui định “Phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của HS phù hợp với đặc điểm của
lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho
HS”. Chỉ thị 15/1999/CT-Bộ giáo dục và đào tạo cũng đã nêu rõ yêu cầu của dạy
học hiện nay là: “Phải đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tính chủ động

sáng tạo, năng lực tự học, tự nghiên cứu của HS, sinh viên...”.
1.1.2.2. Nhu cầu phát triển và hội nhập của xã hội
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sự thách thức của quá trình
hội nhập kinh tế toàn cầu đòi hỏi phải có nguồn nhân lực, người lao động có đủ
phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của xã hội trong giai đoạn mới. Người lao
động phải có khả năng thích ứng, khả năng thu nhận và vận dụng linh hoạt, sáng tạo
tri thức của nhân loại vào điều kiện hoàn cảnh thực tế, tạo ra những sản phẩm đáp
ứng yêu cầu của xã hội.
Giáo dục không chỉ phục vụ số đông mà còn phục vụ cho nhu cầu của số
đông: nhu cầu về các lĩnh vực khác nhau, một người không chỉ giới hạn hiểu biết ở
một lĩnh vực mà có nhu cầu hiểu biết nhiều lĩnh vực khác nhau, làm nhiều nghề
khác nhau. Theo đó, giáo dục cung cấp cho họ những kiến thức, kỹ năng cần thiết,
với những khoảng thời gian linh hoạt, phù hợp, tôn trọng nhu cầu của mọi người.
Con người vốn có sẵn tiềm năng, giáo dục cần và có thể khai thác tối đa tiềm năng
đó, đặc biệt là tiềm năng sáng tạo. Vì vậy có thể nói học tập là sáng tạo. Giáo dục
giúp con người qua học tập trở thành con người có tri thức và kỹ năng mới, tạo điều
kiện cho con người thể hiện mình trên các lĩnh vực, phát triển nhân cách con người.
Trên cơ sở hiểu biết, con người sống tốt hơn, có ích hơn cho bản thân và cộng đồng.
1.1.2.3. Thời đại bùng nổ thông tin
Thời đại ngày nay lượng kiến thức của nhân loại tăng lên hơn gấp nhiều lần
vài chục năm trước đây. Khoa học phát triển mạnh mẽ kéo theo sự phát triển của
nhiều ngành mới, cùng với đó là sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin.
Kiến thức không còn là tài sản riêng của trường học. Trẻ em ngày nay thu lượm
kiến thức rất nhanh và chia sẻ thông tin trong xã hội với tốc độ chóng mặt, mỗi trẻ
em có khả năng tìm kiếm thông tin theo các cách khác nhau. Việc sử dụng công
nghệ mới khiến trẻ có khả năng giải quyết vấn đề và xử lý nhiều thông tin cùng một


lúc. Nếu như dạy học không quan tâm đến đặc điểm của người học, giáo viên truyền
thụ một chiều, dạy kiến thức mang tính thông báo đồng loạt thì sẽ hạn chế khả năng

tiếp thu của người học, người học hoàn toàn thụ động trong việc lĩnh hội kiến thức
đồng thời cuãng sẽ thụ động trước những thách thức khó khăn của cuộc sống.
1.1.2.4. Thực trạng giáo dục hiện nay.
Hiện tại, giáo dục đã qua một số năm thực hiện đổi mới và đã thu được một số
kết quả khả quan, có mang lại hiệu quả. Tuy nhiên, truyền thụ một chiều vẫn là
phương pháp chủ đạo của nhiều giáo viên. Số giáo viên thường xuyên chủ động,
sáng tạo trong việc phối hợp các phương pháp dạy học cuãng như sử dụng các
phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, tự lực, sáng tạo của HS còn chưa
nhiều. Dạy học vẫn nặng nề truyền thụ kiến thức lý thuyết. Mặt khác, việc kiểm tra
đánh giá chưa đảm bảo yêu cầu khách quan, chính xác, công bằng, chưa rèn luyện
được năng lực cần thiết cho HS. Thực trạng này dẫn đến hệ quả nhiều HS phổ thông
còn thụ động trong việc học tập, khả năng sáng tạo và năng lực vận dụng tri thức đã
học để giải quyết các tình huống thực tiễn cuộc sống còn hạn chế.
Bên cạnh đó, nền kinh tế nước ta xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp, ở
đó con người có phong cách làm việc chậm rãi, thiếu tính tích cực, chủ động. Điều
này ăn sâu vào tâm lý và ý thức của HS, làm các em có thói quen không tích cực từ
nhỏ, từ đó ảnh hưởng đến việc học tập trên lớp cũng như tác phong làm việc khi
trưởng thành. Vậy nên, càng cần phải tích cực hóa hoạt động nhận thức của các em
để thay đổi căn bản các thói quen này.
Vây, mục đích của giáo dục là làm cho trẻ nhỏ tự chủ, phát triển tối đa trí
thông minh, khả năng phán đoán, khả năng tư duy độc lập và phản biện. Đây là
những phương tiện quan trọng để các em tự tạo ra kiến thức cho mình, tạo ra thói
quen tự học không phải chỉ trong nhà trường mà suốt đời. Tự chủ trong việc học tập
sẽ tạo thành tập tính nơi HS khi trưởng thành. Người công dân tương lai sẽ có đủ
khả năng làm chủ chính mình, làm chủ cuộc sống của mình, có khả năng tự thay
đổi, biết phát hiện và có khả năng giải quyết, khắc phục những khó khăn - những
vấn đề do cuộc sống đặt ra cho cho mình, cũng như cho môi trường sống xung
quanh.
1.2. Hoạt động nhận thức vật lý
1.2.1. Hoạt động nhận thức vật lý

Vật lý học là bộ môn khoa học nghiên cứu về cấu trúc, tính chất và các hình
thức biến đổi cơ bản nhất của vật chất. Quá trình nhận thức vật lý khá phức tạp,


cùng một lúc phải vận dụng nhiều phương pháp của riêng bộ môn vật lý cũng như
phương pháp của các khoa học khác. Muốn hoạt động nhận thức vật lý có kết quả
trước hết phải quan tâm đến việc hình thành kỹ năng, kỹ xảo thực hiện các thao tác
trên. Bên cạnh đó phải có phương pháp suy luận, có khả năng tư duy trừu tượng, tư
duy logic, tư duy sáng tạo.
1.2.2. Những hành động chính của hoạt động nhận thức vật lý
Hoạt động nhận thức thức vật lý là khá phức tạp. Tuy nhiên có thể kể đến các
hành động chính của hoạt động nhận thức vật lý sau:
– Quan sát hiện tượng tự nhiên, nhận biết đặc tính bên ngoài của sự vật,
hiện tượng.
– Tác động vào tự nhiên, làm bộc lộ những mối quan hệ, những thuộc tính
của sự vật, hiện tượng. Xác định mối quan hệ nhân quả giữa các hiện tượng.
– Xác định mối quan hệ hàm số giữa các đại lượng.
– Xây dựng những giả thiết hay mô hình để lý giải nguyên nhân của hiện
tượng quan sát được. Từ giả thiết, mô hình suy ra những hệ quả.
– Xây dựng các phương án thí nghiệm để kiểm tra các hệ quả.
– Đánh giá kết quả thu được từ thí nghiệm.
– Khái quát hóa kết quả, rút ra tính chất, quy luật hình thành các khái niệm,
định luật và thuyết vật lý.
– Vận dụng kiến thức khái quát vào thực tiễn.
1.3. Tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS
1.3.1. Tính tích cực trong hoạt động nhận thức của HS
Tính tích cực trong hoạt động nhận thức của HS là một hiện tượng sư phạm
biểu hiện ở sự cố gắng hết sức cao về nhiều mặt trong hoạt động nhận thức của trẻ
nói chung. Tính tích cực hoạt động học tập là sự phát triển ở mức độ cao hơn trong
tư duy, đòi hỏi một quá trình hoạt động "bên trong" hết sức căng thẳng với một nghị

lực cao của bản thân, nhằm đạt được mục đích là giải quyết vấn đề cụ thể nêu ra.


Tính tích cực trong hoạt động nhận thức của HS thể hiện ở những hoạt động
trí tuệ là tập trung suy nghĩ để trả lời câu hỏi nêu ra, kiên trì tìm cho được lời giải
hay của một bài toán khó cũng như hoạt động chân tay là say sưa lắp ráp tiến hành
thí nghiệm. Trong học tập hai hình thức biểu hiện này thường đi kèm nhau tuy có
lúc biểu hiện riêng lẻ. Các dấu hiệu về tính tích cực trong hoạt động nhận thức của
HS thường được biểu hiện:
– HS khao khát tự nguyện tham gia trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ
sung các câu trả lời của bạn và thích được phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề
nêu ra.
– HS hay thắc mắc và đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề các em chưa
rõ.
– HS chủ động vận dụng linh hoạt những kiến thức, kỹ năng đã có để nhận
thức các vấn đề mới.
– HS mong muốn được đóng góp với thầy, với bạn những thông tin mới nhận
từ các nguồn kiến thức khác nhau có thể vượt ra ngoài phạm vi bài học, môn học.
Tính tích cực trong hoạt động nhận thức của HS phổ thông có thể phân
biệt theo 3 cấp độ sau:
- Sao chép, bắt chước: Kinh nghiệm hoạt động bản thân HS được tích luỹ
dần thông qua việc tích cực bắt chước hoạt động của giáo viên và bạn bè. Trong
hoạt động bắt chước cũng có sự gắng sức của thần kinh và cơ bắp.
- Tìm tòi, thực hiện: HS tìm cách độc lập suy nghĩ để giải quyết các bài tập
nêu ra, mò mẫm những cách giải khác nhau và từ đó tìm ra lời giải hợp lý nhất cho
vấn đề nêu ra.
- Sáng tạo: HS nghĩ ra cách giải mới, độc đáo, hoặc cấu tạo những bài tập
mới cũng như cố gắng tự lắp đặt những thí nghiệm để chứng minh cho bài học. Lẽ
đương nhiên là mức độ sáng tạo của HS có hạn nhưng đó là mầm móng để phát
triển tính sáng tạo về sau.

1.3.2. Những đặc trưng của tích cực hoá hoạt động nhận thức
Tích cực hóa hoạt động nhận thức trong học tập của HS thực chất là tập hợp
các hoạt động nhằm chuyển biến vị trí từ học bị động sang chủ động, tự bản thân đi
tìm kiếm tri thức để nâng cao hiệu quả học tập.


Đặc trưng cơ bản của tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS trong quá trình
học tập là sự linh hoạt của HS dưới sự định hướng, tổ chức của người tự từ bỏ vai
trò chủ thể (giáo viên) với mục đích cuối cùng là HS tự mình khám phá ra kiến thức
cùng với cách tìm ra kiến thức. Trong quá trình dạy học, để phát huy tính tích cực
trong hoạt động nhận thức của HS thì quá trình dạy học đó phải diễn biến sao cho:
– HS được đặt ở vị trí chủ thể, tự giác, tích cực, sáng tạo trong hoạt động
nhận thức của bản thân.
– Giáo viên là người định hướng trong hoạt động dạy học.
– Quá trình dạy học phải dựa trên sự nghiên cứu những quan niệm, kiến
thức sẵn có của người học, khai thác những thuận lợi đồng thời nghiên cứu kỹ
những chướng ngại có khả năng xuất hiện trong quá trình dạy học.
– Mục đích dạy học không chỉ dừng lại ở việc cung cấp tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo mà còn phải dạy cho HS cách học, cách tự học, tự hoạt động nhận thức
nhằm đáp ứng các nhu cầu của bản thân và xã hội.
1.4. Dạy học vật lý theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức
1.4.1. Quan niệm về phương pháp dạy học theo hướng tích cực
Khi nói tới phương pháp tích cực, thực tế là nói tới một nhóm các phương
pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của HS.
Trong quá trình dạy học cần kích thích sự hứng thú trong học tập cho HS, cần
phát huy tính tích cực, tính tự lực sáng tạo trong học tập của HS. Để làm điều đó đòi
hỏi người thầy giáo phải lựa chọn, tìm tòi những phương pháp dạy học phù hợp với
nội dung bài học, đặc điểm của đối tượng, điều kiện vật chất, và đây là một hoạt
động sáng tạo của người thầy trong hoạt động dạy. Phương pháp dạy học theo
hướng tích cực cần thể hiện được sự phản ánh quá trình hoạt động nhận thức của

HS nhằm đạt được mục đích đã đề ra trong đó giáo viên tổ chức cho HS hoạt động
theo hướng tích cực, giúp HS tự giác tiếp nhận kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo nhằm đạt
được mục đích đề ra với kết quả cao.
1.4.2. Những đặc trưng của phương pháp dạy học theo hướng tích cực
Phương pháp dạy học theo hướng tích cực có những điểm mạnh riêng của nó
mà các phương pháp khác không thể có được, đó là HS lĩnh hội kiến thức bằng
chính sự hoạt động tích cực cao độ của bản thân, tự họ chủ động sáng tạo nên các


vấn đề, các tình huống để nghiên cứu... Phương pháp dạy học theo hướng tích cực
thể hiện bởi các đặc trưng cơ bản sau:
1.4.2.1. Dạy học hướng vào HS
Dạy học hướng vào HS là lối dạy học do người học chủ động điều khiển, cá
nhân của người học vừa là mục đích vừa là chủ thể của quá trình học tập để cho
tiềm năng của mỗi cá nhân được phát triển đầy đủ.
Phương pháp dạy học tích cực đề cao vai trò chủ thể của người học, xem HS
vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của quá trình dạy học. Dĩ nhiên việc đề cao vai trò
của chủ thể tích cực chủ động của người học không phủ nhận vai trò chủ đạo của
người dạy.
1.4.2.2. Dạy học bằng tổ chức các hoạt động cho HS
Theo lý thuyết hoạt động được Vưgôtxki khởi xướng và A.N.Lêônchip phát
triển: bằng hoạt động và thông qua hoạt động, mỗi người tự sinh thành ra mình, tạo
dựng và phát triển ý thức cũng như nhân cách cho bản thân.
Vận dụng vào dạy học, việc học tập của HS có bản chất hoạt động: Bằng hoạt
động và thông qua hoạt động của bản thân mà chiếm lĩnh kiến thức, hình thành và
phát triển năng lực trí tuệ cũng như quan điểm đạo đức, thái độ. Kết quả của việc
học tập phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động học của HS.
Nhiệm vụ chính của giáo viên là tổ chức, hướng dẫn hoạt động học của HS để
thông qua hoạt động đó mà HS lĩnh hội được nền văn hoá xã hội, tạo ra sự phát
triển những phẩm chất, tâm lý và hình thành nhân cách cho chính bản thân. Muốn tổ

chức, hướng dẫn tốt hoạt động học tập vật lý của HS mà thực chất là hoạt động
nhận thức vật lý, người giáo viên cần nắm vững quy luật chung nhất của quá trình
nhận thức khoa học, lôgic hình thành các kiến thức vật lý, những hành động thường
gặp trong quá trình nhận thức vật lý, những phương pháp nhận thức vật lý phổ biến
để hoạch định những hành động, thao tác cần thiết của HS trong quá trình chiếm
lĩnh một kiến thức hay một kỹ năng xác định và cuối cùng là nắm được những biện
pháp để động viên khuyến khích HS tích cực, tự lực thực hiện các hành động đó,
đánh giá kết quả hành động.
1.4.2.3. Dạy học chú trọng đến việc rèn luyện phương pháp tự học,
tự nghiên cứu


Muốn phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học thì cần xem
việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ là một phương tiện nâng cao
hiệu quả dạy học mà phải xem đó là một mục tiêu dạy học. Trong một xã hội hiện
đại đang biến đổi nhanh với sự bùng nổ thông tin, khoa học và công nghệ phát triển
như vũ bão thì việc dạy học không thể hạn chế ở chức năng dạy kiến thức mà phải
chuyển mạnh sang dạy cả phương pháp học.
1.4.2.4. Dạy học chú trọng đến việc trau dồi kiến thức và bồi dưỡng
kĩ năng, kĩ xảo
Quá trình dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức, HS phải tự nỗ
lực, tích cực cao trong hoạt động nhận thức của bản thân. Tính tích cực thể hiện ở
nhiều mức độ và dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, việc bồi dưỡng kỹ năng,
kỹ xảo thể hiện rõ trong việc tích cực hoá hoạt động nhận thức, kỹ năng bao gồm
các kỹ năng thu nhập và xử lý thông tin như: quan sát, thực nghiệm, lấy số liệu, tra
cứu, lập bảng biểu, vẽ đồ thị, rút ra kết luận, xây dựng các dự đoán, các giả thuyết
khoa học... Các kỹ năng này sẽ được trau dồi thông qua hoạt động tích cực của bản
thân trong quá trình lĩnh hội kiến thức. Cũng thông qua hoạt động này ta đã rèn
luyện cho HS tác phong làm việc khoa học, thể hiện tính kiên nhẫn, tỉ mỉ, chính
xác, trung thực và có kế hoạch cụ thể trong học tập cũng như trong lĩnh vực nghiên

cứu khoa học theo hướng tích cực hoá.
1.4.3. Các biện pháp sư phạm nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức của
HS trong dạy học vật lý
Để tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS, ngoài việc tạo ra không khí học
tập tốt, về mặt phương pháp dạy học, cần thực hiện tốt các vấn đề sau:
1.4.3.1 Trong quá trình dạy học cần phối hợp tốt các phương pháp
dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức
Trong thực tiễn, có nhiều phương pháp dạy học khác nhau như phương pháp
dạy học, phương pháp trực quan, phương pháp thí nghiệm biểu diễn...
Trong quá trình dạy học để cần kích thích được sự hứng thú trong học tập của
HS, phát huy tính tích cực, tính tự lực sáng tạo trong học tập của HS, đòi hỏi người
giáo viên phải lựa chọn, tìm tòi những phương pháp dạy học phù hợp với nội dung
bài học, đặc điểm của đối tượng, điều kiện vật chất, và đây là một hoạt động sáng
tạo của giáo viên trong hoạt động dạy.


Các phương pháp dạy học mà giáo viên đã lựa chọn phối hợp cùng với những
biện pháp thích hợp trong từng bài học là điều quan trọng trong việc duy trì hứng
thú, tích cực thường xuyên của HS trong giờ học. Như vậy, sự lựa chọn và phối hợp
các phương pháp dạy học trong từng bài, từng chương là vấn đề quan trọng cần xem
xét đến những đặc trưng cơ bản của từng phương pháp dạy học để phát huy vai trò
tích cực của HS. Bên cạnh đó cần quan tâm đến kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và năng
lực tư duy về vấn đề cần nghiên cứu, thái độ của HS đối với bộ môn mà HS tham
gia nghiên cứu.
1.4.3.2 Khai thác thí nghiệm vật lý trong dạy học theo hướng tích
cực hoá hoạt động nhận thức của HS
Vật lý học là môn khoa học thực nghiệm, vì vậy, sử dụng rộng rãi các thí
nghiệm vật lý ở nhà trường trung học phổ thông hiện nay là một trong những biện
pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lượng dạy học, góp phần tích cực hoá hoạt
động nhận thức của HS.

Mặc khác, sự cần thiết của thí nghiệm vật lý trong các nhà trường còn được
quy định bởi tính chất của quá trình nhận thức của HS dưới sự hướng dẫn của giáo
viên vì thí nghiệm vật lý có tác dụng tạo ra trực quan sinh động trước mắt HS.
Thí nghiệm vật lý có tác dụng rất to lớn trong việc phát triển năng lực và nhận
thức khoa học cho HS, đồng thời giúp cho họ quen dần với phương pháp nghiên
cứu khoa học. Vì qua đó, HS sẽ học được cách quan sát các hiện tượng, cách đo đạt
các thí nghiệm nhằm rèn luyện tính cẩn thận, kiên trì trong nghiên cứu khoa học.
Đây là điều rất cần cho việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp, chuẩn bị cho HS tham quan
thực tế. Do được tận mắt quan sát sự vận động của các hiện tượng, tự tay tiến hành
lắp ráp, đo đạt các thí nghiệm nên các em đã quen dần với các dụng cụ trong đời
sống.
Trong dạy học cũng như trong nghiên cứu khoa học, thí nghiệm vật lý có tác
dụng rất lớn trong việc tích cực hoá hoạt động nhận thức. Thí nghiệm vật lý, với
tính chất là một phương pháp dạy học vật lý, thí nghiệm vật lý được thực hiện ở
trường phổ thông bằng những biện pháp khác nhau. Giáo viên trình bày thí nghiệm
nhằm đề xuất vấn đề nghiên cứu để vào bài mới, khảo sát hay minh hoạ một định
luật, một quy tắc vật lý nào đó. HS tự tay làm các thí nghiệm để tìm hiểu hiện
tượng, dụng cụ thiết bị, đào sâu, ôn tập, củng cố kiến thức đã học.


1.4.3.3. Từng bước đổi mới phương thức kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập của HS cũng là môt biện pháp đẩy mạnh việc tích cực hóa hoạt động
nhận thức của HS
Có nhiều cách để tiến hành kiểm tra, đánh giá nhưng phải làm sao để kết quả
học tập của HS thể hiện rõ tính toàn diện, thống nhất, hệ thống và khoa học. Kiểm
tra, đánh giá có một ý nghĩa xã hội to lớn, nó gắn với nghề nghiệp, lương tâm, ý chí,
tình cảm, tư cách đạo đức và uy tín của người giáo viên. Việc kiểm tra đánh giá ở
các trường phổ thông hiện nay chưa có môt tiêu chuẩn thống nhất để đánh giá chất
lượng tri thức của từng môn học một cách khoa học. Quá trình đánh giá còn đơn
giản, phương pháp và hình thức đánh giá còn tùy tiện và toàn bộ việc đánh giá của

giáo viên chỉ quy về điểm số.
Cùng với những nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học, xu hướng sử dụng
phiếu học tập với các bài tập trắc nghiệm để kiểm tra một số kiến thức trong từng
buổi học, kiểm tra một số kĩ năng thực hành như sử dụng các dụng cụ thí nghiệm, kĩ
năng làm thí nghiệm, kĩ năng thu thập và xử lí thông tin... đang là một hướng đi tốt,
có tác động không nhỏ đến ý thức học tập của HS. Đây cũng có thể coi là một trong
những biện pháp thúc đẩy việc tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS trong các
giờ học vật lý.
1.5 Một số PPDH theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức cho HS
a. Phương pháp dạy học nêu và giải quyết vấn đề (PPDHGQVĐ) là
phương pháp trong đó GV đặt ra trước HS một (hay 1 hệ thống) vấn đề nhận thức,
đưa HS vào tình huống có vấn đề, sau đó GV phối hợp cùng HS (hướng dẫn hoặc
điều khiển HS) giải quyết vấn đề, đi đến những kết luận cần thiết trong nội dung
học tập.
Dạy học nêu vấn đề được người ta xây dựng phỏng theo quá trình nghiên cứu
của các nhà khoa học. Tuy nhiên, nhà khoa học tự lực nghiên cứu để phát hiện ra
các chân lí khoa học mà chưa ai khám phá ra, còn người HS tự lực nghiên cứu dưới
sự hướng dẫn của GV để "tìm" ra chân lí khoa học mà loài người đã biết trước đó.
Giai đoạn 1: Đề xuất vấn đề: GV đưa HS vào tình huống có vấn đề. Mục đích
của giai đoạn này là làm xuất hiện trong người học mâu thuẫn nhận thức, hướng dẫn
họ xác định được nhiệm vụ nhận thức biến mâu thuẫn khách quan thành mâu thuẫn
chủ quan có nhu cầu đòi hỏi cần được giải quyết; kích thích HS hứng thú nhận thức
và sẵn sàng giải quyết vấn đề.


Giai đoạn 2: Nghiên cứu giải quyết vấn đề: bao gồm hai khâu cơ bản là xây
dựng và kiểm tra giả thuyết. Mục đích GV dẫn dắt HS vào con đường tự lực tìm tòi
tri thức, cho họ quen dần với phương pháp khoa học trong nghiên cứu giải quyết
vấn đề. Để thực hiện tốt giai đoạn này cần có các biện pháp sau đây:
- Huy động ở mức độ cao các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp...Kết hợp

linh hoạt giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
- Dùng các thí nghiệm để kiểm tra kết quả, gây lòng tin cho HS.
Giai đoạn 3: Củng cố và vận dụng tri thức, giai đoạn cuối cùng của quá trình
dạy học nêu vấn đề là vận dụng các kiến thức mới thu nhận được, làm cho kiến thức
của HS được củng cố vững chắc hơn.

Sơ đồ PPDHGQVD


b. Phương pháp dạy học thảo luận nhóm
Dạy học theo nhóm là một hoạt động học tập có sự phân chia HS theo từng
nhóm nhỏ với đủ thành phần khác nhau về trình độ, cùng trao đổi ý tưởng một
nguồn kiến thức dựa trên cơ sở là hoạt động tích cực của từng cá nhân. Từng thành
viên của nhóm không chỉ có trách nhiệm với việc học của mình mà còn có trách
nhiệm quan tâm đến việc học tập của bạn bè trong nhóm.
Đặc trưng của dạy học theo nhóm thể hiện ở chỗ: các hoạt động cá nhân của
từng HS riêng biệt được tổ chức lại liên kết hữu cơ với nhau trong một hoạt động
chung nhằm thực hiện các nhiệm vụ học tập.
Đồng thời trong quá trình đó các quan hệ tình cảm và quan hệ giao tiếp giữa các
HS trong nhóm và giữa các thầy - trò được thiết lập.
Vị thế của mỗi nhân tố (trò -nhóm - thầy) trong các quan hệ tương tác được thể
hiện như sau:
* Trò - chủ thể tích cực chủ động sáng tạo của hoạt động học tập.
* Giáo viên - người chủ động tổ chức và đạo diễn.
c. Phương pháp vấn đáp
Vấn đáp là phương pháp trong đó GV đặt những câu hỏi để HS trả lời, hoặc
tranh luận với nhau và với cả GV, qua đó HS lĩnh hội được bài học.
- Vấn đáp giải thích-minh họa: Nhằm mục đích làm sáng tỏ một đề tài nào đó,
GV lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh họa để HS dễ nhớ, dễ
hiểu. Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả khi có sự hỗ trợ của các phương tiện

nge nhìn.
- Vấn đáp tái hiện: GV đặt những câu hỏi chỉ yêu cầu HS nhớ lại kiến thức đã
biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận.Vấn đáp tái hiện không được xem
là một phương pháp có giá trị sư phạm. Đó là biện pháp được dùng khi cần đặt mối


liên hệ giữa kiến thức đã học với kiến thức sắp học hoặc khi cần cũng cố kiến thức
vừa mới học.
- Vấn đáp tìm tòi: GV dùng hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lý để hướng dẫn
HS từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, tính quy luật của hiện tượng đang
tìm hiểu, kích thích sự ham muốn hiểu biết. GV tổ chức sự trao đổi y kiến kể cả
tranh luận giữa thầy và cả lớp, có khi giữa trò với trò nhằm giải quyết một vấn đề
xác định. Trong vấn đáp tìm tòi, GV giống như người tổ chức sự tìm tòi còn HS
giống như người tự lực phát hiện kiến thức mới.

CHƯƠNG II: SOẠN GIÁO ÁN GIẢNG DẠY THEO HƯỚNG TÍCH CỰC
HÓA HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH

BÀI 24. SỰ CHẢY THÀNH DÒNG CỦA CHẤT LỎNG VÀ CHẤT KHÍ –
ĐỊNH LUẬT BECNULI
I. Mục tiêu
1. Về kiến thức
- Nêu được các khái niệm chất lỏng lí tưởng, dòng và ống dòng.
- Nêu được công thức liên hệ giữa tốc độ dòng chất lỏng và tiết diện của ống
dòng.
- Phát biểu được định luật Becnuli và viết được hệ thức của định luật này.
- Nêu được ý nghĩa của các đại lượng trong công thức như áp suất tĩnh, áp suất
động.
2. Về kĩ năng
- Biết cách suy luận dẫn đến các công thức và định luật Becnuli.



- Vận dụng định luật Becnuli để giải thích nguyên tắc hoạt động của một số
dụng cụ như: máy phun sơn, bộ chế hòa khí….
- Vận dụng định luật Becnuli để giải một số bài toán đơn giản.
II . Phương pháp và kỹ thuật giảng dạy: Phương pháp dạy nêu và giải quyết vấn
đề.
III. Chuẩn bị
1. Giáo viên:
- Các thí nghiệm hình 42.1 và 42.2 trang 202, 203 SGK vật lí 10 nâng cao.
- Thí nghiệm gồm hai tờ giấy mỏng, gắn vào hai thanh. Đặt song song, cách nhau
một khoảng hẹp. Hai phễu có kích thước khác nhau (như hình vẽ).

- Các hình vẽ 42.3 và 42.4 trang 204 SGK vật lí 10 nâng cao trên giấy khổ lớn.


2. Học sinh: Ôn lại các kiến thức về áp suất thủy tĩnh và nguyên lý Paxcan đã học ở
các bài trước.

III. Tiến trình dạy học
Hoạt động 1: Kiểm tra bài cũ
Trợ giúp của GV

Hoạt động của HS

- Đặt câu hỏi kiểm tra: Phát biểu nguyên Một em lên trả lời. Các em khác theo dõi, đưa
lí Paxcan, viết biểu thức.
ra lời nhận xét.
- Nhận xét câu trả lời của HS.
Hoạt động 2: Tìm hiểu chất lỏng lí tưởng. Đường dòng và ống dòng.

Trợ giúp của GV

Hoạt động của HS

- Yêu cầu HS đọc sách và trả lời các câu hỏi: - Đọc sách và đưa ra các câu trả lời theo nội
Thế nào là chất lỏng lí tưởng?
dung câu hỏi của GV.
- Nhận xét câu trả lời của HS và phân tích lại - Ghi vở.
các điều kiện về chất lỏng lí tưởng.
- Giới thiệu thí nghiệm hình 42.2 SGK, tiến
- Quan sát thí nghiệm.
hành TN.
- Trả lời câu hỏi.

- Ghi vở.


- Yêu cầu HS quan sát và nêu ra định nghĩa về
đường dòng, ống dòng? Cách mô tả đường
dòng trong ống dòng.
- Nhận xét và củng cố lại các khái niệm về
đường dòng và ống dòng.

Hoạt động 3:Tìm hiểu hệ thức liên hệ giữa tốc độ và tiết diện trong một ống
dòng. Lưu lượng chất lỏng.
Trợ giúp của GV

Hoạt động của HS

- Cho HS quan sát hình vẽ 42.3, dẫn dắt HS - Quan sát, lắng nghe.

tìm ra mối liên hệ giữa vận tốc và tiết diện
của ống dòng.
- Trả lời các câu hỏi dẫn dắt của GV.
- Củng cố các câu trả lời của HS và kết luận
về hệ thức giữa tốc độ và tiết diện trong một - Ghi vở
ống dòng
Hoạt động 4: Định luật Becnuli cho ống dòng nằm ngang( Vận dụng phương
pháp dạy học giải quyết vấn đề)
Trợ giúp của GV

Hoạt động của HS

* Giai đoạn đề xuất vấn đề:
- Giới thiệu thí nghiệm. Sau đó đặt ra - Lắng nghe, quan sát các dụng cụ thí nghiệm và
câu hỏi với HS trước khi tiến hành thí suy nghĩ dự đoán hiện tượng ra.
nghiệm: Khi thổi một luồng khí vào
Đưa ra các dự đoán. Hầu hết các HS xuất phát
giữa khe hẹp, song song với hai tờ
từ các hiện tượng quan sát được trong cuộc sống
giấy thì hiện tượng gì xảy ra (hai tờ


giấy đó chuyển động như thế nào)?

đều cho rằng hai tờ giấy bị đẩy ra xa nhau.

Lúc này xảy ra mâu thuẫn trong tư duy của HS giữa
suy nghĩ hằng ngày của bản thân với hiện tượng
quan sát được ở thí nghiệm. Như vậy GV đã đưa
HS vào tình huống có vấn đề. Từ đó đòi hỏi HS

phải tiếp tục cùng GV đi vào nghiên cứu để giải
quyết vấn đề.

- Tiến hành thí nghiệm cho HS quan
sát. HS nhận thấy kết quả hoàn toàn
trái ngược với dự đoán, hai tờ giấy Suy nghĩ tìm câu trả lời cho hiện tượng trên. Do lúc
không bị đẩy ra xa nhau mà bị hút lại này HS chưa có đủ kiến thức để trả lời nên có thể
gần nhau. Từ kết quả này đặt ra câu không trả lời được, hoặc đưa ra các câu trả lời chưa
hỏi trong HS “Tại sao lại như vậy?” thật chính xác.
Do hơi cô thổi vào chưa đủ để thắng lại lực
đẩy của gió ở bên ngoài hai tờ giấy.
 Tồn tại một lực hút giữa hai từ giấy (lực đẩy
từ phía bên ngoài hai tờ giấy).


* Giai đoạn nghiên cứu giải quyết
vấn đề:
- Xây dựng giả thuyết:
Yêu cầu HS giải thích nguyên
nhân của hiện tượng trên.

Các câu trả lời của HS đều có thể
chọn làm giả thuyết cần kiểm tra. Tuy


nhiên để định hướng HS đi đến lời
giải thích theo ĐL Becnuli, GV có thể
Suy nghĩ, quan sát hiện tượng và đưa ra lời giải
tiến hành thêm các thí nghiệm với hai
thích.

tờ giấy đó, đồng thời đặt ra các câu
hỏi gợi ý.
?Đặt câu hỏi: Nếu cô thổi khí vào
giữa hai tờ giấy với các vận tốc khác
nhau (lúc thổi mạnh, lúc thổi yếu) thì
hiện tượng xảy ra như thế nào? Vì sao
lại như thế?
Nhận xét về các câu trả lời của HS
và lập luận đưa ra giả thuyết cần kiểm
tra: rằng các câu trả lời của các em
đều có thể đúng cả. Tuy nhiên trong
số các giả thuyết đó có 1 GT trùng
với GT ban đầu của nhà bác học
Daniel Becnuli. Khi quan sát các hiện
tượng như trên, ông cho rằng nguyên
nhân của nó là do p và v có mối quan

hệ

v2
p + ρ.
= const
2

HS có thể hình dung được rằng giữa áp suất và vận
tốc khí có mối quan hệ với nhau, nhưng chưa biết
mối quan hệ đó như thế nào. Do đó có thể đưa ra
các giả thuyết về mối quan hệ giữa p và v:




p và v tỉ lệ thuận.
p và v tỉ lệ nghịch với nhau.

v12
v 22
p1 + ρ.
= p2 + ρ.
2
2



(đọc sách trước)



Lắng nghe và ghi vở.

- Kiểm tra giả thuyết:
Để kiểm tra GT của mình có đúng
không, nhà bác học Becnuli đã tiến
hành nhiều thí nghiệm và kết luận GT
trên là đúng, sau đó phát biểu thành
định luật mang tên ông.
Ghi bảng biểu thức ĐL và giải
thích các đại lượng trong biểu thức
cho HS hiểu (giới thiệu khái niệm áp
suất tĩnh, áp suất động và áp suất toàn
phần)


* Giai đoạn củng cố và vận dụng tri - Lắng nghe, quan sát thí nghiệm và đưa ra lời giải
thích.
thức:


GV yêu cầu HS vận dụng định luật
Becnuli để giải thích hiện tượng trong
thí nghiệm thổi khí vào hai phễu.
?Đặt câu hỏi: vì sao khi thổi khí vào
phễu lớn thì phễu nhỏ bị hút đi vào
phễu lớn?

- Giải thích rõ lại cho HS hiểu hiện
tượng trên và giúp HS củng cố nội
dung định luật Becnuli.
Hoạt động 5:Vận dụng và củng cố
Trợ giúp của GV

Hoạt động của HS

- Yêu cầu HS thảo luận nhóm trả
lời các câu hỏi 1 – 4 trang 205 SGK,
làm bài tập trắc nghiệm 1.
- Nhận xét câu trả lời của HS

- Thảo luận nhóm trả lời câu hỏi của GV.

- Ghi bài.


Hoạt động 6: Hướng dẫn về nhà
Trợ giúp của GV

Hoạt động của HS

- Nêu câu hỏi và bài tập về nhà

- Ghi chép câu hỏi và bài tập về nhà.

- Yêu cầu HS tìm hiểu các ứng dụng - Ghi những yêu cầu của GV về chuẩn bị cho bài
của định luật Becnuli trong thực tế.
sau.

KẾT LUẬN


Tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh là một trong những nhiệm vụ
của thầy giáo trong nhà trường và cũng là một trong những biện pháp nâng cao
chất lượng dạy học. Tuy không phải là vấn đề mới, nhưng trong xu hướng đổi mới
dạy học hiện nay thì việc tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh là một vấn
đề được đặc biệt quan tâm. Nhiều nhà vật lý học trên thế giới đang hướng tới việc
tìm kiếm con đường tối ưu nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh,
nhiều công trình luận án tiến sĩ cũng đã và đang đề cập đến lĩnh vực này. Tất cả đều
hướng tới việc thay đổi vai trò người dạy và người học nhằm nâng cao hiệu quả của
quá trình dạy học nhằm đáp ứng được yêu cầu dạy học trong giai đoạn phát triển
mới. Trong đó học sinh chuyển từ vai trò là người thu nhận thông tin sang vai trò
chủ động, tích cực tham gia tìm kiếm kiến thức. Còn thầy giáo chuyển từ người
truyền thông tin sang vai trò người tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ để học sinh tự mình
khám phá kiến thức mới.
Quá trình tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh sẽ góp phần làm

cho mối quan hệ giữa dạy và học, giữa thầy và trò ngày càng gắn bó và hiệu quả
hơn. Tích cực hoá vừa là biện pháp thực hiện nhiệm vụ dạy học, đồng thời nó góp
phần rèn luyện cho học sinh những phẩm chất của người lao động mới: tự chủ, năng
động, sáng tạo. Đó là một trong những mục tiêu mà nhà trường phải hướng tới.
Thông qua tiểu luận, chúng tôi cố gắng làm rõ những vấn đề lí luân khái quát
nhất về tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh. Xây dựng giáo án giảng dạy
bài “ Sự chảy thành dòng của chất lỏng và chất khí- Định luật Becnuli” theo
hướng phát huy tính tích cực của học sinh .Từ đó rút ra những kết luận và kinh
nghiệm cho riêng mình trong giảng dạy.


×