Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

“Con người dưới góc nhìn triết học và vấn đề xây dựng con người mới ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.33 KB, 18 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Trong sự nghiệp đổi mới với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh ở nước ta hiện nay, con người và nguồn nhân
lực luôn được coi là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững nền kinh tế. Đó là vấn đề hết sức bức thiết và
cần có tính cập nhật, đáp ứng được yêu cầu về con người và nguồn nhân lực
xét trong nước ta nói riêng và quốc tế nói chung. Chúng ta khẳng định con
người vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển kinh tế xã hội đồng thời
phải là những con người có tri thức và đạo đức. Từ đây mỗi con người dần
dần về đúng vị trí là một chủ thể sáng tạo ra các giá trị, bao gồm các giá trị
tinh thần và giá trị vật chất, cho bản thân và cho xã hội. Chúng ta đang sống
trong kỷ nguyên của kinh tế tri thức, đòi hỏi mỗi con người phải được đào tạo
trình độ học vấn, năng lực; tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý thức lao
động tốt hơn để có thể đáp ứng những yêu cầu của sự biến đổi khoa học công
nghệ hết sức nhanh chóng.
Với mong muốn làm rõ hơn vị trí, vai trò và các giá trị của con người
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tố quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bằng
các quan điểm lý luận triết học đã được tiếp thu trong quá trình học tập và
nghiên cứu, em xin mạnh dạn chọn đề tài “Con người dưới góc nhìn triết
học và vấn đề xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” làm
đề tài tiểu luận môn Triết học của mình. Bản thân em đã tìm tòi, nghiên cứu,
tham khảo nhiều tài liệu, giáo trình về vấn đề con người nhưng chắc chắn
trong quá trình trình bày, tiểu luận này có thể chưa khai thác hết những quan
điểm về con người trong suốt chiều dài lịch sử triết học thế giới cũng như
chiến lược về con người của Đảng và Nhà nước ta về phát triển con người.
Trân trọng đề nghị Khoa và các thầy cô chỉ bảo thêm.
Em xin trân thành cảm ơn!

1



B. NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC TRƯỚC MÁC VỀ CON NGƯỜI
Trong quá trình phát triển, các quốc gia ở Phương Đông đã hình thành
hệ thống các quan điểm về thế giới tương đối hoàn chỉnh, góp phần không
nhỏ vào kho tàng tri thức của nhân loại. Song với đặc trưng là hướng nội nên
những quan điểm về con người, về xã hội loài người là những vấn đề được đề
cập đến nhiều hơn cả.
Quan điểm về con người ở phương Đông được hình thành từ rất sớm và
được thể hiện một cách có hệ thống từ thế kỷ thứ VI trước công nguyên trong
các học thuyết triết học. Nội dung các quan điểm này rất đa dạng song những
vấn đề mà người phương Đông tập trung đề cập đến là những vấn đề thuộc
nguồn gốc, bản chất của con người, đạo làm người và mẫu hình con người lý
tưởng. Trong tính đa dạng, phong phú của các hệ tư tưởng, trước hết phải nói
đến các quan điểm của Ấn Độ và Trung Quốc mà tiêu biểu là các quan điểm
của triết học Phật giáo và triết học Nho gia.
1. Quan điểm về con người trong triết học Phật giáo
Triết học Phật giáo ra đời khi nội dung của kinh Vêđa và Upanisad
đang chi phối mạnh mạnh mẽ đời sống tinh thần của người Ấn Độ. Mặc dù
chịu ảnh hưởng nhiều tư tưởng của các kinh này song Phật giáo phủ nhận vai
trò của Đấng sáng tạo Brahman, phủ nhận cái Tôi - Atman của con người.
Triết học Phật giáo quan niệm: Thế giới tự tại, tự nhiều yếu tố
trong đó có sắc và có danh. Sắc, danh hội tụ tạo nên con người song bản chất
của thế giới là vô thường nên sự hội tụ của sắc và danh cũng chỉ diễn ra trong
một thời gian nhất định. Điều này chứng tỏ không có cái Tôi vĩnh hằng.
Trong quá trình tồn tại, người nào cũng có trần tục tính và Phật
tính. Trần tục tính là tính tham, sân, si, là vô minh, ái dục. Phật tính là tính
giác ngộ về cõi niết bàn, về cõi chân như. Đây là điểm khác nhau cơ bản giữa

2



con người và vạn vật. Với quan niệm trên, Phật giáo thừa nhận bản tính của
con người vốn tự có cái ác và cái thiện.
Vẫn theo quan điểm của triết học Phật giáo, cũng trong quá trình
tồn tại, cuộc đời của con người do chính bản thân con người quyết định qua
quá trình tạo nghiệp. Tạo nghiệp thiện là từng bước xóa bỏ tham, sân , si, từng
bước xóa bỏ vô minh, loại trừ cái ác để trở thành người trong suốt về tâm linh,
không bị tác động bởi các cám dỗ của cuộc đời và sau khi thoát chết khỏi vòng
luân hồi, nghiệp báo, tùy vào từng mức độ thấp, cao khác nhau và con người đã
đạt được trong quá trình tạo nghiệp thiện mà họ được suy tôn là La Hán, Bồ
Tát hay là Phật.
Con đường tu luyện để thành La Hán, Bồ Tát hay Phật cũng
được coi là đạo làm người. Đấy là quá trình thực hiện hệ thống những yêu cầu
mà giới, định, tuệ đã quy định.
2. Quan điểm về con người trong triết học Nho gia
Triết học Nho gia chịu ảnh hưởng nhiều của tư tưởng kinh dịch. Theo
tư tưởng này, lúc âm – dương phân định, thanh khí làm trời, trời là chúa tể của
vũ trụ, trọng khí làm đất, con người và vạn vận được tạo thành từ sự hỗn hợp
giữa khí thanh và khí trọng trong khoảng giữa âm – dương nhưng con người
bẩm thụ tính trời nên bản tính con người là thiện.
Con người cũng như vạn vật chịu sự chi phối của mệnh trời nhưng con
người có thể cải thiệt nó qua hoạt động tu dưỡng của mình trong cuộc sống,
hiểu mệnh trời, sống theo mệnh trời và tự tu dưỡng mình là đạo làm người.
Quan điểm về đạo làm người được Nho gia thể hiện qua thuyết Chính
danh. Theo thuyết này, tướng ứng với từng danh, từng cặp danh là một hệt
thống những yêu cầu và con người phải thực hiện. Những yêu cầu chung nhất
và cũng là những yêu cầu cơ bản nhất của danh người là ngũ thường gồm:
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín – trong đó nhân là gốc và lễ là phương tiện để thực
hiện và thể hiện nhân. Sống chính danh và giúp người khác chính danh được
coi là quân tử - mẫu người lý tưởng mà tất cả các nhà Nho đều quan niệm

3


rằng cuộc sống của họ là cuộc sống tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ để
giúp đời.
Nhìn chung, quan điểm về con người trong các học thuyết triết học
phương Đông thể hiện rất phong phú nhưng đều mang nặng tính duy tâm. Về
cơ bản, các học thuyết đã lấy đạo đức làm nền tảng để giải quyết những vấn
đề trong cuộc sống song nội dung các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức,
quan điểm về bản tính con người, đạo làm người và hình mẫu con người lại
rất đa dạng chữa đựng những tư tưởng giống nhau, khác nhau và thậm trí đối
lập nhau. Tất cả những tư tưởng này đều tồn tại lâu dài trong lịch sử và giữ
vai trò nền tảng mà trên đó các thế hệ sau tiếp tục hoàn thiện để thể hiện quan
điểm của mình
3. Quan điểm về con người trong triết học Phương Tây
Quan điểm về con người trong triết học phương Tây thể hiện rõ nét qua
thời
cổ đại, thời trung cổ, thời phục hưng và cận đại, thời hiện đại với hai
khuynh
hướng duy vật và duy tâm.
a. Thời cổ đại:
Tiêu biểu cho quan điểm của con người ở phương Tây cổ đại là
những tư tưởng của người Hy Lạp. Các nhà duy vật đầu tiên ở Hy Lạp là các
nhà triết học tự nhiên đã con con người như một bộ phận cấu thành thế giới.
Xuất phát từ quan điểm thế giới do một hay một số chất tạo lên, các nhà duy
vật thời kỳ này cũng quan niệm con người được bắt nguồn tư một hay một số
chất đó. Theo Talét, chất đó là nước, Anaximen là không khí, Hêraclit là lửa,
Xênophan là đất và nước..... Tiêu biểu cho quan điểm duy vật thời kỳ này là
quan điểm của Empêđôclơ, Lơxíp và Đêmôcrit.
Empêđôclơ cho rằng nguồn gốc của thế giới là lửa, không khí, đất

và nước. Những yếu tố này hòa hợp với nhau, trải qua bốn thời kỳ tiến hóa đã
sinh ra sự sống. Mọi sự sống đều có lý tính nhưng con người là sự sống có lý
4


tính cao nhất, thông minh nhất và đặc biệt con người còn có đôi tay để thực
hiện lý tính của mình.
Lơxíp và Đêmôcrit quan niệm bản nguyên của thế giới và
nguyên tử nên các ông cũng khẳng định con người là sản phẩm của sự kết hợp
các nguyên tử. Con người có linh hồn song linh hồn cũng do các nguyên tử
tạo lên và một số yếu tố của linh hồn ấy là nhu cầu và tưởng tượng đã dạy bảo
bàn tay con người hoạt động để đưa con người từ mông muội đến văn minh.
Đối lập với quan điểm của các nhà triết học duy vật, những
người theo chủ nghĩa duy tâm lại truy tìm nguồn gốc và bản chất của con
người từ những lực lượng siêu tự nhiên – tiêu biểu là Xôcrát và Platôn. Theo
Xôcrát, thế giới do thần tạo ra và thần đã an bài cho thế giới. Con người
không nên tìm hiểu thế giới vì như thế là xúc phạm thần, con người hãy tìm
hiểu về chính bản thân mình. Platôn cho ý niệm có trước tất cả, là nguồn gốc
của tất cả. Ý niệm tồn tại vĩnh viễn và bất biết. Con người gồm hai phần độc
lập với nhau là thể xác và linh hồn. Thể xác được tạo thành từ đất, nước, lửa,
không khí nên có thể mất đi. Khi con người chết, linh hồn thoát khỏi thể xác
về thế giới ý niệm của mình để đến một lúc nào đấy linh hồn lại nhập vào một
thể xác mới tạo ra một người mới. Nhận thức của con người là sự hồi tưởng
lại những gì mà ý niệm đã có. Theo Platôn, linh hồn bất tử gồm lý tính, lý trí
và tình cảm. Tương ứng với ba bộ phận này là ba đẳng cấp người: các nhà
triết học, các nhà cầm quyền – binh sĩ và dân tự do. Nô lệ không phải là người
mà chỉ là những công cụ biết nói nên không có linh hồn.
b. Thời trung cổ
Hệ tư tưởng giữ vai trò thống trị thời kỳ này là Cơ đốc giáo nên
quan điểm về vai trò toàn năng của Chúa Trời cũng giữ vai trò thống trị. Tiêu

biểu cho tư tưởng của thời kỳ này là Tômát Đacanh. Tômát Đacanh quan
niệm thế giới Chúa Trời sáng tạo ra từ hư vô và con người là hình ảnh của
Chúa, được Chúa đặt sống ở trung tâm vũ trụ. Con người có thể xác và có linh
hồn bất tử. Linh hồn này được Chúa tạo ra cùng sự tạo ra thể xác con người.
5


Chúa sắp xếp thế giới theo trật tự từ các sự vật không có linh hồn đến con
người, thần thánh và cao nhất là Chúa. Đây là trật tư chặt chẽ, bất biến. Trong
trật tự đó, con người được Chúa chia thành những đẳng cấp nhất định mà bất
cứ một biểu hiện nào muốn vượt lên đẳng cấp cao hơn đều mang tội với
Chúa. Quan điểm về con người nói riêng và triết học của Tômát Đacanh nói
chung được giáo hội Thiên Chúa giáo coi là hệ tư tưởng duy nhất đúng và
được Giáo hội sử dụng làm hệ tư tưởng chính thống của mình.
Có thể nói, con người trong triết học thời trung cố đã bị tước
đoạt hết tính tự nhiên, năng lực và sức mạnh. Hình ảnh con người trở nên nhỏ
bé, yếu đuối, vật vờ, tạm bợ trong thế giới hữu hình dưới quyền lực vô biên
của Đấng sáng tạo. Hệ tư tưởng thời trung cổ đã bóp chết ý chí muốn vươn
lên tự khẳng định mình, tự giải phóng mình mà nhiều nhà tư tưởng thời cổ đại
đã đề cập đến.
c. Thời Phục hưng và cận đại
Từ thời Phục hưng trở đi, các nhà triết học duy tâm và thần học vẫn bắt
nguồn từ ý niệm, tinh thần tuyệt đối, cái tôi.... để xây dựng quan điểm của
mình đối lập với các quan điểm duy tâm và thần học. Những giá trị văn hóa bị
vùi dập hàng nghìn năm bắt đầu được khôi phục và phát triển trong các học
thuyết triết học duy vật.
Ở Ý, các nhà triết học, khoa học như Tômát Morơ, Tômađô
Campanenla, Galie đã mở đầu cho tưởng con người hãy thờ phụng chính bản
thân mình, hãy chiêm ngưỡng vẻ đẹp của chính mình. Phạm trù trung tâm của
triết học thời kỳ này là nhân đạo với khuynh hướng đề cao vai trò của trí tuệ,

tự do, bình đẳng.
Ở Anh, Bêcơn coi thể xác con người là sản phẩm của tự nhiên, là
thực thể vật chất còn tinh thần lầ thứ vật chất chỉ tồn tại trong óc người vận
động theo thần kinh và mạch máu nhưng lại đem lại cho con người sức mạnh
tiềm tàng và tri thức. Hốpxơ gọi con người là vật thể tự nhiên – lực lượng đã
làm ra vật thể nhân tạo và xã hội.
6


Ở Pháp, Rútxô quan niệm bản tính con người là tự do và lịch sử
nhân loại không tuân theo ý muốn của bất cứ thế lực nào mà là kết quả hoạt
động của con người mang bản tính tự do ấy. Điđrô coi con người là đỉnh cao
nhất trong quá trình tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên; coi trí tuệ và đạo đức là
sản phẩm của hoàn cảnh xã hội và coi sức mạnh của con người nằm trong tri
thức khoa học.
Ở Hà Lan, Xpinôda cho rằng giới tự nhiên là thực thể duy nhất,
tồn tại theo chính mình, con người là sản phẩm của giới tự nhiên. Triết học có
nhiệm vụ chính là giúp con người có học thức để nhận thức giới tự nhiên, làm
theo giới tự nhiên và làm theo những lý tưởng đạo đức cao đẹp.
Nét nổi bật trong triết học thời Phục hưng và cận đại là sự phủ
nhật quyền lực của Đấng sáng tạo, đề cao sức mạnh của con người, đề cao vai
trò của lý trí và các giá trị tư tưởng vì con người.
d. Thời hiện đại
Vấn đề con người trong triết học phương Tây hiện đại thể hiện rõ
nét qua các quan điểm của phân tâm học, chủ nghĩa nhân vị, chủ nghĩa thực
dụng, chủ nghĩa phê phán, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa cấu trúc.... Tư
tưởng của những học thuyết này tạo nên trào lưu triết học nhân bản phi lý tính
trong đó, chủ nghĩa hiện sinh giữ vai trò trọng yếu. Nhìn chung, các học
thuyết thuộc trào lưu triết học nhân bản phi lý tính cũng như những học thuyết
khác ở phương Tây hiện đại đều coi những yếu tố về tinh thần như nhu cầu

bản năng, vô thức, tri thức, tình cảm..... là bản chất con người. Con người
thường được tuyệt đối hóa về mặt cá nhân. Mối quan hệ giữa cá nhân với cá
nhân, cá nhân với cộng đồng – xã hội thường được đề cập ở góc độ hoài nghi,
bi quan, bế tắc... Tất cả những điều ấy phản ánh sự khủng hoảng về mặt giá trị
của con người trong xã hội phương Tây hiện đại.
II. QUAN ĐIỂM CỦA MÁC – LÊNIN – HỒ CHÍ MINH VỀ CON
NGƯỜI
1. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người
7


a. Về bản chất con người
Kế thừa các quan điểm tiến bộ trong lịch sử triết học, dựa trên những
thành tựu của khoa học tự nhiên - trực tiếp là thuyết tiến hóa và thuyết tế bào,
triết học Mác – Lênin khẳng định con người vừa là sản phẩm phát triển lâu
dài của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm hoạt động của chính bản thân con
người. Con người là thực thể thống nhất giữa các yếu tố sinh vật và yếu tố xã
hội – là thực thể sinh vật – xã hội. Là thực thể sinh vật vì con người dù có
phát triển đến đâu cũng là một động vật. Ăngghen khẳng định: “Bản thân cái
sự kiện là con người từ loài động vật mà ra cũng đã quyết định việc con
người không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi những đặc tính vốn có của con
vật”. Và giống như những động vật khác, con người là một bộ phận của tự
nhiên nhưng con người khác với động vật vì con người còn là một thực thể xã
hội. Là thực thể xã hội vì các hoạt động xã hội khác, trước hết và quan trọng
nhất là hoạt động lao động sản xuất đã làm cho con người trở thành con người
theo đúng nghĩa của nó. Theo Mác, “xã hội suy cho cùng là sản phẩm của sự
tác động qua lại giữa những con người. Con người tạo ra xã hội và là thành
viên của xã hội. Mọi biểu hiện sinh hoạt của con người là biểu hiện và là
khẳng định của xã hội”
Bên cạnh việc khẳng định con người là thực thể sinh vật – xã hội,

Mác đồng thời khẳng định con người còn là chủ thể của lịch sử - hay còn gọi
là sản phẩm của quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên. Con người và động
vật đều có lịch sử nhưng lịch sử đó lại hoàn toàn khác nhau. Lịch sử của động
vật là lịch sử nguồn gốc của chúng và sự phát triển dần dần của chúng cho
đến trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm
ra và không phải do ý muốn của chúng. Còn lịch sử của con người lại chính là
hoạt động có ý thức của chính bản thân con người, hành động lịch sử đầu tiên
là hành động lao động sản xuất để con người tách khỏi động vật.
Mác cũng khẳng định: “Bản chất con người không phải là một
cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó,
8


bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Quan điểm của cho
thấy bản chất con người hình thành và thể hiện ở những con người hiện thực.
Đấy là những con người cụ thể, sống trong những điều kiện cụ thể mà ở đó
những mặt khác nhau tạo nên bản chất của con người sẽ được bộc lộ ở những
mức độ cụ thể. Tất cả các mối quan hệ xã hội đều góp phần hình thành nên
bản chất của con người, các quan hệ đó không tách rời nhau mà tác động qua
lại và thâm nhập lẫn nhau.
Như vậy, bản chất của con người không phải được sinh ra mà
được hình thành và thay đổi theo sự hình thành và thay đổi của các quan hệ xã
hội mà quan trọng nhất là các quan hệ thuộc lĩnh vực kinh tế
b. Về giải phóng con người
Triết học Mác – Lêninh là triết học vì con người và vấn đề cốt lõi
trong triết học của các ông là vấn đề giải phóng con người, từ giải phóng
những con người cụ thể tiến tới giải phóng nhân loại. Toàn bộ những nội dung
trả lời cho các câu hỏi như: Con người là gì? Nguồn gốc của con người? Bản
chất con người?.....đều nhằm mục đích hiểu đối tượng giải phóng để xác định
đúng đắn những vấn đề liên quan đến vấn đề giải phóng. Triết học trước Mác

– Lênin không phải là triết học đầu tiên đề cập đến vấn đề giải phóng con
người. Các học thuyết duy tâm và tôn giáo coi giải phóng con người là ảo
tưởng. Các nhà duy vật trước Mác không thấy được tính xã hội của con
người, không thấy được các mối quan hệ xã hội của con người, không hiểu rõ
bản chất để xác định những nội dung cho quá trình giải phóng và tất yếu cũng
không thể thực hiện được quá trình giải phóng. Triết học Mác - Lênin xác
định “bất kỳ sự giải phóng nào cũng bao hàm ở chỗ là nó trả thế giới con
người, những quan hệ của con người về với bản thân con người là giải phóng
người lao động thoát khỏi lao động bị tha hóa”. Giải phóng con người là xoá
bỏ người bóc lột người, xóa bỏ tha hoá để con người trở về với chính mình,
phát triển bản tính chân chính của mình. Lênin nhận định: “Điểm chủ yếu

9


trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của
giai cấp vô sản là thực hiện sứ mệnh giải phóng con người’.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí
Minh là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con
người. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là
vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người. Tin
ở dân, dựa vào dân, tổ chức và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, bồi
dưỡng, đào tạo và phát huy mọi năng lực của dân (ở từng cá nhân riêng lẻ và
của cả cộng đồng), đó là tư tưởng được Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển
trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc cũng như
xây dựng đất nước. Tư tưởng đó cũng chính là nội dung cơ bản ủa toàn bộ tư
tưởng về con người của Hồ Chí Minh.
Đối với Hồ Chí Minh, con người vừa tồn tại vừa tư cách cá nhân, vừa

là thành viên của gia đình và của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc
sống cá nhân hài hòa, phong phú. Người đã nêu một định nghĩa về con người:
"Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là
đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người".
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không tồn tại như một phạm
trù bản thể luận có tính trừu tượng hóa và khái quát hóa, mà được đề cập đến
một cách cụ thể, đó là nhân dân Việt Nam, những con người lao động nghèo
khổ bị áp bức cùng cực dưới ách thống trị của phong kiến, đế quốc; là dân tộc
Việt Nam đang bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân; và mở rộng hơn nữa là
những "người nô lệ mất nước" và "người cùng khổ". Lôgíc phát triển tư tưởng
của Người là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước để đến với chủ nghĩa Mác Lênin, đến với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Theo lôgíc phát triển tư tưởng
ấy, khái niệm "con người" của Hồ Chí Minh tiếp cận với khái niệm "giai cấp
10


vô sản cách mạng". Người đề cập đến giai cấp vô sản cách mạng và sự thống
nhất về lợi ích căn bản của giai cấp đó với các tầng lớp nhân dân lao động
khác, đặc biệt là nông dân. Người nhận thức một cách sâu sắc rằng, chỉ có
cuộc cách mạng duy nhất và tất yếu đạt tới được mục tiêu giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự nô dịch, áp bức. Toàn bộ
các tư tưởng, lý luận bàn về cách mạng thực chất chỉ là sự cụ thể hóa bằng
thực tiễn tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là mục
tiêu của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của
chính sự nghiệp đó. Tư tưởng đó được thể hiện rất triệt để và cụ thể trong lý
luận chỉ đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
Tấm lòng Hồ Chí Minh luôn hướng về con người. Người yêu thương
con người, tin tưởng con người, tin và thương yêu nhân dân, trước hết là
người lao động, nhân dân mình và nhân dân các nước. Tin vào quần chúng,

theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đó là một trong những phẩm chất cơ bản
của người cộng sản. Và đây cũng chính là chỗ khác căn bản, khác về chất,
giữa quan điểm của Hồ Chí Minh với quan điểm của các nhà Nho yêu nước
xưa kia (kể cả các bậc sĩ phu tiền bối gần thời với Hồ Chí Minh) về con
người. Nếu như quan điểm của Hồ Chí Minh: "Trong bầu trời không có gì
quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết
toàn dân", thì các nhà Nho phong kiến xưa kia mặc dù có những tư tưởng tích
cực "lấy dân làm gốc", mặc dù cũng chủ trương khoan thư sức dân", nhưng
quan điểm của họ mới chỉ dừng lại ở chỗ coi việc dựa vào dân cũng như một
"kế sách", một phương tiện để thực hiện mục đích "trị nước", "bình thiên hạ".
Ngay cả những bậc sĩ phu tiền bối của Hồ Chí Minh, tuy là những người yêu
nước một cách nhiệt thành, nhưng họ chưa có một quan điểm đúng đắn và đầy
đủ về nhân dân, chưa có đủ niềm tin vào sức mạnh của quần chúng nhân dân.
Quan điểm tin vào dân, vào nhân tố con người của Người thống nhất với quan
11


điểm của Mác, Ăngghen, Lênin: "Quần chúng nhân dân là người sáng tạo
chân chính ra lịch sử".
Phát triển con người toàn diện là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Sự hưng hay suy của một dân tộc, một quốc gia không
chỉ là dân tộc ấy, quốc gia ấy từng giải quyết nhiệm vụ lịch sử đặt ra cho họ
như thế nào mà còn là do họ chuẩn bị con người cho tương lai ra sao. Hồ Chí
Minh nói: Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải
trồng người. “Trồng người” là quá trình xây dựng con người toàn diện, quá
trình làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của con người. Và theo
Người, tiêu chuẩn cơ bản hàng đầu của con người toàn diện là đức và tài,
trong đó đức là gốc hay còn gọi là hồng và chuyên. Và nguyên tắc cơ bản để
xây dựng con người toàn diện là tu dưỡng, rèn luyện trong hoạt động thực
tiễn, thực hiện đồng bộ quá trình giáo dục và tự giáo dục.

Tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh dựa trên thế giới quan duy vật
triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính vì xuất phát từ thế giới quan duy
vật triệt để ấy, nên khi nhìn nhận và đánh giá vai trò của bản thân mình - với
tư cách là lãnh tụ - Người không bao giờ cho mình là người giải phóng nhân
dân. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, người cán bộ (kể cả lãnh tụ) chỉ là
"đầy tớ trung thành" có sứ mệnh phục vụ nhân dân, lãnh tụ chỉ là người góp
phần vào sự nghiệp cách mạng của quần chúng. Tư tưởng này đã vượt xa và
khác về chất so với tư tưởng "chăn dân" của những người cầm đầu nhà nước
phong kiến có tư tưởng yêu nước xưa kia. Và đây, cũng chính là điều đã làm
nên chủ nghĩa nhân văn cao cả ở Hồ Chí Minh, một chủ nghĩa nhân văn cộng
sản trong cốt cách của một nhà hiền triết phương Đông.
III. XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
CỦA GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG HIỆN NAY.
1. Con người Việt Nam trong lịch sử
a. Ưu điểm

12


Con người Việt Nam hình thành dưới sự tác động đa dạng của các điều
kiện tự nhiên và xã hội, trước hết là sự tác động của môi trường, địa lý với
đặc trưng là cuộc sống tiểu nông lúa nước với tư duy – văn hóa tiểu nông lúa
nước có giao thoa và chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa khác nhau. Nền
kinh tế tiểu nông và kết cấu kinh tế, tổ chức hành chính làng xã đã hình thành
ở người Việt Nam nhiều phẩm chất đạo đức, năng lực, quan điểm, quan niệm
và tầm nhìn tương ứng. Lịch sử đất nước kiên cường qua hàng nghìn năm đấu
tranh dựng nước và giữ nước và môi trường văn hóa đa dạng đã hình thành
lên dân tộc Việt Nam lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh
thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ
quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù,

sáng tạo trong lao động; tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống.
b. Hạn chế
Bên cạnh những mặt tích cực, dân tộc Việt còn bộc lộ những hạn chế
như: truyền thống dân chủ làng xã (cục bộ địa phương, dễ hành động tự do
tùy tiện, coi thường pháp luật ....); tập quán sản xuất tiểu nông (khả năng hạch
toán kinh tế kém, nặng về lợi ích trước mắt, thiếu chuẩn xác về thời gian, tâm
lý cầu an, cầu may, bình quân....); đề cao thái quá kinh nghiêm (xem thường
lý luận, xem thường tuổi trẻ...); một số truyền thống cũng bộc lộ tính hai mặt
(cuộc sống giản dị ghét cầu kỳ, xa hoa dễn dẫn đến sự hạ thấp nhu cầu; truyền
thống giỏi chịu đựng gian khổ dễ dẫn đến cam chịu, thỏa mãn, bằng lòng,
không có trí tiến thủ...)
2. Xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của giai đoạn
cách mạng hiện nay
a. Khái quát tình hình thế giới và Việt Nam hiện nay
Trên thế giới, cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ
đưa nhân loại vào nền văn minh trí tuệ với hai đặc trưng cơ bản là xã hội hóa
thông tin và kinh tế tri thức đã tạo cơ sở vật chất cho quá trình toàn cầu hóa
dẫn đến xu hướng liên kết, hợp tác ngay cả giữa các quốc gia có chế độ chính
13


trị khác nhau trong cuộc cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Cục diện chính trị
thế giới thay đổi bởi sự thoái trào của chủ nghĩa xã hội, sự phân hóa của các
quốc gia độc lập và khả năng tự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản. Chiến tranh
cục bộ, xung đột vũ trang, chay đua vũ trang, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn
giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố diễn ra ở nhiều nơi với tính chất
ngày càng phức tạp.
Ở trong nước, trải qua quá trình đổi mới, cơ sở vật chất – kỹ thuật của
nền kinh tế được tăng cường. Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Môi
trường hòa bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế tích cực trên thế

giới tạo điều kiện để người Việt Nam tiếp tục phát huy nội lực, tranh thủ
ngoại lực phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH. Tuy nhiên, đồng thời bốn nguy cơ:
tụt hậu xa hơn về kinh tế, chệch hướng XHCN, nạn tham nhũng và tệ quan
liêu, diễn biến hòa bình là sự suy giảm lòng tin của nhân dân đang là những
thực tiễn đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải có đường lối, chính sách phát triển con
người, đòi hỏi người Việt Nam phải đạt được những yêu cầu mới để thực hiện
nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng trong mục tiêu chung trước những
diễn biến, đa dạng, phức tạp của thế giới, trước những cơ hội và thử thách của
chính mình
b. Quan điểm của Đảng và Nhà nước
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động. Tư tưởng về con người của Đảng Cộng sản Việt Nam
nhất quán với tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Sự nhất quán ấy được
thể hiện qua đường lối lãnh đạo cách mạng và qua các chủ trương chính sách
của Đảng trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong sự nghiệp đổi mới đất
nước hiện nay, tư tưởng đó tiếp tục được Đảng ta quán triệt vận dụng và phát
triển. Con người Việt Nam đang là trung tâm trong "chiến lược phát triển toàn

14


diện"; đang là động lực của công cuộc xây dựng xã hội mới với mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
Nghị quyết Đại hội VIII và Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: “Nâng
cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là
nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá theo định hướng XHCN, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công

bằng, dân chủ, văn minh" .
"Phát triển con người Việt Nam - đó chính là động lực, là mục tiêu
nhân văn, là nền tảng, là cơ sở lâu bền, tạo đà cho bước phát triển tiếp theo
của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội mà Đảng ta
đang lãnh đạo nhân dân ta từng bước thực hiện".
“Sau hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo
định hướng XHCN được đề ra từ đại hội VI của Đảng, giờ đây chúng ta đang
bước vào thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước”
Đồng thời với việc kiên trì đấu tranh chống thoái hóa biết chất, phấn
đấu xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là hình thành và
phát triển con người những đức tính cơ bản sau:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc
hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vị lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, văn mình, tôn trọng pháp luật.
- Thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn, thẩm mỹ và thể
lực
- Lao động chăm chỉ, có sáng kiến kỹ thuật cải tạo chất lượng công việc

15


Để đạt được điều này, Đảng và Nhà nước ta đã và đang tập
trung đầu tư vào những lĩnh vực chủ yếu sau:
+ Về kinh tế: Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thông qua phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần tạo công ăn việc làm cho mọi người, thông qua

cơ chế thị trường tạo đòn bẩy kinh tế để kích thích năng lực lao động trong
người dân.
+ Về chính trị: Tạo điều kiện để nhân dân tham gia nhiêu hơn
vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
+ Về văn hóa - xã hội: Xây dựng nền văn hóa tiến tiến đậm đà
bản sắc dân tộc; Xây dựng những chuẩn mực quan hệ xã hội mới, giải phóng
con người khỏi sự thao túng của các quan hệ xã hội cũ đã lối thời.
+ Về giáo dục – đào tạo; khoa học công nghệ: Được coi là quốc
sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài –
là nền tảng và động lực đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.

16


C. KẾT LUẬN
Con người là chủ thể sáng tạo lịch sử.
Phát triển con người là mục tiêu cao cả nhất của nhất của toàn nhân
loại.
Phát triển con người Việt Nam toàn diện - đó cũng chính là động lực, là
mục tiêu nhân đạo của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà chúng ta
đang từng bước tiến hành. Tin rằng, với chính sách phát triển con người của
Đảng và Nhà nước ta trong thời gian qua và thời gian tới, chúng ta sẽ sớm xây
dựng và hình thành được thế hệ con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa cùng
chung sức với Đảng và Nhà nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng,
thực hiện được mục tiêu chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.

17


MỤC LỤC

A. LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................1
B. NỘI DUNG................................................................................................2
I. QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC TRƯỚC MÁC VỀ CON NGƯỜI.........2
1. Quan điểm về con người trong triết học Phật giáo.....................................2
2. Quan điểm về con người trong triết học Nho gia........................................3
3. Quan điểm về con người trong triết học Phương Tây.................................3
II. QUAN ĐIỂM CỦA MÁC – LÊNIN – HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
...................................................................................................................................6
1.......................................Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người
6
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người:........................................................7
III. XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA
GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG HIỆN NAY.................................................................9
1. Con người Việt Nam trong lịch sử..............................................................9
2. Xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng
hiện nay...................................................................................................................10
C. KẾT LUẬN.............................................................................................12



×