Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

www.tinhgiac.com NHÃ NHẠC CUNG ĐÌNH TRIỀU NGUYỄN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (73.41 KB, 8 trang )

NHÃ NHẠC CUNG ĐÌNH TRIỀU NGUYỄN VIỆT NAM
TRỊNH BÁCH
Người xưa vẫn gọi nhạc cung đình và tôn giáo là Lễ nhạc, hoặc Nhã
nhạc, để phân biệt với Thế tục nhạc, hay gọi ngắn gọn là Tục nhạc, của dân
gian. Lễ nhạc có xuất xứ từ đời Chu, Trung Quốc. Nhưng quan trọng hơn cả
là hai quyển Kinh Lễ và Kinh Nhạc của Khổng Tử. Đến đầu đời Tần (246 209 trước CN), Tần Thủy Hoàng đã ra lệnh đốt hết các kinh sách cũ, ngoài trừ
những thư tịch liên quan đến nông trang. Hầu hết tất cả những gì viết về Kinh
Nhạc đều bị thất truyền từ đấy. Vua chúa các đời sau của Trung Hoa và các
nước trọng Nho giáo khác, trong đó có Việt Nam vẫn dùng những gì còn có
thể tìm lại được từ hai quyển Kinh này để làm căn bản cho Lễ nhạc cung đình
của mình.
Khái niệm về lễ nhạc cung đình từ Trung Quốc được chính thức du nhập
vào Việt Nam dưới triều vua Lý Anh Tông (1138 - 1175). Nhưng từ trước đó
ảnh hưởng Ấn Độ đã đến nước ta, xuyên qua nền văn hóa Chàm từ phương
Nam. Ở Việt Nam, âm điệu nhạc vui được gọi điệu Nam, hay là âm điệu Việt,
trong đó kể cả hơi Chàm. Trước khi khái niệm về lễ nhạc cung đình của Trung
Hoa du nhập vào Việt Nam ở đầu thế kỷ 11 thì hơi Nam của âm nhạc Chàm
đã xâm nhập vào triều đình Việt. Sau khi chiến thắng trong cuộc Nam chinh
năm 1069, vua Lý Thánh Tông (1054 - 1072) đem các nhạc - vũ công của
vương triều Chiêm Thành về kinh đô Thăng Long, và cho họ đi dạy các nghệ
sĩ cung đình Lý triều âm nhạc Chiêm. Huế tọa lạc trên nền tảng một kinh đô
cũ của Chiêm Thành. Dư âm của các cung điệu bán âm buồn của nhạc Chiêm
hiện vẫn tồn tại trong âm nhach Huế.
Trên thực tế, đến mãi khi quan Đồng giám Lỗ bộ ty Lương Đăng thừa
lệnh vua Lê Thái Tông (1432 - 1442), theo thể thức Nhã nhạc triều đình Minh
Trung Quốc để lập ra hệ thống lễ nhạc cho triều đình Việt Nam năm 1437, thì
nước ta mới chính thức có lễ nhạc cung đình. Nhưng sau này, vì nội chiến
triền miên cho hệ thống triều đình nhạc này cũng bị mai một. Trong chuyến
tuần du Bắc Hà để thụ phong năm 1821, vua Minh Mạng của triều Nguyễn có
tìm hiểu về nền Nhã nhạc của tiền triều. Nhà vua đã ngạc nhiên khi các cựu
thần nhà Lê tâu rằng thời Lê mạt trong triều chỉ còn có đội Bả Lệnh. Vì hoàn


cảnh, thời đó triều đình nhà Lê đã thường phải thuê nhạc công dân gian vào
phục vụ các lễ nhạc cung đình. Thế tục nhạc đã tìm được lối vào cung điện Lê
triều vì thế.
Hệ thống Nhã nhạc nhà Nguyễn ở Đàng Trong thì quy mô và hoành
tráng hơn. Trong những năm của thập kỷ 1630 dưới thời chúa của Nguyễn
Phúc Nguyên, Lộc Khê Hầu Đào Duy Từ đã cải tiến và hệ thống hóa triều
nhạc của các tiền triều ngoài Bắc, và lập ra hệ thống lễ nhạc cung đình mới
cho xứ Đàng Trong. Với vài thay đổi theo thời gian, hệ thống này tồn tại cho
đến khi triều Nguyễn cáo chung năm 1945.


- Trong thập kỷ 1630, Lộc Khê Hầu Đào Duy Từ thành lập Hòa Thanh
Thự, gồm có ban nhạc, đội ca và đội vũ, để phục vụ tế lễ trong phủ chúa
Nguyễn.
- Năm 1802, chúa Nguyễn Phúc Ánh của Đàng Trong thống nhất đất
nước và lên ngôi vua ở Huế với đế hiệu Gia Long. Năm 1804, Hoàng đế Gia
Long của tân triều Nguyễn (1802 - 1820) đổi tên Hòa Thanh Thự thành Việt
Tương Đội, với số ca vũ - nhạc công lên đến gần 200 người.
- Năm 1820, vua Minh Mạng lại đổi Việt Tương Đội thành Thanh Bình
Thự. Nhà vua cũng thành lập ra đội Nữ Nhạc với 50 thành viên để phục vụ ở
điện Phụng Tiên, nơi phái nữ trong nội cung tế lễ các tổ tiên triều Nguyễn.
Đội nữ nhạc cũng được dùng để múa dâng rượu ở các dịp đại khánh trong
cung. Vua Minh Mạng còn cho lập ra một nhà hát tuồng của Thanh Bình Thự,
để trình diễn tiêu khiển trong những dịp đại lễ. Đoàn tuồng này sau phát triển
và trình diễn cho đến ngày triều Nguyễn cáo chung.
- Năm 1889, vua Thành Thái lại đổi tên Thanh Bình Thự thành Võ Can
Đội, vẫn hay bị nhầm với đội Võ Ca, một ban hát nhạc lễ của triều đình. Vua
Thành Thái còn lập ra đội Đồng Ấu với 20 trẻ trai, và tập luyện cho chúng các
lễ nhạc trong cung để làm dự bị cho Võ Can Đội. Vua Khải Định sau này
(1916 - 1925) lại tuyển thêm 50 đồng nam vào đội Đồng Ấu.

- Võ Can Đội cuối cùng được đổi tên thành Ba Vũ Đội dưới triều vua
Bảo Đại (1926 - 1945). Sau thời Bảo Đại thì Ba Vũ Đội chỉ còn tồn tại dưới
hình thức một đoàn ca múa cung đình dưới tên đoàn Ba Vũ. Đoàn còn hoạt
động cho đến những năm cuối cùng của thập niên 1960. Lần trình diễn quốc
tế cuối cùng của đoàn là Hội chợ triển lãm EXPO 1970 ở Osaka, Nhật Bản.
Đoàn tạm đình chỉ hoạt động năm 1975, và hoạt động trở lại trong thập kỷ
1980.
Từ ngữ Nhã nhạc không còn được phổ thông trong giai đoạn cuối của
triều Nguyễn. Hiện nay vẫn còn vài nhân vật có liên quan trực tiếp đến nền lễ
nhạc Nguyễn triều sinh sống ở Huế. Đó là cụ Lữ Hữu Thi, năm nay 93 tuổi,
cựu nhạc công của dàn Nhạc Chánh Đại Nội triều Bảo Đại; và cụ Lê Văn
Lương, 84 tuổi, khi xin giữ chức Đội trưởng đội Tả Trà, thuộc đội Đề tứ Thân
binh Đại Nội. Các cụ có vẻ ngạc nhiên khi nghe từ Nhã nhạc. Đến thời các
cụ, triều Nguyễn chỉ còn biết Đại nhạc và Tiểu nhạc.
Dưới thời Bảo Đại, tức là giai đoạn cuối của triều Nguyễn, có ba cơ cấu
lễ nhạc được dùng cho tất cả các lễ, hội của triều đình.
1. Đội Tiểu Nhạc, tức là đội Hòa Thanh, còn được gọi là Nhạc Chánh
Đại Nội hay đội Nhạc Ngự Liễn.
Đội có 15 nhạc công luân phiên, 10 lập thành ban nhạc và 5 để dự phòng
khi cần thay thế. Dàn nhạc gồm có một đàn tam huyền, một đàn nhị, một đàn
tỳ bà, một đàn nguyệt, hai quản, một sinh tiền, một phách đơn, một tam âm
thanh la, và một trống bản trong tay điều khiển của vị đội trưởng. Cái trống có
eo, đánh dọc, gọi là bồng cổ, sẽ cùng với ban Tiểu Nhạc tấu khúc Ai trong dịp
tang lễ (tang nghi) trong cung. Một cái mõ sừng trâu (câu giốc) được thêm


vào với ban Tiểu Nhạc và cái bồng cổ khi đánh khúc Bằng trong dịp kỵ miếu
(kỵ hưởng).
Đội Tiểu nhạc phục vụ tất cả lễ lớn nhỏ của triều đình, thí dụ như Đăng
quang, Nguyên đán, Đại lễ, Tế Nam giao, kỵ, yến... Quan trọng nhất là đội

nhạc này lúc nào cũng phải đi liền với ngự liễn của hoàng đế trong mọi
trường hợp.
Trong lễ Nam giao, đội Tiểu nhạc đánh bài Long ngâm trong kỳ Sơ hiến
lễ, bài Hồ quảng trong Á hiến lễ, và bài Bình bán trong đoạn Chung hiến lễ.
Các bản nhạc này được tấu lên khi vua và các quan hành nhị lễ, tức là hai lần
các động tác hưng và bái. Ban nhạc đánh lại bài Long ngâm khi hoàng đế
giáng đàn cũng như khi làm lễ Phần chúc (đốt sớ). Trong lễ Đại triều ở điện
Thái Hòa, ban Tiểu nhạc cũng đánh Long ngâm. Các bài nhạc có âm hưởng
vui như Long ngâm, Hồ quảng, Bình bán, Kim tiền cũng được “thổi” trong lúc
dâng rượu ở các kỳ đại khánh, đại yến.
Ban Tiểu nhạc cũng còn đánh đệm cho các ca công hát, trong trường hợp
này gọi là “thài”, các bài Chương. Chương là những bài hát đặc biệt dùng
trong các đại lễ như Nam Giao hay tế miếu. Chương được phân ra từng bộ tên
tùy theo loại tế. Thí dụ như các bài Chương tế Nam Giao thường có tên kết
bằng chữ Thành, như Huy Thành, Mỹ Thành, Khánh Thành. Hoặc các bài
Chương trong các lễ đại kỵ của Nguyễn triều thường có tên kết bằng chữ
Hòa. Các bài Chương hay được viết theo thể thơ bốn chữ. Các ca công khi
thài Chương phải sử dụng những tác động giống như các động tác bộ của
tuồng. Khi các vũ công thài và múa Dật thì chỉ có tiêu cổ đệm nhịp mà thôi.
2. Đội Đại Nhạc, hay Đội Kỳ Cổ
Gồm có một trống lớn (đại cổ), hay một khánh đá lớn hình chữ L (ly
khánh/bác khánh), một dàn 12 cái khánh đá nhỏ hình chữ L (hiệu khánh/biên
khánh), một cái chuông đồng lớn (bác chung), một dàn 12 chuông nhỏ (tiểu
chuông/biên chung), 4 trống nhỏ (tiểu cổ), 4 chập chỏa, và 4 kèn bầu. Khi làm
lễ Nam Giao, dàn Đại Nhạc có thêm một nhạc cụ bằng gỗ hình thang ngược
gọi là lệnh chúc dùng để đánh báo hiệu cho các ban nhạc những lúc đổi giai
thoại của buổi lễ. Trong các đại lễ ở sân điện Thái Hòa, chuông và trống lớn
trên Ngọ Môn cũng phụ họa với dàn Đại Nhạc để khai lễ. Dàn Đại Nhạc chỉ
được dùng trong các đại lễ như Đăng quang, Nguyên đán, Nam Giao, Đại kỵ,
Đại triều...

Bốn cái trống nhỏ, bốn cái chập chỏa và bốn kèn hợp thành cơ cấu chính
của ban Đại nhạc gọi là Kỳ Cổ Ty. Chính nhóm nhạc cụ này đã cùng cái trống
đại đánh liên hoàn năm lớp Đăng Đàn Cung (Ngũ Lôi), hay còn gọi là nôm na
là đánh “cà rừng”, để dâng mười lăm ngàn quân và thị vệ trên đường lên đàn
Nam Giao.
Khi hành trên đàn Nam Giao thì Ty Kỳ Cổ chuyển sang đánh các lớp của
bài Đăng Đàn Đơn, hay còn gọi Đăng Đàn Lớp, mỗi khi hoàng đế thăng đàn,
khi hành lễ cúc cung bái (năm lần hưng, phủ phục), và khi vua đang trên


đường ra đài Vọng Liệu để xem đốt sơ và lụa. Đăng Đàn Cung lại được đánh
lên để đưa hoàng đế rời đàn Nam Giao về Trai Cung sau khi tế tất.
Ngoại trừ Ty Kỳ Cổ, các nhạc cụ khác đều lặng tiếng trên đường lên đàn
Nam Giao. Như thế để tôn kính quyền uy tối thượng của Trời, Đất. Sau khi lế
đã hoàn tất, tất cả các nhạc khí đều dấy lên trên đường hồi cung để mừng
hoàng đế đã hoàn thành xứ mạng thiêng liêng. Trong các lễ kém quan trọng
như các Đại triều hàng tháng, số nhạc cụ mỗi loại của Ty Kỳ Cổ có thể giảm
xuống còn hai cái.
Ở giai đoạn cuối của triều Nguyễn, các trống, chuông, khánh lớn dùng để
báo hiệu lúc khai và bế mạc của các đại lễ. Trong lễ Nam Giao thì ba hồi tù và
được các vị Đô sát thổi trước khi chuông trống bắt đầu. Chuông và Khánh lớn
còn được điểm báo hiệu các giai đoạn của buổi lễ, thí dụ như các tuần Sơ, Á
và Chung hiến lễ. Dàn hiệu khánh được đánh rải để giữ nhịp cho các động tác
như hưng, bái. Dàn tiểu chung chỉ bày làm cảnh mà thôi.
Hai ban Đại và Tiểu Nhạc không báo giờ tấu nhạc cùng lúc với nhau, dù
đứng cạnh nhau trong các đại lễ. Ban Đại Nhạc cử khi Thông tán xướng “Đại
Nhạc tác”, còn ban Tiểu Nhạc bắt đầu khi nghe xướng “Nhạc tác”. Chỉ có một
cái trống tiểu cổ của ban Đại Nhạc là đánh cùng với dàn Tiểu Nhạc khi họ
đệm cho các bài ca Chương. Ngay cả khi đệm múa trong những nhịp đại
khánh thì hai đội nhạc cũng diễn đổi phiên. Thí dụ trong múa Tứ Linh đội kèn

thổi điệu Chiến cho long, điệu Mã cho lân và điệu Lăn cho quy. Trong khi đó
nhóm tiểu thổi điệu Phụng.
Khi Nhã nhạc được phục hồi ở Huế trong thập kỷ 1990, đàn tranh, trống
cơm, lục lạc, chén sứ, chiêng lớn và một dàn ba cái trống chiến được thêm
vào dàn nhạc khi trình diễn nhạc cung đình.
3. Đội Ba Vũ
Trong giai đoạn cuối cùng của triều Nguyễn, đội Ba Vũ chỉ còn là một tổ
chức ca vũ nhạc lễn cung đình. Đoàn có hơn 200 thành viên, với 64 người
múa Bát dật văn võ. Hai mươi ca công vẫn được chọn cho đội Võ Ca (có lẽ
còn sót lại từ tên gọi Võ Can dưới thời Thành Thái) để thài Chương trong các
đại lễ. Cho đến thời điểm này, tất cả nghệ sĩ của hai ban nhạc và đội ca đều là
nam giới. Các Đồng ấu lúc này nhiều người đã lớn lên, và gia nhập đội Ba
Vũ. Đội nữ nhạc cũng ít hoạt động hơn. Phần lớn các thành viên của đội cũng
phải tìm việc khác bên ngoài Hoàng cung. Họ chỉ được vời đến khi cần.
Sự hoành tráng của các lễ hội triều đình ngày xưa được thể hiện bằng cả
âm thanh lẫn hình ảnh. Vì thế ngoài khía cạnh phi vật thể, hệ thống trang phục
phong phú của các ca - nhạc công cung đình cũng nên được nhắc đến.
Được biết đến nhiều nhất là phục trang đại lễ của đội Nhạc Chánh Đại
Nội. Trên lý thuyết thì đội này được chia đều thành hai nhóm. Vị đội trưởng
và nhóm nhạc huyền (đàn dây) thuộc nhóm Dương, năm người còn lại ở
nhóm Âm. Mặc dù là nghệ sĩ, các nhạc công cung đình thuộc về võ ban, cho
nên học mặc loại lễ phục áo Trấn cài bên, khác với áo Dấu cài giữa của thân
binh. Thân binh thường mặc áo may bằng vải gai đỏ, nẹp vàng. Nhưng vì ban


Nhạc Chánh phải luôn đi cạnh ngự liễn của hoàng đế, nên áo của họ được
may bằng vải đoạn, dệt hoa bạc (đúng ra là dệt lá, theo cấp bậc của họ). Nhóm
Dương mặc áo màu lam nhạt nẹp đỏ, nhóm Âm mặc áo màu lãm đậm nẹp hỏa
hoàng. Nguyên tắc về màu sắc vải của hai nhóm thật ra cũng không được tuân
thủ chặt chẽ lắm. Bối tử của loại áo này hình tròn, thêu hoa năm cánh ngũ sắc.

Nhạc công của ban Nhạc Chánh đội mão tương tự như loại Xuân Thu của võ
quan cửu phẩm. Họ mặc quần vải nâu trắng, chân quấn xà cạp.
Trong các dịp thiết yến, nhạc công Tiểu Nhạc mặc áo Trấn bằng nhung
đỏ, nẹp vàng. Thay vì nón sơn của Thân binh, các nhạc công đóng khăn xếp
đen. Dù quần áo có trang trọng thế nào đi nữa, nhạc công, cũng như Thân
binh, đều đi đất. Mãi đến thời Bảo Đại họ mới bắt đầu đi dép.
Đội Đại Nhạc còn được gọi là đội Kỳ Cổ Đệ tam Thân binh. Lễ phục của
họ tương tự nhe lễ phục của nhóm Dương của ban Tiểu nhạc. Trong những lễ
kém quan trọng họ dùng vải gai màu vàng, nẹp đỏ. Thành viên đôi Đại Nhạc
đôi mũ Cổ Quan có vành lật ngược như mão nhạc công đánh trống của triều
Minh Trung Quốc.
Trong mọi trường hợp, các ca - nhạc công của đội Nữ Nhạc mặc áo
thụng thêu hoa, bên ngoài khoác áo Mã Tiên. Họ đội mão Phụng Hoa, giống
như mão Ngũ Phụng của các công chúa. Bên trong áo thụng họ mặc xiêm, và
trong nữa là quần chít ba con, chân đi tất vải bông trắng. Đến thời Bảo Đại họ
mới đi hài.
Đội Võ Ca mặc áo Giao Lĩnh thường triều của văn ban cấp dưới khi họ
thai Chương trong các đại lễ. Áo được may bằng vải màu lam. Bối tử hình
vuông thêu hoa ngũ sắc năm cánh. Họ đội mão Tú Tài. Tay trái cầm một cái
quản, tay phải cầm một cái trượng gỗ sơn son gọi là “thược”. Một đầu thược
có gắn đầu con giao long thếp vàng. Miệng giao long ngậm ba cái đuôi gà
trống màu đen.
Xưa kia trong cung đình Việt Nam có rất nhiều điệu vũ. Nhưng đến cuối
triều Nguyễn, triều đình chỉ còn dùng 11 điệu múa: Bát dật, Lục cúng hoa
đăng, Tứ linh (lân), Tam quốc và những bài múa có tính chất tuồng là Tam
linh chúc thọ (Phúc Lộc Thọ), Trình tường tập khánh, Bát tiên hiến thọ, Đấu
Chiến Thắng Phật.
Khi các vũ công múa điệu Bát dật văn, họ phục trang cùng kiểu với đội
Võ Ca. Khi múa Bát dật võ, họ đổi sang áo Trấn màu lam, đầu đội mũ Khắc
Thiên, một loại bình đính (bằng đầu) nhưng rất đơn giản. Tay trái trái vũ công

cầm cái khiên (can) bằng gỗ sơn son vẽ rồng mây bằng nhũ vàng. Tay phải
cầm cái kích có lưỡi búa (thích). Nếu sân múa có trải chiếu thì các vũ công đi
đất, chân quấn xà cạp. Nếu múa trên nền sân khấu thì họ đi hia. Mối ban múa
Bát dật được điều khiển bơi hai ông Quản hàng bát phẩm. Một ông Quản Văn
cầm trong tay môt lá phướn tinh gọi laf “huy”. Các ông Quản Võ cầm cờ mao
tiết có 7 tua.
Nổi tiếng nhất trong các trang phục múa lễ cung đình triều Nguyễn là
quần áo mua Lục cúng hoa đăng ở các lễ đại khánh thọ. Vũ công ăn mặc như


các Kim Đồng Ngọc Nữ, với áo Mã Tiên khoác ra ngoài áo ngắn có cổ tay
bao vó lừa. Những dải cánh sen lụa ngũ sắc buông thả từ sòi vai (vân khiên).
Dưới áo Mã Tiên là xiêm trường và quần giáp thêu đính mặc mài kim kính.
Trên chóp mão Liên Hoa của họ có gắn một hoa sen thếp vàng. Vũ công cầm
trong mỗi tay một đèn hoa phất giấy. Các nữ vũ công đã thay chỗ của các
đồng nam trong điệu vũ này sau khi Nguyễn triều cáo chung. Điệu vũ Lục
cúng cần 48 vũ công.
Cần cùng số 48 vũ công mặc quần áo múa Lục cúng để múa điêu Tam
quốc ở các lễ tho trong cung. Trong điệu múa này, tay vũ công cầm quạt xếp,
trong khi hai đèn liên hoa phết giấy thì được cài vào đằng sau hai vai.
Vũ công cũng mặc cùng trang phục Lục cúng để múa điêu Lục triệt hoa
mã đăng trong đại lễ Hưng quốc Khánh niệm của triều đình. Đầu vũ công đội
mũ Kim Khôi như của Võ tướng, nhưng được đơn giải hoá. Một tay đưa ra
phía trước cầm cái đầu ngựa giấy bồi như của hàng mã, một tay cần cái phất
trần lông đuôi ngựa ở đàng sau, để giả làm kỵ mã. Hai đèn liên hoa bằng giấy
cài ở sau vai, điệu múa này cũng cần 48 vũ công.
Khi múa vai quân trong vũ khúc Nữ tướng xuất quân, các cô Nữ Nhạc
mặc áo dài gấm đoạn, cổ tay áo bó vó lừa, ngoài khoác áo Mã Tiên thắt lưng
lụa ngũ sắc (mỗi người một màu). Trên đầu chít khăn nhiễu ngũ sắc (cũng
mỗi người một màu), dưới mặc quần chít ba con màu trắng, hai tay cầm hai

kiếm gỗ lưỡi thếp bạc. Hai Bà đội mão Cửu Phụng, dưới áo Mã Tiên có xiêm
trường và quần giáp thêu. Mỗi tay vua Bà cầm một thanh kiếm gỗ lưỡi thếp
vàng. Hai lá cờ lên cắm đằng sau vai. Cả hai Bà lẫn quân lính đều đi tất trắng.
Vũ khúc Nữ tướng được trình diễn trong lễ Hưng quốc Khánh niệm.
Nghệ thuật trình diễn tiêu khiển chính trong cung là bộ môn tuồng. Các
vở tuồng cổ thường được trình diễn ở nhà hát Duyệt Thị Đường trong cung.
Khác với giọng mũi âm thanh chát chúa của tuồng Bắc Kinh, giọng được
dùng trong tuồng Việt là giọng cách mô và trầm bổng hơn. Giọng tuồng cổ,
nhất là cách nói lối của tuồng, bây giờ rất hiếm. Các động tác tuồng, gọi là bộ,
và giọng nói lối, được các ca, vũ công sử dụng khi họ thái Chương hay múa
Dật.
Tuy rằng quý phái và rất phổ biến ở Huế, nhưng Ca Huế bị liệt vào loại
Thế tục nhạc, và vì thế không được dùng ở các dịp lễ trong cung. Thay vào đó
Ca Huế thường được thưởng thức trong các phủ đệ của các ông hoàng bà chú
bên ngoài hoàng cung, cũng như ở các tư gia của khách sành điệu. Tuy nhiên
phần nhạc của một vài bài Ca Huế cũng được đưa vào một vài triều lễ. Thí dụ
như sau khi ban Nhạc Chánh đã “thổi” những bản vui như Bình Bán, Kim
Tiền để chuốc rượu các thực khách dự yến trong cung, thì họ lại phải tấu bài
Tứ Đại Cảnh êm ái và buồn của Ca Huế để giúp hạ hoả những vị khách đã
quá chén.
Mặc dù lễ nhạc của các nước có văn hoá Khổng giáo như Nhật Bản Hàn
Quốc và Việt Nam đều có xuất xứ từ Trung Hoa, nhưng Đào Duy Từ đã tạo ra
được một hệ thống lễ nhạc mới, hoàn toàn Việt Nam, cho triều đình của các


vua chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong, vì phần lớn các nhạc lễ đều do họ Đào
đặt ra. Một vài bài được bổ sung sau này, thí dụ như bài Ngũ Hưởng được đặt
ra từ thời Minh Mạng để dành các lễ ở điện Phụng Tiên, nơi phụ nữ trong
cung thờ phục tiên tổ Nguyễn triều. Phần lớn các vũ điệu cung đình của triều
Nguyễn cũng được lập ra hoặc sửa đổi lại từ thời Đào Duy Từ. Chẳng hạn

như điệu vũ Nữ tướng xuất quân được đặt ra để tưởng niệm cuộc khởi nghĩa
của Hai Bà Trưng. Điệu vú nổi tiếng Lục cúng hoa đăng có gốc Ấn - Chàm,
nhưng đã được chữa lại thời Minh Mạng để trở thành một trong những điệu
múa cung đình đẹp nhất của Việt Nam.
Nếu có còn dấu tích nào đó của Trung Hoa trong lễ nhạc cung đình Huế
thí cũng chỉ còn trên danh nghĩa mà thôi. Điển hình là mười bài Ngự. Tên của
các bài này có gốc gác tiếng Trung Quốc, và được phiên âm sang tiếng Hán
Việt. Nhưng nội dung, cách sử dụng, cũng như thứ tự bắt buộc khi tấu v=các
bài này trở thành hoàn toàn Việt Nam: nhất Phẩn Tuyết, nhị Nguyên Tiêu, tam
Lưu Hoàn, tứ Hồ Quangr, ngũ Bình Bán, lục Tây Mai, thất Kim Tiền, bát
Xuân Phong, cảu Long Hồ, thập Tẩu Mã.
Để so sánh, không ai gọi bài Bourre của Handel, một nhạc sĩ Đức thế kỷ
XVIII là nhạc Pháp, mặc dù điệu vũ Bourre có xuất xứ từ miều quê nước
Pháp. Cũng không thể xem Liên khúc nhạc Anh, do nhạc sĩ người Đức J.S.
Bach viết cho vĩ cầm độc tấu, là nhạc của nước Anh được.
Triều Nguyễn cũng tạo lập ra lề lối trình diễn lễ nhạc riêng của mình.
Cách sử dụng mười bài Ngự của ban Nhạc Chánh khi phò vua đến yết miếu là
một thí dụ ngắn. Trên đường từ ngự điện Kiến Trung đến miếu, ban nhạc tấu
liên hoàn chín bài đầu của mười bài Ngự. Khi vua đến nơi, xuống kiệu vào
miếu thì ban nhạc thổi bài Long ngâm. Sau khi vua đã xong lễ ở miếu, ban
nhạc sẽ chỉ đánh từ bài đệ tứ Hồ Quảng trở về sau. Lúc vua lên kiệu để rời
miếu, ban nhạn mới đánh Tẩu Mã. Khi kiệu vua đã ra khỏi cổng miếu, thì dù
mới dạo được một đoạn ngắn của bài Tẩu Mã, ban nhạc tấu trở lại chín bài
Ngự đầu, liên tiếp cho đến khi ngụ liễn về đến điện Kiến Trung. Cách dùng
nhạc này không thấy ở các nước trọng Nho khác.
Lễ nhạc cung đình đã hầu như đi vào quên lãng ở Việt Nam, sau khi
hoàng triều cuối cùng chấm dứt từ hơn nửa thế kỷ nay. Đã có nhiều nỗ lực
chung của các giới chức văn hoá và dân chúng trong nước để phục hồi và gìn
giữ nền di sản phi vật thể quốc gia độc đáo này. Nhưng tiếc rằng kho tàng văn
hóa quý giá ấy cũng hay bị lợi dụng trong việc thương mại trục lợi. Các buổi

trình diễn vũ nhạc cung đình sai lạc, những điệu ca vũ cung đình thiếu trình
độ mới được tạo ra, phong cách trình diễn và tràn phục kém cỏi vẫn xuất hiện
đây đó. Điều này dễ làm cho cái nghệ thuật hiện hãy còn mong manh trên dà
hồi phục này bị hiểu lầm, và nguy cơ thất truyền của nó sẽ không trành khỏi.
Một vài nhân chứng đã thật sự tham dự vào các tế lễ cung đình Nguyễn
triều hiện còn sống tại Huế, và những tài liệu về tế lễ của triều đình thời
Nguyễn được ghi lại dưới nhiều hình thức, phải được dùng làm mấu chốt
trong việc phục hồi và gìn giữ hình thức nguyên thuỷ của nền Nhã nhạc cung


đình của Việt Nam, và có thể của cả các nước có ảnh hưởng Khổng giáo khác.
Cuộc Cách mạng Tân Hợi 1911 lật đổ hoàng triều cuối cùng của Trung Quốc
xảy ra đã lâu quá rồi. Thật khó có thể tưởng tượng rằng còn dù chỉ một nhân
chứng của các cuộc tế lễ cung đình tật sự còn sống ở quốc gia này ngày nay.
Trong cuộc trình diễn tế Giao ở Trung Quốc được chiếu trên các kênh truyền
hình quốc tế mới đây, các vũ công Bát dật văn khi múa đã tiến dần lên rồi vào
hẳn Viên Đàn, nơi vua đang hành lễ. Trong lễ thật thì các ca, vũ sinh phải
đứng tại chổ ở tầng thấp nhất, xa đàn để múa và hát. Trước sân chầu có các
tấm phẩm sơn, nơi các quan phân ban để tựu vị trong vác buổi chầu. Nhạc
công có phẩm hàm thấp nhất, cho nên họ phải đứng tận cuối sân chầu cho đến
hết buổi thiết triều. Chỉ có các hoàng thân và một vài vị trọng thần mới có
quyền đứng trong điện gần ngai vua.
T.B.
Nghiên cứu và phát triển, Số 1 (39) 2003



×