Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 19 trang )

Tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam

Lễ hội Đền Hùng
MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề:
Như ông cha thường nói: “Sông có nguồn, cây có cội, con người có tổ có tông”. Từ
bao đời nay, trong tâm niệm của người Việt giỗ tổ Hùng Vương là thiêng liêng, cao cả
không thể lãng quên:
“Dù ai đi gần về xa
Nhớ ngày giỗ tổ tháng ba mồng mười
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”.
Câu ca dao đậm đà tình nghĩa ấy đã đi sâu vào lòng người dân Việt Nam từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Trong sâu thẳm tâm thức của mỗi người dân đất Việt từ miền ngược đến
miền xuôi, từ miền Nam ra miền Bắc, đều có ý thức tìm về cội nguồn của dân tộc. Hàng
ngàn năm nay, truyền thống Giỗ Tổ Hùng Vương tưởng nhớ cha Rồng, mẹ Tiên và mười
tám đời vua Hùng đã trở thành biểu tượng văn hoá tâm linh, tín ngưỡng, điểm hội tụ tinh
thần đại đoàn kết của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nơi để đồng bào cả nước và Kiều
bào ta ở nước ngoài có điều kiện thắp những nén nhang bày tỏ lòng thành kính của mình
trước anh linh của các vị Vua Hùng.
Tín ngưỡng thờ Quốc Tổ Hùng Vương trên đất nước ta có mối quan hệ mật thiết với
truyền thuyết về thời đại Hùng Vương, phải nói rằng tín ngưỡng thờ Quốc Tổ ở Việt Nam
có cơ sở nguồn gốc từ truyền thuyết về thời đại Hùng Vương. Phải có truyền thuyết với
những nhân vật, địa danh lịch sử cụ thể về thời đại Hùng Vương thì mới có nghi lễ, niềm
GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

1



Tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam

Lễ hội Đền Hùng

tin thiêng liêng về ngày giỗ Tổ, mới có những hoạt động lễ hội làm sống lại và tưởng nhớ
các vua Hùng dựng nước.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu lịch sử hình thành, quá trình phát triển, ý nghĩa văn hóa tốt đẹp của ngày giỗ
tổ Hùng Vương qua đó chứng minh đạo lí “uống nước nhớ nguồn” của người Việt Nam,
vốn có từ rất lâu đời và trở thành bản sắc văn hoá độc đáo của dân tộc ta. Trên cơ sở làm
rõ mối quan hệ giữa lễ hội và tín ngưỡng, vai trò của lễ hội đối với bảo tồn di sản trong
giai đoạn hiện nay, đề tài nhằm phân tích, đánh giá thực trạng việc bảo tồn phát huy di sản
văn hóa lễ hội để phát triển kinh tế, làm rõ hơn những giá trị của các di sản văn hóa lễ hội
Đền Hùng đối với tín ngưỡng của nhân dân, từ đó xuất các giải pháp nhằm phát huy các
giá trị của lễ hội trên địa bàn tỉnh phú thọ góp phần phát triển đời sống tín ngưỡng và phát
triển kinh tế xã hội một cách bền vững.

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

2


Tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam

Lễ hội Đền Hùng

CHƯƠNG 1
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHONG
TỤC GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG


1.1. Lịch sử hình thành và quá trình phát triển
Lễ hội Đền Hùng còn gọi là Giỗ tổ Hùng Vương, là một lễ hội lớn nhằm tưởng nhớ và
tỏ lòng biết ơn công lao lập nước của các vua Hùng, những vị vua đầu tiên của dân tộc.
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba”
Hàng ngàn năm nay, Đền Hùng - nơi cội nguồn của dân tộc, của đất nước luôn là biểu
tượng tôn kính, linh nghiêm quy tụ và gắn bó với dân tộc Việt Nam.
Theo truyền thuyết thì Lạc Long Quân và Âu Cơ được xem như là Thủy Tổ người
Việt, cha mẹ của các Vua Hùng. Lễ hội Đền Hùng còn được gọi là ngày Giỗ Tổ Hùng
Vương.
Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương diễn ra vào ngày
mồng mười tháng ba âm lịch hàng năm tại Đền
Hùng, Việt Trì, Phú Thọ. Trước đó hàng tuần, lễ hội
đã diễn ra với nhiều hoạt động văn hoá dân gian và
kết thúc vào ngày mười tháng ba âm lịch với Lễ
rước kiệu và dâng hương tại Đền Thượng.
Theo Giáo sư sử học Lê Văn Lan, câu ca dao
“Dù ai đi ngược về xuôi, nhớ ngày giỗ Tổ mồng
Mười tháng Ba” nằm trong một bài ca gồm bốn câu.
Hai câu tiếp theo ở cuối bài là “… Khắp miền
GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

3


Tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam

Lễ hội Đền Hùng


truyền mãi câu ca. Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”. Đó là một bài ca mà từ cú
pháp đến thi pháp đều khá mới mẻ. Đặc biệt, ý tứ của câu cuối cùng khá gần gũi với
những sáng tác trong phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX, thường dùng chủ đề Hùng
Vương và Đền Hùng để cổ vũ niềm tin vào vận mệnh non sông, chẳng hạn như những câu
đối của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu:
“Có tổ có tông, có tông có tổ, tổ tổ tông tông, tông tổ cũ
Còn non còn nước, còn nước còn non, non non nước nước, nước non nhà”.
Hoặc như của Vũ Đình Khôi:
“Cháu chắt còn, tông tổ hãy còn, nòi giống nhà ta sinh sản mãi
Nắng mưa thế, miếu lăng vẫn thế, non sông đất nước vững bền lâu”!
Lễ hội giỗ Tổ Hùng Vương, từ xa xưa, chọn nhật kỳ tiến hành vào mùa thu, là mùa tổ
chức các lễ hội có lịch sử cổ xưa hơn các lễ hội mùa xuân. Đến năm 1917 mới có quy
định chính thức của triều Nguyễn (đời vua Khải Định) lấy ngày mồng Mười tháng Ba
hàng năm làm ngày “quốc tế” (Quốc lễ, quốc giỗ). Điều này được tấm bia Hùng Vương từ
khảo do tham tri Bùi Ngọc Hoàn, Tuần phủ tỉnh Phú Thọ, lập năm Bảo Đại thứ 15 (1940)
cũng đang đặt ở Đền Thượng trên núi Hùng, xác nhận: “Trước đây, ngày quốc tế lấy vào
mùa thu làm định kỳ. Đến năm Khải Định thứ hai (dương lịch là năm 1917), Tuần phủ
Phú Thọ (là) Lê Trung Ngọc có công văn xin bộ Lễ ấn định ngày mồng Mười tháng Ba
hằng năm làm ngày quốc tế, tức trước ngày giỗ tổ Hùng Vương đời thứ mười tám một
ngày. Còn ngày giỗ (11 tháng Ba) do dân sở tại làm lễ”.
Định kì mồng Mười tháng Ba (âm lịch) làm ngày giỗ Tổ Hùng Vương, vậy là chỉ bắt
đầu từ năm 1917. Tuy nhiên, với tuổi gần trăm năm, với tinh thần kế thừa truyền thống
uống nước nhớ nguồn, nhất là ý thức về nguồn, chung cội được tăng cường mạnh mẽ
trong điều kiện lịch sử hiện tại. Mồng Mười tháng Ba đã trở thành một ngày Quốc lễ, một
ngày thiêng liêng trọng đại đối với cả dân tộc: Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương.

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

4



Tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam

Lễ hội Đền Hùng

Từ xa xưa Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đã có vị thế đặc biệt trong tâm thức của người
Việt. Bản ngọc phả viết thời Trần, năm 1470 đời vua Lê Thánh Tông và đời vua Lê Kính
Tông năm 1601 sao chép đóng dấu kiềm để tại Đền Hùng, nói rằng: “...Từ nhà Triệu, nhà
Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần đến triều đại ta bây giờ là Hồng Đức Hậu Lê vẫn cùng
hương khói trong ngôi đền ở làng Trung Nghĩa. Những ruộng đất sưu thuế từ xưa để lại
dùng vào việc cúng tế vẫn không thay đổi...”.
Như vậy, có thể hiểu từ thời Hậu Lê trở về trước các triều đại đều quản lý Đền Hùng
theo cách giao thẳng cho dân sở tại trông nom, sửa chữa, cúng bái, làm Giỗ Tổ ngày mười
tháng ba âm lịch. Bù lại họ được miễn nộp thuế 500 mẫu ruộng, miễn đóng sưu, miễn đi
phu đi lính.
Đến đời nhà Nguyễn vào năm Khải Định thứ hai (1917), Tuần phủ Phú Thọ Lê Trung
Ngọc đã trình bộ Lễ định ngày mười tháng ba âm lịch hàng năm làm ngày Quốc tế (Quốc
lễ, Quốc giỗ). Điều này được tấm bia Hùng Vương từ khảo do Tham tri Bùi Ngọc Hoàn,
Tuần phủ tỉnh Phú Thọ, lập năm Bảo Đại thứ 15 (1940) cũng đang đặt ở Đền Thượng trên
núi Hùng, xác nhận: “Trước đây, ngày Quốc tế lấy vào mùa thu làm định kỳ. Đến năm
Khải Định thứ hai (dương lịch là năm 1917), Tuần phủ Phú Thọ là Lê Trung Ngọc có
công văn xin bộ Lễ ấn định ngày mồng Mười tháng Ba hằng năm làm ngày Quốc tế, tức
trước ngày giỗ tổ Hùng Vương đời thứ 18 một ngày. Còn ngày giỗ (11 tháng Ba) do dân
sở tại làm lễ”. Kể từ đây, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương ngày mười tháng ba âm lịch hàng
năm được chính thức hóa bằng luật pháp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã có hai lần về thăm Đền Hùng (19/9/1954 và
19/8/1962). Tại đây Người đã có câu nói bất hủ: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Người còn nhắc: “Phải chú ý bảo vệ, trồng
thêm hoa, thêm cây cối để Đền Hùng ngày càng trang nghiêm và đẹp đẽ, thành công viên
lịch sử cho con cháu sau này đến tham quan”.
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương hằng năm là ngày hội chung của toàn dân, ngày mà mọi

trái tim dù đang sống và làm việc ở muôn nơi vẫn đập chung một nhịp, mọi cặp mắt đều
GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

5


Tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam

Lễ hội Đền Hùng

nhìn về cùng một hướng. Trong ngày này, nhân dân cả nước còn có điều kiện để tham gia
vào các hoạt động văn hóa thể hiện lòng thành kính tri ân các Vua Hùng đã có công dựng
nước và các bậc tiền nhân đã vì dân giữ nước.

Trong hồ sơ đề trình UNESCO công nhận “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương” là di
sản văn hoá thế giới đã nêu rõ giá trị của di sản là thể hiện lòng tôn kính đối với tổ tiên,
theo tinh thần “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam. Theo đánh giá của các
chuyên gia UNESCO, “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương” đã đáp ứng được tiêu chí
quan trọng nhất trong năm tiêu chí, đó là, di sản có giá trị nổi bật mang tính toàn cầu,
khích lệ ý thức chung của mọi dân tộc trong việc thúc đẩy giá trị đó. Vì vậy, ngày
6/12/2012, UNESCO đã chính thức công nhận “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú
Thọ”, biểu tượng của tinh thần đại đoàn kết, truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”
của dân tộc Việt Nam là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
1.2. Mối quan hệ giữa truyền thuyết và tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương
Từ truyền thuyết về thời Hùng Vương, người Việt đã dựng lên cho ông Tổ của mình
một lý lịch hoàn chỉnh, có cả ngày mất (kỵ).
Tín ngưỡng và đức tin tâm linh vào ngày giỗ Tổ của người Việt bắt nguồn từ truyền
thuyết thời Hùng Vương. Từ đó mà hình thành hệ thống tín ngưỡng thờ Quốc Tổ với niềm
GVHD: Trương Thị Mỹ Châu


6


Tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam

Lễ hội Đền Hùng

tôn kính thiêng liêng, trong tín ngưỡng này đạo lý là nội dung nổi trội. Đạo lý “uống nước
nhớ nguồn”. Một mặt con cháu bày tỏ lòng biết ơn đối với tổ tiên đã có công dựng nước.
Mặt khác, thể hiện trách nhiệm liên tục và lâu dài của con cháu đối ơn đức của của tổ tiên,
ơn đức các vua Hùng. Trách nhiệm của mỗi người Việt Nam được biểu hiện không chỉ
trong các hành vi sống (giữ gìn danh dự và tiếp tục truyền thống của gia đình, dòng họ,
đất nước) mà còn ở trong các hành vi cúng tế cụ thể. Cây có gốc. Nước có nguồn. Chim
tìm tổ. Người tìm tông. Ngày mồng mười tháng ba hàng năm cả nước hướng về vùng Đất
Tổ, người người trẩy hội Đền Hùng. Lễ hội Đền Hùng đã trở thành ngày hội chung của
toàn dân.
Sở dĩ niềm tin vào Quốc Tổ Hùng Vương có sức sống lâu bền trong lòng dân tộc Việt
Nam, một phần do có những câu chuyện truyền thuyết về thời các vua Hùng được sáng
tác và truyền lưu rộng rãi đã phủ lên các vua Hùng Vương vầng hào quang huyền thoại
linh thiêng. Truyền thuyết thời các vua Hùng dựng nước làm xương cốt, bệ đứng, chỗ dựa
cho niềm tin vào Quốc Tổ, còn niềm tin cùng những hành động nghi lễ, lễ hội tưởng niệm
làm sống động, phong phú hơn nội dung truyền thuyết về Quốc Tổ Hùng Vương. Mối
quan hệ đó giữa tín ngưỡng thờ Quốc Tổ và truyền thuyết lịch sử về thời đại Hùng Vương
song song tồn tại, hòa quyện chặt chẽ, thẩm thấu qua nhau trong sinh hoạt cộng đồng
người Việt Nam như một chỉnh thể không thể tách rời.

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

7



Tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam

Lễ hội Đền Hùng

CHƯƠNG 2
NHỮNG HOẠT ĐỘNG CHÍNH TRONG NGÀY GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG

2.1. Lễ
Hội Đền Hùng có nhiều hoạt động văn hóa trong đó có các hoạt động phục vụ việc lễ
và những trò vui giải trí phục vụ người dự hội. Khi xưa trong lễ hội có diễn xướng mô
phỏng lại cảnh sinh hoạt thời dựng nước như cảnh đi săn, rước voi, chạy địch, rước lúa
Thần (trò Trám- Tứ Xã), rước chúa gái ( Ngọc Hoa)... Không chỉ có xã sở tại Hy Cương
làm giỗ mà nhiều xã khác ở Lâm Thao, Phù Ninh cũng thờ Hùng Vương, vợ con tướng
lĩnh Vua Hùng cũng mở hội tại làng và rước kiệu về Đền Hùng. Xưa này có đến mấy chục
cỗ kiệu được rước từ đình làng các xã đến chầu ở Đền Hùng. Kiệu được xếp hàng ở chân
núi để chấm giải. Kiệu nào được giải nhất lần sau được rước lên Đền Thượng.

Một đám rước như vậy được các làng, xã tổ chức rất công phu gồm ba kiệu đi liền nhau.
Cỗ kiệu đầu đầy hương hoa, đèn nến, trầu cau, bình nước, nậm rượu. Cỗ kiệu thứ hai rước
bài vị thánh có lọng vàng che. Cỗ thứ ba rước bánh chưng, bánh dầy hoặc xôi, thủ lợn.
Tiếng trống tiếng chiêng trang nghiêm thôi thúc, phường bát âm hòa tấu nhịp nhàng theo
điệu Lưu thủy hành vân, trai thanh mang đồ tế khí, nữ tú mang hương hoa, hộp trầu, quạt;
các bô lão và các chức dịch hàng đôi trang nghiêm trước sau kiệu. Có thể nói khắp con
GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

8


Tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam


Lễ hội Đền Hùng

đường vào hôi rực rỡ sắc màu, rộn một không khí vừa trang nghiêm vừa huyền bí, vừa
náo nức lòng người.
2.2. Hội
Hội đền Hùng xưa có khá nhiều trò chơi: đu tiên, ném còn, tổ tôm múa rối, cờ tướng,
cờ người, kéo lửa nấu cơm thi. Đặc biệt là hát xoan của các phường Xoan gốc Kinh Đức,
An Thái trình diễn ở đền Thượng. Ngoài hát xoan còn có hát nhà tơ của phường Do
Nghĩa, Trinh Nữ tham gia hát thờ. Trai gái đến hội Hùng còn hát ví giao duyên có khi
cuộc hát kéo dài hết đêm.
Đu tiên trong Hội là trò chơi có sức thu hút thanh niên nam nữ. Đu tiên là hình thức đu
xe làm theo hình chiếc bàn đu, mỗi bàn có một cô gái xinh đẹp của xã sở tại mang y phục
lễ hội, đội mũ hoa sen. Các cô gái vừa đu và hát ví giao duyên với các chàng trai dự hội.
Trò bách nghệ khôi hài (trò Trám) của Tứ Xã cũng thu hút rất nhiều người xem. Đây là
loại trò diễn trình nghề "tứ dân": Sĩ, Nông, Công, Thương với những trang phục, câu nói
của người tham gia đóng các nhân vật gây cười, mua vui cho dân làng và những người dự
hội.

Một số các hoạt động vui chơi và hội thi trong ngày hội

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

9


Tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam

Lễ hội Đền Hùng


Hội Đền Hùng còn có trò diễn dân gian của đồng bào Mường- Thanh Sơn, Yên Lập:
Chàm thau, đâm đuống, biểu diễn cồng chiêng đã đem đến lễ hội những âm thanh rộn rã,
gợi nhớ hình bóng xã hội Hùng Vương thuở xưa. Ngày nay, hội Đền Hùng ngoài các sinh
hoạt văn hóa văn nghệ trò diễn dân gian, đặc sắc của vùng Đất Tổ như: gói bánh chưng,
hát xoan, đánh trống đồng, đâm đuống, biểu diễn cồng chiêng, cờ người, rước kiệu còn có
biểu diễn nghệ thuật của đoàn chèo và kịch nói, đốt cây bông, thả đèn trời ở khu trung
tâm lễ hội; về hoạt động thể thao có bắn nỏ, cờ tướng cờ người…

Về Phú Thọ trong những ngày hội làng và nhất là ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, khách thập
phương được chứng kiến những cảnh sinh hoạt văn hóa dân gian phong phú, hấp dẫn. Nổi
bật là hình thức diễn tấu trống đồng - một biểu hiện rực rỡ của nền văn mình nông nghiệp
thời các Vua Hùng dựng nước. Ngày xưa trống đồng được cất giữ trong các gia đình lang
đạo Mường và chỉ đem ra đánh vào dịp hội hè tế lễ. Khác với những hội cồng, chiêng để
cầu sinh sôi nảy nở, hội đánh trống đồng nhằm mục đích cầu mưa và cầu dứt mưa. Trên
mặt trống có tượng cóc gắn với quan niệm cổ truyền "Con Cóc là cậu ông Trời", biểu hiện
sự cầu mong mưa gió thuận hòa để làm ăn được thuận lợi dễ dàng. Âm thanh của trống
đồng nghe náo động và hùng vĩ, có sức cuốn hút mọi người. Trống đồng thuộc loại nhạc
cụ không định âm, dùng tiết tấu để hòa tấu và đệm cho hát múa. Trong ngày hội đánh
trống đồng những người đánh trống đều ăn mặc, hóa trang mô phỏng trang phục của hình
người khắc trên trống đồng xưa.
CHƯƠNG 3
GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

10


Tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam

Lễ hội Đền Hùng


NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM GÌN GIỮ, PHÁT HUY VÀ BẢO TỒN VĂN HÓA PHI
VẬT THỂ “LỄ HỘI ĐỀN HÙNG”

3.1. Giỗ tổ Hùng Vương – Cội nguồn văn hóa của dân tộc Việt Nam
3.1.1. Gìn giữ nét đẹp văn hóa của Lễ hội Đền Hùng
Trên thế giới, khó tìm thấy đất nước nào mà cả dân tộc cùng thừa nhận một tổ tiên
chung, cùng thờ cúng một con người cụ thể, là vị vua đầu tiên lập nên Nhà nước Văn
Lang - Hùng Vương, đóng đô ở Phong Châu, trải qua mười tám đời cha truyền con nối; từ
đó có chung một ngày Giỗ Tổ như dân tộc ta. Từ huyền thoại mẹ Âu Cơ đẻ ra trăm trứng,
năm mươi người theo cha xuống biển, năm mươi người theo mẹ lên rừng, đã khơi dậy ý
thức về cội nguồn dân tộc và khối đại đoàn kết toàn dân tộc; là khởi nguồn của tình yêu
thương, đùm bọc, tạo nên sức mạnh Việt Nam. Vì vậy, lễ hội Đền Hùng có một đặc thù
riêng là phần lễ nặng hơn phần hội. Điều đó nói lên những người tới dự hội tâm tưởng
luôn hướng về tổ tiên, cội nguồn với sự tôn kính và lòng biết ơn sâu sắc.

Dân gian có câu " Dù ai đi ngược về xuôi. Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba." Ngày
giỗ tổ Hùng Vương đã trở thành ngày lễ truyền thống trọng đại của dân tộc. Đền Hùng
dựng trên núi Hùng, tại sao mười tám đời Hùng Vương lại chỉ có một ngày lễ? Tại sao lại
GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

11


Tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam

Lễ hội Đền Hùng

là mùng mười tháng ba mà không phải là ngày khác? Đây chắc không phải là ngày chọn
lựa một cách tình cờ mà có dụng ý, chứa đựng thông điệp nhất định của tổ tiên. Hùng
Vương sinh ra từ Mẹ tiên và Cha rồng, tức là đức trời đất đã hàm ngụ ngay từ trong thân

mẫu, đến ngày sinh thì được an định vào ngày mùng mười tháng ba cùng một ý đất trời
lưỡng hợp vì mùng mười là thập thiên cang chỉ đất trời, còn tháng ba là cung Dần chỉ đức
đất. Tại sao lại lấy cung Dần? Bởi vì Dần là con vật mạnh nhất trong thập nhị đệ chi nên
có tên là Hùng cùng loài Dần đều hàm ngụ sức mạnh vô biên vì bao quát cả đức trời lẫn
đất, nhờ đó mà vượt được hai đợt xiềng xích thường trói buộc tâm trạng con người được
chỉ thị bằng cưỡng hành và lợi hành để vươn tới đợt an hành thuộc tâm linh tức vượt đến
giai đoạn mà con người không còn làm vì sợ "trời đánh thánh vật" thay vì trục lợi cầu
danh mà thấy đáng làm thì làm, đó là đợt độc lập tâm linh. Cần nhìn bao trùm sử tiến trình
hóa nhân loại mới nhận ra được rằng phải hùng tráng biết bao mới vươn lên đến đợt tâm
linh nọ. Vì thế nói được Hùng Vương là một mẫu mực người tròn đầy viên mãn cũng như
cân đối một cách siêu việt. Sự viên mãn còn được thể hiện ở sự hòa hợp đất trời như tích
trầu cau nơi ba yếu tố là lá, đá, cây chỉ trời, đất, người hòa hợp nên một chất mới là màu
đỏ tươi thắm. Rõ hơn nữa là truyện bánh giày, bánh chưng. Bánh giày tròn chỉ trời, bánh
chưng vuông chỉ đất hai đàn chồng lên nhau chỉ một giao hòa mang đậm tính dân gian sự
kết hợp tuyệt vời giữa đất và trời. Sự kết hợp này thể hiện tên gọi đất nước thời sơ khai
Văn Lang. Chữ Lang vừa có nghĩa là nước, vừa có nghĩa là người. Vậy Văn là gì? Theo
nguyên nghĩa Văn chỉ sự giao thoa của trời và đất như được biểu thị bằng cách vẽ lên
mình hình rồng chỉ đất mang mẫu áo lông chim chỉ trời. Đối với truyền thống Việt, yếu tố
Văn được đề cao vượt bậc bên trên yếu tố võ nên nảy sinh một thứ tôn ti không đâu có đó
là sĩ nông công thương. Sĩ đại diện cho Văn, cho trời đất đặt trước nông đại diện cho đất
cả hai xoắn xít với nhau trong mối tình tương thân tương trợ, quý trọng những giá trị tinh
thần sống theo nhân nghĩa, sống theo tình người đây là tâm linh sử khoa của dân tộc, đó
còn là đại cương ý nghĩa ngày giỗ Tổ. Tổ người cũng như Tổ quốc nên cũng được gọi là
ngày sinh nhật người và ngày lập quốc xứng đáng cho con người, vì thế ngày giỗ Tổ phải
là một ngày lễ trọng đại nhất của người Việt, bất cứ sống nơi nào cũng cần tổ chức để tỏ
lòng sâu xa đối với tiên tổ đã xây dựng cho mình một mẫu người, một mẫu nước quý báu
GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

12



Tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam

Lễ hội Đền Hùng

như vậy, hơn thế nữa mai sau phải mở rộng ngày giỗ Tổ thành tuần lễ giỗ Tổ để sự giỗ
được biểu lộ ý nghĩa vươn mãn hơn, tức không chỉ để tỏ lòng tri ân tổ tiên suông, không
chỉ tưởng niệm một lúc mà cần nhất phải cố gắng làm phục hoạt lại tinh thần Văn Lang
Quốc bằng cách học hỏi và hiện thực để làm sáng tỏ tinh thần đó không những để mình
mãi mãi xứng đáng là con Hồng cháu Lạc mà hơn thế nữa để có thể đóng góp cho công
cuộc xây dựng hình ảnh đất nước, đó cũng là tâm nguyện của tất cả người con dân tộc
Việt.
3.1.2. Thực trạng tổ chức lễ hội Đền Hùng ngày nay
Bên cạnh những hoạt động nghi lễ được tổ chức trang trọng , vẫn một bộ phận người
dân thiếu ý thức tôn trọng, không có thái độ thành kính đã góp phần để lại những hình ảnh
xấu xí trong không khí trang nghiêm của ngày lễ trọng đại toàn dân tộc.

Mặc dù đã đặt biển ghi rõ nhưng rất nhiều người dân vẫn đặt tiền lẻ ngay bên cạnh

Việc không nên rải tiền nơi chùa chiền, các điểm thờ cúng tâm linh đã được giải thích
nhiều lần nhưng xem ra ý thức của người dân vẫn chưa thay đổi. Điều đáng buồn thay,
việc rải tiền lẻ tại nhiều nơi đang diễn ra như một việc làm mang tính bắt chước đám đông
và không có ý thức về việc mình đang làm. Trong số rất nhiều người đặt tiền lẻ chúng tôi
quan sát, không chỉ có những người nhiều tuổi mà cá biệt còn có cả những người trẻ, cả
nam lẫn nữ. Theo nhiều nhà nghiên cứu văn hóa việc rải tiền lẻ bừa bãi đem đến hình ảnh
rất phản tâm linh, phản văn hóa tín ngưỡng, xúc phạm tới các thần linh và quan trọng thể
GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

13



Tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam

Lễ hội Đền Hùng

hiện thái độ không tôn trọng đồng tiền của quốc gia. Việc rải tiền lẻ khắp mọi nơi tại
những nơi thờ cúng tín ngưỡng đang trở nên phổ biến báo động về việc hổng ý thức văn
hóa đặc biệt về văn hóa tín ngưỡng thờ cúng của người dân.

Những
ảnh
xuất

hình
xấu
hiện
trong ngày lễ trọng đại và trang nghiêm của dân tộc

Bên cạnh đó, Trong khi lễ giỗ Tổ Hùng Vương được tổ chức trang nghiêm, kính cẩn
thì nhiều chị em vận trên mình những bộ váy siêu ngắn, quần cộc bó sát, thậm chí cả quần
soọc cũn cỡn. Đây là những hình ảnh không đẹp cần phải loại bỏ.
3.2. Những giải pháp bảo tồn văn hóa phi vật thể “Lễ hội Đền Hùng”
Về quan điểm, cần nhận thức sự biến đổi của lễ hội truyền thống cũng như xuất hiện
nhiều loại hình tổ chức sự kiện mới là một yếu tố khách quan trong đời sống văn hóa hiện
nay. Vì thế, không nên có quan điển cứng nhắc, lấy các nguyên lý tổ chức lễ hội truyền
thông làm khuôn mẫu cho việc tổ chức các lễ hội, tổ chức các sự kiện như hiện tại. Ở lĩnh
vực này cần bám sát thực tiễn, tổng kết thực tiễn trên cơ sở lý luận về quản lý văn hóa.
GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

14



Tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam

Lễ hội Đền Hùng

Trong đó cần đặc biệt nhấn mạnh vai trò chủ thể của cộng đồng người dân tổ chức lễ hội
hiệu quả. Đồng thời cũng không coi nhẹ việc quản lý của nhà nước đới với lễ hội.
Cần đẩy mạnh nghiên cứu xu hướng biến đổi của lễ hội và tổ chức sự kiện nhằm dự
báo sát với thực tiễn của tình hình lễ hội. Trong đó, cũng cần phân loại các loại hình lễ hội
theo chức năng, hoặc theo quy mô lễ hội (như lễ hội cấp thôn làng, lễ hội vùng, lễ hội liên
vùng, liên tỉnh). Trong thực tiễn, nhiều yếu tố tiêu cực, nhiều điểm hạn chế gây tác hại
xấu đến đời sống văn hóa là việc không quản lý chặt chẽ loại hình tổ chức sự kiện mới.
Nhiều huyện, nhiều tỉnh đua nhau mở các loại hình lễ hội, tổ chức sự kiện mới này có
những yếu tố tích cực. Ở các tỉnh các địa phương kinh tế du lịch phát triển yêu cầu tổ
chức các festival, các sự kiện là một nhu cầu đúng và cần thiết. Việc tổ chúc các sự kiện
này thực chất là việc quảng bá cho du lịch, giới thiệu về du lịch. Nhiều địa phương sau
khi tổ chức các sự kiện, du lịch phát triển mạnh mẽ, lượng du khách tăng từ 20 – 30% so
với trước khi tổ chức sự kiện. Trong nền kinh tế thị trường, việc tổ chức các sự kiện
quảng bá là một yêu cầu khách quan cần thực hiện. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố cá nhân,
nhiều địa phương đua nhau tổ chức các sự kiện, các lễ kỷ niệm nhưng lại mang danh lễ
hội. Thậm chí có nơi du lịch không phát triển nhưng lãnh đạo tỉnh vẫn tìm mọi cách để
được tổ chức năm quốc gia du lịch rất tốn kém. Hậu quả là kết thúc năm quốc gia du lịch
cũng không phát triển hơn, lượng khách nước ngoài đến thăm tỉnh đó không bằng một
phần của lượng du khách đến một huyện du lịch trọng điểm. Trước thực trạng này, cần
phải quy định rõ về các tiêu chí để tổ chức các sự kiện lớn.
Đối với loại hình lễ hội mới, tổ chức các sự kiện, festival mới đòi hỏi phải xây dựng
quy chế quản lý riêng, vừa chặt chẽ, khoa học, vừa phù hợp với thực tiễn chứ không cứng
nhắc chủ quan theo ý kiến của nhà quản lý.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần tổng kết thực tiễn, hội thảo tranh thủ ý kiến của

các chuyên gia, các nhà khoa học để ban hành bản quy chế quản lý lễ hội thay cho quy
chế quản lý lễ hội năm 2001 đã có nhiều điểm bất cập. Vậy những thực trạng này cần
được quản lý ra sao? Ngay về thời gian tổ chức lễ hội, trong quy định của quy chế sẽ
GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

15


Tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam

Lễ hội Đền Hùng

không phù hợp với những lễ hội mang tính chất quảng bá du lịch. Vì hạn chế thời gian đối
với các loại hình festival du lịch hoặc tổ chức sự kiện quảng bá du lịch sẽ dẫn đến việc
hạn chế kéo dài thời gian lưu trú của du khách, không phù hợp với lợi ích của nhà tổ
chức. Hiện nay cơ quan quản lý nhà nước đã có một số văn bản mang tính quy phạm pháp
luật như: Quy chế thực hiện nếp sống văn minh trong công việc cưới, việc tang và lễ hội
ban hành theo quyết định số 308/2005/QĐ-TTg ngày 25 tháng 11 năm 2005 của Thủ
tướng Chính phủ hoặc Thông tư số 04/2011 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy
định về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Các văn
bản này bước đầu đã đề cập những vấn đề quản lý mới nhưng riêng về lễ hội vẫn còn
nhiều yếu tố bất cập, chưa quản lý được các tình huống, chưa hướng dẫn các chế tài xử
phạt hoặc một số điểm còn bất cập, không đi vào thực tiễn. Cần phân biệt giữa lễ hội cổ
truyền đang biến đổi và các lễ hội mới, các sự kiện festival mới hình thành và du nhập để
có các quy định quản lý phù hợp.
Về đào tạo nguồn nhân lực và tổ chức bộ máy quản lý lễ hội: Hệ thống các trường đại
học, cao đẳng, trung cấp văn hóa nghệ thuật du lịch các tỉnh cần có chương trình giảng
dạy về việc tổ chức quản lý xã hội, nhằm đạo tạo các cán bộ quản lý văn hóa có trình độ
và khả năng quản lý xã hội, xử lý đúng các tình huống xảy ra trong công tác quản lý ở địa
phương.

Kinh nghiệm thực tiễn ở các địa phương đã chỉ rõ vấn đề tổ chức lễ hội thành công hay
không, hạn chế được những tiêu cực hay không đều phụ thộc phần lớn ở ban tổ chức. Ban
tổ chức lễ hội đóng một vai trò rất quan trọng, không thể thiếu được trong tổ chức lễ hội,
vì thế dù là lễ hội của thôn làng cho đến lễ hội quốc gia đều cần phải có ban tổ chức. Tuy
nhiên ban tổ chức cũng cần đề cao vai trò tự quản của người dân, tôn trọng cộng đồng,
thu hút được toàn dân tham gia vào việc tổ chức, quản lý, lễ hội. Tránh tình trạng coi việc
tổ chức lễ hội là nhiệm vụ của các cấp chính quyền hoặc nhiệm vụ của ban tổ chức mà
quên mất vai trò chủ chốt của người dân địa phương.
Cục Văn hóa cơ sở, Hội Di sản, Hội Văn nghệ Dân gian, Viện khoa học xã hội… cần
tổ chức nhiều hội thảo khao học để bàn về quản lý lễ hội hiệu quả. Trong điều kiện các lễ
GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

16


Tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam

Lễ hội Đền Hùng

hội đều có xu hướng biến đổi hoặc thích nghi với đời sống đương đại hoặc xuất hiện
nhiều loại hình mới chưa có trong xã hội truyền thống thì yêu cầu nghiên cứu khoa học,
tổng kết lý luận về lễ hội là một yêu cầu cấp bách.
Tựu trung, lễ hội truyền thống là một sinh hoạt văn hóa đặc biệt, có sức sống từ ngàn
đời nay, chứa đựng nhiều giá trị lịch sử, văn hóa, xã hội. Lễ hội đã đáp ứng nhu cầu thiết
tha của dân tộc ta trong quá khứ và trong hiện tại, giúp con người vượt qua tính vị kỷ cá
nhân hướng về đoàn kết cộng đồng, với đầy đủ sự sáng tạo và nhằm hưởng thụ văn hóa,
lễ hội chứa đựng nhiều dấu ấn về bản sắc văn hóa của dân tộc và điểm tối thượng của lễ
hội cổ truyền là hướng con người đến tinh thần yêu nước. Việc nhận thức, đánh giá đúng
lễ hội truyền thống, việc bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống là vô cùng cần thiết, để
giá trị lễ hội luôn là một biểu trưng hình thái xã hội mang đậm giá trị văn hóa dân tộc

Việt.

KẾT LUẬN

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

17


Tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam

Lễ hội Đền Hùng

Lịch sử như một dòng chảy liên tục, trải qua mấy nghìn năm, trước bao biến động
thăng trầm, nhưng trong tình cảm và nhận thức của mỗi Việt dù sống ở nơi đâu cũng luôn
nhớ ngày Giỗ Tổ mồng Mười tháng Ba. Đó là một ngày lễ trọng đại, là dịp để con cháu
tưởng niệm, ghi nhớ và tôn vinh công lao dựng nước của tổ tiên và cội nguồn dân tộc, đã
xây dựng cho mình một hình tượng đất nước, hình tượng dân tộc hùng tráng và cao đẹp;
bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với các Vua Hùng đã có công dựng nước và các thế hệ nối
tiếp nhau kiên cường chống giặc ngoại xâm để gìn giữ và bảo vệ non sông gấm vóc, để
đất nước mãi mãi trường tồn. Và Giỗ Quốc Tổ Hùng Vương càng có ý nghĩa biết bao khi
mà ngọn lửa Hùng Vương còn được tiếp tục bừng sáng trong mỗi người con đất Việt, gắn
kết họ thành một khối đại đoàn kết dân tộc vững chắc mà không một thế lực nào có thể
phá nổi.
Để bảo tồn phát huy tốt giá trị của các lễ hội truyền thống, cần phải có kế hoạch quy
hoạch chi tiết cụ thể từng giai đoạn, xác định rõ mục tiêu và hệ thống giải pháp để bảo tồn
phát huy giá trị của lễ hội Đền Hùng trong giai đoạn hiện nay. Trong đó đáng chú ý việc
đánh giá lễ hội và xác định mục tiêu cần bảo tồn, xác định các hoạt động cần phục dựng
và các giải pháp để phục dựng các hoạt động đảm bảo tính nguyên bản của lễ hội đúng
với những sáng tạo của nhân dân và sẽ được tồn tại trong môi trường cộng đồng, tránh

tình trạng “sân khấu hóa” lễ hội làm cho lễ hội bị biến dạng mất bản sắc.
người dân Việt Nam, Đền Hùng vẫn là nơi của bốn phương tụ hội, nơi con cháu thờ
phụng công đức tổ tiên. Vì thế, Người
Việc bảo vệ phát huy các di sản văn hóa và lễ hội truyền thống phải có sự hợp tác quốc
tế, góp phần bảo vệ tốt các di sản, nghiên cứu ứng dụng khoa học vào việc nghiên cứu
bảo vệ di sản và góp phần quảng bá hình ảnh đất nước con người Việt Nam trên trường
quốc tế, đồng thời trao đổi thông tin và kinh nghiệm trong việc bảo vệ và phát huy giá trị
của di sản văn hóa.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

18


Tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam

Lễ hội Đền Hùng

1. Đại Việt Sử kí toàn thư, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1972
2. Khu di tích lịch sử và rừng quốc gia đền Hùng, Phạm Bá Khiêm, NXB Sở văn hóa
thông tin Phú Thọ, 2008
3. Hùng Vương và Lễ hội Đền Hùng, Ngô Văn Phú, NXB Hội nhà văn,1996
4. Văn hóa Việt Nam - tìm tòi và suy ngẫm, Trần Quốc Vượng, NXB Văn học Hà Nội,
2003
5. Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Trần Văn Giàu, NXB Tp Hồ chí
minh, 1993
6. Giới thiệu khu di tích lịch sử đền Hùng, Vũ Kiêm Liên, Sở văn hóa thông tin Vĩnh
Phúc, 1990

7. Đền Hùng nơi hội tụ văn hóa tâm linh, Lê Hựu, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2005
8. Hành trình về thời đại Hùng Vương, Lê Văn Hảo, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1982

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

19



×