Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

SKKN TỔ CHỨC TRÒ CHƠI TOÁN HỌC TRONG DẠY HỌC MÔN TOÁN LỚP 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (764.57 KB, 29 trang )

SKKN:"Tổ chức trò chơi toán học trong dạy học môn Toán lớp 3".
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Hiện trạng :
Trong chương trình giáo dục tiểu học hiện nay, toán học là môn khoa học tự
nhiên có tính lôgíc và tính chính xác cao, nó là chìa khóa mở ra sự phát triển của các
bộ khoa học khác.
Muốn học sinh Tiểu học học tốt được môn Toán thì mỗi người Giáo viên không
phải chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn trong Sách giáo khoa, trong
các sách hướng dẫn và thiết kế bài giảng một cách dập khuôn, máy móc làm cho học
sinh học tập một cách thụ động. Nếu chỉ dạy học như vậy thì việc học tập của học sinh
sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ không cao. Nó là một trong
những nguyên nhân gây ra cản trở việc đào tạo các em thành những con người năng
động, tự tin, sáng tạo sẵn sàng thích ứng với những đổi mới diễn ra hàng ngày.
Yêu cầu của giáo dục hiện nay đòi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy học môn
toán ở bậc Tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học
sinh. Vì vậy người giáo viên phải gây được hứng thú học tập cho các em bằng cách lôi
cuốn các em tham gia vào các hoạt động học tập. Trò chơi học tập là một hoạt động
mà các em hứng thú nhất. Các trò chơi có nội dung toán học lý thú và bổ ích phù hợp
với việc nhận thức của các em. Thông qua các trò chơi các em sẽ lĩnh hội những tri
thức toán học một cách dễ dàng, củng cố, khắc sâu kiến thức một cách vững chắc, tạo
cho các em niềm say mê, hứng thú trong học tập, trong việc làm. Khi chúng tôi đưa ra
được các trò chơi toán học một cách thường xuyên, khoa học thì chắc chắn chất lượng
dạy học môn toán sẽ ngày càng nâng cao.
Chính vì những lý do nêu trên mà tôi đã chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm "Tổ
chức trò chơi toán học trong dạy học môn Toán lớp 3".
II.Giai pháp thay thế:
Góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học theo hướng phát
huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, tăng cường hoạt động cá nhân
phối hợp với học tập giao lưu. Hình thành và rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức
vào thực hiện.
Gv:Đặng Thị Xuân Diệu



1


SKKN:"Tổ chức trò chơi toán học trong dạy học môn Toán lớp 3".
Góp phần gây hứng thú học tập môn Toán cho học sinh, một môn học được coi
là khó khăn, hóc búa thì việc đưa ra trò chơi toán học nhằm mục đích, để các em học
mà chơi, chơi mà học. Trò chơi toán học không những chỉ giúp các em lĩnh hội được
tri thức mà còn giúp các em củng cố và khắc sâu các tri thức đó.
III.Vấn đề nghiên cứu
- Tìm hiểu về các trò chơi học tập Toán 3
- Tìm hiểu về thực trạng tài liệu trò chơi Toán học 3.
- Đối tượng : Học sinh lớp 3, năm học 2015 - 2016.
- Tài liệu : Sách giáo khoa Toán, sách hướng dẫn giáo viên, sách trò chơi toán
học nói chung.
IV. Thiết kế và đo lường:
Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp sau :
1. Nghiên cứu tài liệu :
- Đọc các tài liệu sách, báo, tạp chí giáo dục... có liên quan đến nội dung đề tài
- Đọc sách giáo khoa, sách giáo viên, các loại sách tham khảo : Toán tuổi thơ,
giúp em vui học toán.
2. Nghiên cứu thực tế :
- Dự giờ, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về nội dung các trò chơi toán học
- Tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học.
- Tổ chức và tiến hành soạn giáo án đã thông qua các tiết dạy để kiểm tra tính
khả thi của đề tài.
VI. Phân tích.
*Vị trí của môn Toán trong trường Tiểu học :
Bậc tiểu học là bậc học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc
hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Môn toán cũng như những môn học khác

cung cấp những tri thức khoa học ban đầu, những nhận thức về thế giới xung quanh
Gv:Đặng Thị Xuân Diệu

2


SKKN:"Tổ chức trò chơi toán học trong dạy học môn Toán lớp 3".
nhằm phát triển năng lực nhận thức, hoạt động tư duy và bồi dưỡng tình cảm đạo đức
tốt đẹp của con người.
Môn toán ở trường Tiểu học là một môn độc lập, chiếm phần lớn thời gian trong
chương trình học của trẻ.
Môn toán có tầm quan trọng to lớn. Nó là bộ môn khoa học nghiên cứu có hệ
thống, phù hợp với hoạt động nhận thức tự nhiên của con người.
Môn toán có khả năng giáo dục rất lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy
nghĩ, phương pháp suy luận lôgíc, thao tác tư duy cần thiết để con người phát triển
toàn diện, hình thành nhân cách tốt đẹp cho con người lao động trong thời đại mới.
* Đặc điểm tâm lý của học sinh tiểu học
- Ở lứa tuổi Tiểu học cơ thể của trẻ đang trong thời kỳ phát triển hay nói cụ thể
là các hệ cơ quan còn chưa hoàn thiện, vì thế sức dẻo dai của cơ thể còn thấp nên trẻ
không thể làm lâu một cử động đơn điệu, dễ mệt nhất là hoạt động quá mạnh và ở môi
trường thiếu dưỡng khí.
- Học sinh Tiểu học nghe giảng rất dễ hiểu nhưng cũng sẽ quên ngay khi chúng
không tập trung cao độ. Vì vậy người giáo viên phải tạo ra hứng thú trong học tập và
phải thường xuyên được luyện tập.
- Học sinh Tiểu học rất dễ xúc động và thích tiếp xúc với một sự vật, hiện tượng
nào đó nhất là những hình ảnh gây cảm xúc mạnh.
- Trẻ hiếu động , ham hiểu biết cái mới nên dễ gây cảm xúc mới, song các em
chóng chán. Do vậy trong dạy học giáo viên phải sử dụng nhiều dùng dạy học, đưa
học sinh đi tham quan, đi thực tế, tăng cường thực hành, tổ chức các trò chơi xen kẽ...
để củng cố khắc sâu kiến thức.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Tác dụng của trò chơi toán học
Hoạt động vui chơi là hoạt động mà động cơ của nó nằm trong chính quá trình
hoạt động bản thân trò chơi chứ không nằm ở kết quả chơi.
Trò chơi học tập là trò chơi mà luật của nó bao gồm các quy tắt găn với
kiến thức kỹ năng có được trong hoạt động học tập, gần với nội dung bài học, giúp học
Gv:Đặng Thị Xuân Diệu

3


SKKN:"Tổ chức trò chơi toán học trong dạy học môn Toán lớp 3".
sinh khai thác vốn kinh nghiệm của bản thân để chơi, thông qua chơi học sinh được
vận dụng các kiến thức kỹ năng đã học.
Chơi là một nhu cầu cần thiết đối với học sinh Tiểu học, có thể nói nó quan
trọng như ăn, ngủ, học tập trong đời sống các em. Chính vì vậy các em luôn tìm mọi
cách và tranh thủ thời gian trong mọi điều kiện để chơi. Được chơi các em sẽ tham gia
hết sức tự giác và chủ động. Khi chơi các em biểu lộ tình cảm rất rõ ràng như niềm vui
khi thắng lợi và buồn bã khi thất bại. Vui mừng khi thấy đồng đội hoàn thành nhiệm
vụ, bản thân các em thấy có lỗi khi không làm tốt được nhiệm vụ của mình. Vì tập thể
mà các em khắc phục khó khăn, phấn đấu hết khả năng để mang lại thắng lợi cho tổ,
nhóm trong đó có mình. Đây chính là đặc tính thi đua rất cao của các trò chơi.
Trò chơi học tập làm thay đổi hình thức hoạt động của học sinh, giúp học sinh
tiếp thu kiến thức một cách tự giác tích cực. Giúp học sinh rèn luyện củng cố kiến thức
đồng thời phát triển vốn kinh nghiệm được tích luỹ qua hoạt động chơi.
Trò chơi học tập rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, thúc đẩy hoạt động trí tuệ, nhờ sử
dụng Trò chơi học tập mà quá trình dạy học trở thành một hoạt động vui và hấp dẫn
hơn, cơ hội học tập đa dạng hơn.
Trò chơi không chỉ là phương tiện mà còn là phương pháp giáo dục.
II. Một số trò chơi toán học lớp 3

1. Tổ chức trò chơi trong môn Toán
Để các trò chơi góp phần mang lại hiệu quả cao trong giờ học, khi tổ chức và
thiết kế trò chơi phải đảm bảo những nguyên tắc sau :
a. Thiết kế trò chơi học trong môn Toán :
Muốn tổ chức được trò chơi trong dạy toán có hiệu quả cao thì đòi hỏi mỗi giáo
viên phải có kế hoạch chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ, và đảm bảo các yêu cầu sau :
+ Trò chơi mang ý nghĩa giáo dục
+ Trò chơi phải nhằm mục đích củng cố, khắc sâu nội dung bài học
Gv:Đặng Thị Xuân Diệu

4


SKKN:"Tổ chức trò chơi toán học trong dạy học môn Toán lớp 3".
+ Trò chơi phải phù hợp với tâm lý học sinh lớp 3, phù hợp với khả năng người
hướng dẫn và cơ sở vật chất của nhà trường.
+ Hình thức tổ chức trò chơi phải đa dạng, phong phú
+ Trò chơi phải được chuẩn bị chu đáo
+ Trò chơi phải gây được hứng thú đối với học sinh
* Cấu trúc của Trò chơi học tập :
+ Tên trò chơi
+ Mục đích : Nêu rõ mục đích của trò chơi nhằm ôn luyện, củng cố kiến thức,
kỹ năng nào. Mục đích của trò chơi sẽ quy định hành động chơi được thiết kế trong trò
chơi.
+ Đồ dùng, đồ chơi : Mô tả đồ dùng, đồ chơi được sử dụng trong Trò chơi học
tập.
+ Nêu lên luật chơi : Chỉ rõ quy tắc của hành động chơi quy định đối với người
chơi, quy định thắng thua của trò chơi.
+ Số người tham gia chơi : Cần chỉ rõ số người tham gia trò chơi
+ Nêu cách chơi.

b. Cách tổ chức trò chơi :
Thời gian tiến hành : thường từ 5 - 7 phút
- Đầu tiên là giới thiệu trò chơi :
+ Nêu tên trò chơi.
+ Hướng dẫn cách chơi bằng cách vừa mô tả vừa thực hành, nêu rõ quy định
chơi.
- Chơi thử và qua đó nhấn mạnh luật chơi
- Chơi thật
- Nhận xét kết quả chơi, thái độ của người tham dự, giáo viên có thể nêu thêm
những tri thức được học tập qua trò chơi, những sai lầm cần tránh.

Gv:Đặng Thị Xuân Diệu

5


SKKN:"Tổ chức trò chơi toán học trong dạy học môn Toán lớp 3".
- Thưởng - phạt : Phân minh, đúng luật chơi, sao cho người chơi chấp nhận
thoải mái và tự giác làm trò chơi thâm hấp dẫn, kích thích học tập của học sinh. Phạt
những học sinh phạm luật chơi bằng những hình thức đơn giản, vui (như chào các bạn
thắng cuộc, hát một bài, nhảy lò cò...)
2. Giới thiệu một số trò chơi toán học lớp 3 :
Sau đây tôi xin giới thiệu một số trò chơi tiêu biểu mà tôi đã áp dụng trong quá
trình dạy toán cho học sinh lớp 3 :
Trò chơi 1 : Truyền điện
- Mục đích :
+ Luyện tập và củng cố kỹ năng làm các phép tính cộng trừ không nhớ trong
phạm vi 1000.
+ Luyện phản xạ nhanh ở các em
- Chuẩn bị : Không cần chuẩn bị bất kỳ đồ dùng nào

- Cách chơi : Các em ngồi tại chỗ. Giáo viên gọi bắt đầu từ 1 em xung phong. Ví dụ
em xướng to 1 số trong phạm vi 1000 chẳng hạn “358 và chỉ nhanh vào em B bất kỳ
để “truyền điện”. Lúc này em B phải nói tiếp, ví dụ “trừ 142 rồi chỉ nhanh vào em C
bất kỳ. Thế là e C phải nói tiếp “bằng 216”. Nếu C nói đúng thì được quyền xướng to
1 số như A rồi chỉ vào một bạn D nào đó để “truyền điện” tiếp. Cứ làm như thế nếu
bạn nào nói sai (chẳng hạn A nói “358 truyền cho B, mà B nói trừ “149 tức là sai dạng
tính hoặc là C đọc kết quả tính sai) thì phải nhảy lò cò một vòng từ chỗ của mình lên
bảng. Kết thúc khen và thưởng một tràng vỗ tay cho những bạn nói đúng và nhanh.
* Lưu ý :
+ Trò chơi này không cần phải chuẩn bị đồ dùng, giáo cụ...
+ Trò chơi này có thể áp dụng được vào nhiều bài (Ví dụ : Luyện tập các bảng
cộng trừ, nhân chia) và có thể thay đổi hình thức “truyền”. Ví dụ : 1 em hô to 6x3 và
chỉ vào em tiếp theo để truyền thì em này chỉ việc nói kết quả bằng 18.
+ Trò chơi này không cầu kỳ nhưng vẫn gây được không khí vui, sôi nổi, hào
hứng trong giờ học cho các em.
Trò chơi 2 : Ong đi tìm nhụy
(Trò chơi có thể áp dụng các bảng nhân, chia, cụ thể tiết..... Bảng chia 6)
Gv:Đặng Thị Xuân Diệu

6


SKKN:"Tổ chức trò chơi toán học trong dạy học môn Toán lớp 3".
- Mục đích :
+ Rèn tính tập thể
+ Giúp cho học sinh thuộc các bảng nhân, chia
- Chuẩn bị :
+ 2 bông hoa 5 cánh, mỗi bông một màu, trên mỗi cánh hoa ghi các số như sau,
mặt sau gắn nam châm.
5


7

8
9
6
+ 10 chú Ong trên mình ghi các phép tính, mặt sau có gắn nam châm
24 : 6

42 : 6
48 : 6

54 : 6
36 : 6

+ Phấn màu
- Cách chơi :
+ Chọn 2 đội, mỗi đội 4 em
+ Giáo viên chia bảng làm 2, gắn mỗi bên bảng mộ bông hoa và 5 chú Ong, ở
bên dưới không theo trật tự, đồng thời giới thiệu trò chơi.
Cô có 2 bông hoa trên những cánh hoa là các kết quả của phép tính, còn những
chú Ong thì chở các phép tính đi tìm kết quả của mình. Nhưng các chú Ong không biết
phải tìm như thế nao, các chú muốn nhờ các con giúp, các con có giúp được không ?
- 2 đội xếp thành hàng. Khi nghe hiệu lệnh "bắt đầu" thì lần lượt từng bạn lên
nối các phép tính với các số thích hợp. Bạn thứ nhất nối xong phép tính đầu tiên, trao
phấn cho bạn thứ 2 lên nối, cứ như vậy cho đến khi nối hết các phép tính. Trong vòng
1 phút, đội nào nối đúng và nhanh hơn là đội chiến thắng.
* Lưu ý : Sau khi học sinh chơi xong, giáo viên chấm và hỏi thêm một số câu
hỏi sau để khắc sâu bài học
+ Tại sao chú Ong

Gv:Đặng Thị Xuân Diệu

24 : 6

không tìm được đường về nhà ?
7


SKKN:"Tổ chức trò chơi toán học trong dạy học môn Toán lớp 3".
+ Phép tính "24 : 6" có kết quả bằng bao nhiêu ?
+ Muốn chú Ong này tìm đợc về thì phải thay đổi số trên cánh hoa như thế nào
?
Trò chơi 3 : Rồng cuốn lên mây
- Mục đích :
- Kiểm tra kỹ năng tính nhẩm của học sinh. Ví dụ : củng cố các bảng nhân,
chia...
- Chuẩn bị :
- Một tờ giấy viết sẵn các phép tính nhân, chia trong các bảng nhân chia trong
các bảng đã học
- Cách chơi : Một em được chủ định làm đầu rồng lên bảng
+ Em cất tiếng hát :
" Rồng cuốn lên mây
Rồng cuốn lên mây
Ai mà tính giỏi về đây với mình"
+ Sau đó em hỏi :
"Người tính giỏi có nhà hay không ?"
- Một em học sinh bất kỳ trả lời :
"Có tôi ! Có tôi !"
- Em làm đầu rồng ra phép tính đó, ví dụ : "42 : 7 bằng bao nhiêu ?"
- Em tính giỏi trả lời (nếu trả lời đúng thì được đi tiếp theo em đầu rồng). Cứ

như thế em làm đầu rồng cứ ra câu hỏi và cuốn đàn lên mây.
- Lưu ý : Ở trò chơi này nên chọn em làm đầu rồng (là em Trưởng trò) phải
nhanh nhẹn, hoạt bát.
Trò chơi 4 : Thi quay kim đồng hồ
(Tiết 13, 14 Bài xem đồng hồ - Thực hành xem đồng hồ)
Gv:Đặng Thị Xuân Diệu

8


SKKN:"Tổ chức trò chơi toán học trong dạy học môn Toán lớp 3".
- Mục đích :
+ Củng cố ky năng xem đồng hồ
+ Củng cố nhận biết các đơn vị thời gian (giờ phút)
- Chuẩn bị : 4 mô hình đồng hồ
- Cách chơi :
+ Chia lớp thành 4 đội (4 tổ theo lớp học)
+ Lần thứ nhất : Gọi 4 em lên bảng (4 em đại diện cho 4 đội), phát cho mỗi em
1 mô hình đồng hồ, chuẩn bị quay kim đồng hồ theo hiệu lệnh của giáo viên. Khi nghe
giáo viên hô to 1 giờ nào đó, 4 em này ngay lập tức phải quay kim đến đúng giờ đó.
Em nào quay chậm nhất hoặc sai lệch bị loại khỏi cuộc chơi.
+ Lần thứ hai : Các đội lại thay người chơi khác
+ Cứ chơi như vậy 8 - 10 lần. Đội nào còn nhiều thành viên nhất đội đó là đội
thắng cuộc.
* Lưu ý : Để các em chơi nhanh, vui và thử phản ứng nhanh giáo viên cần
chuẩn bị săn 1 số giờ viết ra giấy (không phải nghĩ lâu) để khi hô cho nhanh, ví dụ : 7
giờ 5 phút, 11 giờ 50 phút, 9 giờ kém 10 phút, 4 giờ kém 5 phút, 8 giờ 7 phút, 12 giờ
34 phút, 4 giờ kém 13 phút...
Trò chơi 5 : Bác đưa thư
(Áp dụng dạy các bảng nhân, bảng chia)

- Mục đích : Giúp học sinh thuộc lòng bảng nhân 6. Kết hợp với các thói quen nói
"cảm ơn" khi người khác giúp một việc gì
- Chuẩn bị : + Một số thẻ, mỗi thẻ có ghi 1 số 6, 12, 15, 24, 30, 36.... 60 là kết quả của
các phép nhân để làm số nhà.
+ Một số phong bì có ghi phép nhân trong bảng 6 : 1x6, 6x1, 2x6, 6x2...
+ Một tấm các đeo ở ngực ghi "Nhân viên bưu điện".
- Cách chơi :
+ Gọi 1 số em lên bảng chơi giáo viên phát cho mỗi 1 thẻ để làm số nhà. Một
em đóng vai "Bác đưa thư" ngực đeo "Nhân viên bưu điện" tay cầm tập phong bì.
+ Một số em đứng trên bảng, lần lượt từng em một nói :
Gv:Đặng Thị Xuân Diệu

9


SKKN:"Tổ chức trò chơi toán học trong dạy học môn Toán lớp 3".
Bác đưa thư ơi
Cháu có thư không ?
Đưa giúp cháu với
Số nhà .............. 12
Khi dọc đến câu cuối cùng "số nhà .............. 12" thì đồng thời em đó giơ só nhà 12
của mình lên cho cả lớp xem. Lúc này nhiệm vụ của "Bác đưa thư" phải tính nhẩm cho
nhanh để chọn đúng lá thư có ghi phép tính có kết quả là số tương ứng giao cho chủ
nhà (ở trường hợp này phải chọn phong bì "6x2" hoặc "2x6" giao cho chủ nhà. Chủ
nhà nhận thư và nói lời "cảm ơn". Cứ như vậy các bạn chơi lại nói và "Bác đưa thư"
lại tiếp tục đưa thư cho các nhà.
Nếu "bác đưa thư" nhẩm sai, đưa không đúng địa chỉ nhận thì không được đóng
vai đưa thư nữa mà trở về chỗ để các bạn khác lên thay.
Nếu các lần thư đều đúng thì sau 3 lần được cô giáo tuyên dương và đổi chỗ cho
bạn khác chơi.

Trò chơi 6 : Mua và bán
(Áp dụng trong bài : Tiền Việt Nam - Tiết 125, 126, 127)
- Mục đích :
+ Củng cố cho học sinh nhận biết và sử dụng một số loại giấy bạc trong phạm vi
100.000 đồng (1.000 đồng, 2.000 đồng, 5.000 đồng, 10.000 đồng, 20.000 đồng,
50.000 đồng, 100.000 đồng)
+ Rèn kỹ năng cộng, trừ các số hơn đơn vị "đồng"
+ Thực hành trả tiền và nhận lại tiền thừa trong khi mua và bán
- Chuẩn bị :
+ 1 số tờ giấy bạc loại 500 đồng, 1.000 đồng, 2.000 đồng, 5. 000 đồng, 10.000
đồng)
+ 1 số đồ vật : bóng, giấy kiểm tra, hồ dán, cặp tóc, tranh cát.
+ 1 số tờ bìa ghi giá 1.000 đồng; 3.000 đồng; 6.000 đồng; 7.000 dồng; 55.000
đồng; 15.000 đồng.
+ Tất cả bày lên bàn giáo viên
- Cách chơi :
Gv:Đặng Thị Xuân Diệu

10


SKKN:"Tổ chức trò chơi toán học trong dạy học môn Toán lớp 3".
+ Gọi 2 em chơi : - 1 em đóng người bán hàng
- 1 em đóng người mua hàng
+ Phát tiền cho cả 2 em
+ Người mua hàng có thể mua bất ky mặt hàng nào trả tiền theo đúng giá ghi
trên sản phẩm người mua và người bán hàng sẽ phải suy nghĩ
Ví dụ : Mua bóng giá 1.500 đồng
Người mua đưa trả : 2.000 đồng
Người bán phải suy nghĩ và trả lại : 500 đồng

- Sau mỗi 1 lần 2 em đóng vai mua bán xong cho các bạn nhận xét, nếu đúng
thid được chơi lần 2 và được thưởng một vài nhãn vở. Nếu sai thì về chỗ để bạn khác
lên chơi.
* Tổng kết : Khen nhưng em nghĩ ra cách trả tiền để người bán phải suy nghĩ trả
lại khó và em biết tính để trả lại cho đúng là những "nhà kinh doanh giỏi".
Trò chơi 7 : Hái hoa dân chủ
(Áp dụng trong những tiết ôn toán cuối năm)
- Mục đích :
Rèn các kỹ năng tính nhẩm cộng, trừ, nhân, chia kỹ năng giải toán.
- Chuẩn bị :
+ Một cây cảnh, trên có đính các bông hoa bằng giấy màu trong có các đề toán.
Chẳng hạn
Em hãy đọc bảng nhân 8.
Em hãy đọc bảng nhân 9.
Tính chu vi mảnh đất hình chữ nhật có chiều dài 125m, chiều rộng 68 m
Kim ngắn chỉ số 3, kim dài chỉ số 11. Hỏi là mấy giờ ?
7m3cm, bằng bao nhiêu cm
Vẽ lên đồng hồ chỉ 14 giờ 27 phút
Câu đố :

Vừa trống vừa mái
Đếm đi đếm lại

Gv:Đặng Thị Xuân Diệu

11


SKKN:"Tổ chức trò chơi toán học trong dạy học môn Toán lớp 3".
Tất cả sáu mươi

Mái một phần tư
Còn là gà trống
Đố em tính được
Trống, mái mấy con ?
- Phần thưởng
+ Đồng hồ
- Cách chơi :Cho các em chơi trong lớp. Lần lượt từng em lên hái hoa. Em nào
hái được hoa thì đọc to yêu cầu cho cả lớp cùng nghe. Sau đó suy nghĩ trong vòng 30
giây rồi trình bày câu trả lời trước lớp. Em nào trả lời đúng thì được khen và được một
phần thưởng.
Tổng kết chung khen những em chơi tốt trong năm
C.KẾT LUẬN.
1. Kết quả thực nghiệm
Sau khi lựa chọn để vận dụng một số trò chơi toán học đã nêu trên vào tiết học.
Không những học sinh nắm được kiến thức bài hoc mà còn nhớ rất lâu những kiến
thức của bài học đó.
- Các em được rèn khả năng nhanh nhẹn, khéo léo và tạo cho các em mạnh dạn,
tự tin hơn.
- Điều đáng mừng là các em rất hào hứng, chờ đợi tiết học toán cho các em lòng
yêu thích, ham mê môn toán.
2. Bài học kinh nghiệm
Trò chơi học tập là một loại hình hoạt động vui chơi có nhiều tác dụng trong các
giờ học của học sinh tiểu học. Trò chơi học tập tạo ta không khí vui tươi, hồn nhiên,
sinh động trong giờ học. Nó còn kích thích được trí tưởng tượng, tò mò, ham hiểu biết
ở trẻ.
Tổ chức tốt trò chơi học tập không chỉ làm cho các em hứng thú hơn trong học
tập mà còn giúp các em tự tin hơn, có được cơ hội tự khẳng định mình và tự đánh giá
nhau trong học tập.
Việc tổ chức trò chơi trong các giờ học toán là vô cùng cần thiết. Song không
nên quá lạm dụng phương pháp này, ở mỗi giờ học ta chỉ nên tổ chức cho các em chơi

Gv:Đặng Thị Xuân Diệu

12


SKKN:"Tổ chức trò chơi toán học trong dạy học môn Toán lớp 3".
từ 1 đến 2 trò chơi trong khoảng từ 3 đến 5 phút hoặc cùng lắm 10 phút. Do vậy người
Giáo viên cần có kỹ năng tổ chức, hướng dẫn các em thực hiện các trò chơi thật hợp lý
và đồng bộ, phát huy được tối đa vai trò của học sinh.
Khi tổ chức trò chơi học tập nói chung và môn toán lớp 3 nói riêng, chúng ta
phải dựa vào nội dung bài học, vào điều kiện cơ sở vật chất của trường, thời gian trong
từng tiết học mà lựa chọn hoặc thiết kế các trò chơi cho phù hợp. Song để tổ chức
được trò chơi toán học có hiệu quả đòi hỏi mỗi người thầy phải có kế hoạch, chuẩn bị
thật chu đáo cho mỗi trò chơi.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Gio Linh, ngày 2 tháng 5 năm 2016
Giáo viên

Đặng Thị Xuân Diệu

Gv:Đặng Thị Xuân Diệu

13


SKKN:"Tổ chức trò chơi toán học trong dạy học môn Toán lớp 3".
D. MỤC LỤC
Trang
A Đặt vấn đề


1

I

Lý do chọn đề tài

1

1

Lý luận

1

2

Mục đích nghiên cứu đề tài

2

3

Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài

2

4

Phương pháp nghiên cứu đề tài


2

II Vị trí của môn Toán trong trường Tiểu học

3

III Đặc điểm tâm lý của học sinh Tiểu học

3

B Giải quyết vấn đề

4

I

Vai trò, tác dụng của trò chơi toán học

II Một số trò chơi toán học lớp 3

4
5

1

Tổ chức trò chơi trong môn Toán

5

2


Giới thiệu một số trò chơi Toán học lớp 3

7

III Giáo trình môn Toán minh họa

15

C Kết luận

19

Kết quả đạt được

19

II Bài học kinh nghiệm

19

I

Nâng cao chất lượng giảng dạy tuyến kiến thức "Giải toán có lời văn" ở lớp 1
Ngày cập nhật: 26/06/2008
N©ng cao chÊt lưîng gi¶ng d¹y
tuyến kiến thức "Giải toán có lời văn"
Ở lớp 1

Gv:Đặng Thị Xuân Diệu


14


SKKN:"T chc trũ chi toỏn hc trong dy hc mụn Toỏn lp 3".
--------------------------------------Phn 1: C s lý lun
I - C s lý lun
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc và sự thách thức trớc nguy cơ tụt hậu trong
cạnh tranh trí tuệ đang đòi hỏi phải đổi mới giáo dục, trong đó có sự đổi mới cơ bản về phơng
pháp dạy học. Những phơng pháp dạy học kích thích sự tìm tòi, đòi hỏi sự t duy của học sinh
đợc đặc biệt chú ý. Mục tiêu giáo dục của Đảng đã chỉ rõ: ... Đào tạo có chất lợng tốt những
ngời lao động mới có ý thức và đạo đức xã hội chủ nghĩa, có trình độ văn hoá phổ thông và
hiểu biết kỹ thuật, có kỹ năng lao động cần thiết, có óc thẩm mỹ, có sức khoẻ tốt... . Muốn
đạt đợc mục tiêu này thì dạy và học Toán trong trờng phổ thông là một khâu quan trọng của quá
trình dạy học. Cố thủ tớng Phạm Văn Đồng cũng nói về vị trí vai trò của bộ môn Toán: Trong
các môn khoa học và kỹ thuật, toán học giữ một vị trí nổi bật. Nó có tác dụng lớn đối với kỹ
thuật, với sản xuất và chiến đấu. Nó là một môn thể thao của trí tuệ, giúp chúng ta nhiều
trong việc rèn luyện phơng pháp suy nghĩ, phơng pháp suy luận, phơng pháp học tập, phơng
pháp giải quyết các vấn đề, giúp chúng ta rèn luyện trí thông minh sáng tạo. Nó còn giúp
chúng ta rèn luyện nhiều đức tính quý báu khác nh: Cần cù và nhẫn nại, tự lực cánh sinh, ý
chí vợt khó, yêu thích chính xác, ham chuộng chân lý. Để đáp ứng những yêu cầu mà xã hội
đặt ra, Giáo dục và đào tạo phải có những cải tiến, điều chỉnh, phải thay đổi về nội dung chơng trình,
đổi mới phơng pháp giảng dạy cho phù hợp. Hội nghị BCH trung ơng khoá VIII lần thứ 2 đã chỉ rõ: "
Đổi mới mạnh mẽ phơng pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện t
duy sáng tạo của ngời học. Từng bớc áp dụng phơng pháp tiên tiến, phơng pháp hiện đại vào quá
trình dạy học". Trong luật Giáo dục, Khoản 2, điều 24 đã ghi: " Phơng pháp giáo dục phổ thông
phải phát huy tính tích cực, tự giác , chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của
từng lớp học, môn học; bồi dỡng phơng pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh". Đổi mới cách
thực hiện PPDH là vấn đề then chốt của chính sách đổi mới giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện

nay. Đổi mới cách thực hiện PPDH sẽ làm thay đổi tận gốc nếp nghĩ, nếp làm của các thế hệ học trò chủ nhân tơng lai của đất nớc. Nh vậy, đổi mới PPDH sẽ tác động vào mọi thành tố của quá trình giáo
dục và đào tạo. Nó tạo ra sự hiện đại hoá của quá trình này. Đổi mới PPDH thực chất không phải là sự
thay thế các PPDH cũ bằng một loạt các PPDH mới. Về mặt bản chất, đổi mới PPDH là đổi mới cách
tiến hành các phơng pháp, đổi mới phơng tiện và hình thức triển khai phơng pháp trên cơ sở khai thác
triệt để u điểm các phơng pháp cũ và vận dụng linh hoạt một số phơng pháp mới nhằm phát huy tối đa
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của ngời học. Mục đích của đổi mới PPDH chính là làm thế nào để
HS phải thực sự tích cực, chủ động, tự giác, luôn trăn trở tìm tòi, suy nghĩ và sáng tạo trong quá trình
lĩnh hội tri thức và lĩnh hội cả cách thức để có đợc tri thức ấy nhằm phát triển và hoàn thiện nhân cách

Gv:ng Th Xuõn Diu

15


SKKN:"T chc trũ chi toỏn hc trong dy hc mụn Toỏn lp 3".
của mình.Mặt khác môn toán thiết thực góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học theo đặc
trng và khả năng của môn Toán, cụ thể là chuẩn bị cho học sinh những tri thức , kỹ năng toán
học cơ bản cần thiết cho việc học tập hoặc bớc vào cuộc sống lao động.
Đối với môn Toán lớp 1, môn học có vị trí nền tảng, là cái gốc, là điểm xuất phát của cả một
bộ môn khoa học. Môn Toán mở đờng cho các em đi vào thế giới kỳ diệu của toán học. Rồi mai
đây, các em lớn lên , nhiều em trở thành vĩ nhân, trở thành anh hùng, nhà giáo, nhà khoa học,
nhà thơ... trở thành những ngời lao động sáng tạo trên mọi lĩnh vực sản xuất và đời sống ; trên
tay có máy tính xách tay, trong túi có máy tính bỏ túi... nhng không bao giờ các em quên đợc
những ngày đầu tiên đến trờng học đếm và tập viết 1, 2, 3 ... học các phép tính cộng, trừ... Các
em không quên đợc vì đó là kỷ niệm đẹp đẽ nhất của đời ngời và hơn thế nữa, những con số,
những phép tính ấy cần thiết cho suốt cả cuộc đời.
Đối với mạch kiến thức : "Giải toán có lời văn", là một trong năm mạch kiến thức cơ bản xuyên
suốt chơng trình Toán cấp tiểu học. Thông qua giải toán có lời văn, các em đợc phát triển trí tuệ, đợc
rèn luyện kỹ năng tổng hợp: đọc, viết, diễn đạt, trình bày, tính toán. Toán có lời văn là mạch kiến thức
tổng hợp của các mạch kiến thức toán học, giải toán có lời văn các em sẽ đợc giải các loại toán về số

học, các yếu tố đại số, các yếu tố hình học và đo đại lợng. Toán có lời văn là chiếc cầu nối giữa toán
học và thực tế đời sống, giữa toán học với các môn học khác.
II - Cơ sở thực tiễn
1) Về học sinh
Trong các tuyến kiến thức toán ở chơng trình toán Tiểu học thì tuyến kiến thức Giải toán có
lời văn là tuyến kiến thức khó khăn nhất đối với học sinh, và càng khó khăn hơn đối với học
sinh lớp Một. Bởi vì đối với lớp Một: Vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu, khả năng t duy
lôgic của các em còn rất hạn chế. Một nét nổi bật hiện nay là nói chung học sinh cha biết cách
tự học, cha học tập một cách tích cực. Nhiều khi với một bài toán có lời văn các em có thể đặt
và tính đúng phép tính của bài nhng không thể trả lời hoặc lý giải là tại sao các em lại có đợc
phép tính nh vậy. Thực tế hiện nay cho thấy, các em thực sự lúng túng khi giải bài toán có lời
văn. Một số em cha biết tóm tắt bài toán, cha biết phân tích đề toán để tìm ra đờng lối giải, cha
biết tổng hợp để trình bày bài giải, diễn đạt vụng về, thiếu lôgic. Ngôn ngữ toán học còn rất hạn
chế, kỹ năng tính toán, trình bày thiếu chính xác, thiếu khoa học, cha có biện pháp, phơng pháp
học toán, học toán và giải toán một cách máy móc nặng về dập khuôn, bắt chớc.
1.1. Kết quả khảo sát tại 1 trờng Tiểu học
Đề bài: Lớp 1A trồng đợc 24 cây, lớp 1B trồng đợc 30 cây. Hỏi cả 2 lớp trồng đợc bao nhiêu cây?
Số học sinh
Tỉ lệ %
đạt/Tổng
số
Xếp loại
Điểm
Lỗi của học sinh trong bài khảo sát
Giỏi
9 , 10
16/61
Trình bày còn bẩn
26,2
Khá

7,8
21/61
Trình bày còn bẩn, câu lời giải cha chuẩn
34,4

Gv:ng Th Xuõn Diu

16


SKKN:"T chc trũ chi toỏn hc trong dy hc mụn Toỏn lp 3".
Trung
5,6
20/61
Chỉ làm đúng phép tính, và đáp số đúng, sai
32,8
bình
tên đơn vị, sai câu lời giải ...
Yếu
Dới 5
4/61
Không biết làm bài.
6,6
2.2 Ưu điểm
- Phần lớn học sinh biết làm bài toán có lời văn. Kết quả của bài toán đúng.
- Học sinh ham học, có hứng thú học tập môn Toán nói chung và Giải bài toán có lời văn nói
riêng.
- Học sinh bớc đầu biết vận dụng bài toán có lời văn vào thực tế.
2.3. Hạn chế
- Trình bày bài làm còn cha sạch đẹp.

- Một số học sinh cha biết cách đặt câu lời giải phù hợp.
- Một số ít học sinh không hiểu nội dung bài toán có lời văn dẫn đến không làm đợc bài.
2) Về đồ dùng dạy học :
T duy của học sinh lớp Một là t duy cụ thể, để học sinh học tốt Giải toán có lời văn trong
quá trình giảng dạy rất cần đồ dùng thiết bị dạy học để minh hoạ.
Trong những năm qua, các trờng tiểu học đã đợc cung cấp khá nhiều trang thiết bị và đồ dùng
dạy học đồng bộ để dạy cho cả cấp học và những bộ va-li để dạy theo lớp nhng thống kê theo
danh mục thì số lợng vẫn cha đáp ứng đợc đầy đủ yêu cầu dạy Giải toán có lời văn.
3) Về giáo viên
Vẫn còn một số giáo viên chuyển đổi phơng pháp giảng dạy còn lúng túng, cha ph át huy đợc
tích cực chủ động của học sinh, phơng pháp dạy học truyền thống đã ăn sâu vào t duy vào lề lối
dạy học hàng ngày. Một số giáo viên dạy theo cách thông báo kiến thức sẵn có, dạy theo phơng
pháp thuyết trình có kết hợp với đàm thoại, thực chất vẫn là thầy truyền thụ, trò tiếp nhận ghi
nhớ. Một số giáo viên cha biết cách dạy loại Toán có lời văn, không muốn nói là làm cho bài
toán trở nên phức tạp, khó hiểu hơn. Một số giáo viên ngại sử dụng đồ dùng minh hoạ, ngại tóm
tắt bằng sơ đồ hình vẽ hoặc đoạn thẳng, sử dụng phơng pháp phân tích, tổng hợp trong việc giúp
học sinh tìm đờng lối giải và giải toán còn khó hiểu.
4) Những sai lầm và khó khăn thờng gặp của giáo viên và học sinh khi dạy và học tuyến kiến
thức : Giải toán có lời văn ở lớp 1.
Về mặt nhận thức giáo viên còn coi việc dạy cho học sinh Giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1
là đơn giản, dễ dàng nên cha tìm tòi nghiên cứu để có phơng pháp giảng dạy có hiệu quả.
Vốn từ, vốn kiến thức, kinh nghiệm thực tế của học sinh lớp 1 còn rất hạn chế nên khi giảng dạy cho
học sinh lớp 1 giáo viên đã diễn đạt nh với các lớp trên làm học sinh lớp 1 khó hiểu và không thể tiếp
thu đợc kiến thức và không đạt kết quả Tốt trong việc giải các bài toán có lời văn.
Khả năng phối hợp, kết hợp với nhiều phơng pháp để dạy tuyến kiến thức: Giải toán có lời văn ở
lớp 1 còn thiếu linh hoạt.
Giáo viên còn lúng túng khi tạo các tình huống s phạm để nêu vấn đề.
Cha khuyến khích động viên và giúp đỡ một cách hợp lý các nhóm cũng nh các đối tợng học sinh
trong quá trình học.
Khả năng kiên trì của học sinh lớp 1 trong quá trình học nói chung cũng nh học Giải toán có lời

văn nói riêng còn cha cao.

Gv:ng Th Xuõn Diu

17


SKKN:"T chc trũ chi toỏn hc trong dy hc mụn Toỏn lp 3".
III/ Quá trình nghiên cứu
- Năm học 2003 - 2004 tôi đợc phân công dạy lớp 1. Trong suốt năm học tôi tìm hiểu, ghi
chép tập hợp những u điểm, thiếu sót của học sinh trong lớp về " Giải toán có lời văn". Tôi đã
mạnh dạn trao đổi cùng Ban giám hiệu, bạn bè đồng nghiệp trong và ngoài trờng về những u
điểm và thiếu sót của học sinh lớp 1 nói chung trong việc " Giải toán có lời văn", đồng thời trao
đổi, bàn bạc và đề xuất một số ý kiến để phát huy u điểm và khắc phục thiếu sót của học sinh và
giáo viên.
- Năm học 2004 - 2005 tôi tiếp tục dạy lớp 1. Tôi mạnh dạn áp dụng một số kinh nghiệm,
đồng thời tiếp tục tìm hiểu thêm những vớng mắc của học sinh cũng nh của giáo viên về " Giải
toán có lời văn", bổ xung thêm cách tháo gỡ, tích luỹ thêm kinh nghiệm và áp dụng vào thực tế.
- Năm học 2005 - 2006 tôi tiếp tục dạy lớp 1. áp dụng kinh nghiệm và đánh giá kết quả học tập
của học sinh về "Giải toán có lời văn".

Từ cơ sở lý luận và thực tiễn, qua thực tế giảng dạy tôi xin mạnh dạn đề xuất
một số kinh nghiệm: Nâng cao chất lợng giảng dạy tuyến kiến thức Giải
toán có lời văn ở lớp Một




Phần ii: nội dung
I/ Những nội dung đợc đề cập trong Sáng kiến kinh nghiệm

1) Nắm bắt nội dung chơng trình.
2) Sử dụng đồ dùng thiết bị trong dạy " Giải toán có lời văn".

Gv:ng Th Xuõn Diu

18


SKKN:"T chc trũ chi toỏn hc trong dy hc mụn Toỏn lp 3".
3) Dạy "Giải toán có lời văn" ở lớp Một.
4) Một số phơng pháp thờng sử dụng trong giảng dạy Giải toán có lời văn ở lớp 1.
II/ Biện pháp giải quyết
1) Nắm bắt nội dung chơng trình
Để dạy tốt môn Toán lớp 1 nói chung, "Giải bài toán có lời văn" nói riêng, điều đầu tiên mỗi
giáo viên phải nắm thật chắc nội dung chơng trình, sách giáo khoa. Nhiều ngời nghĩ rằng Toán
tiểu học, và đặc biệt là toán lớp 1 thì ai mà chả dạy đợc. Đôi khi chính giáo viên đang trực tiếp
dạy cũng rất chủ quan và cũng có những suy nghĩ tơng tự nh vậy. Qua dự giờ một số đồng chí
giáo viên tôi nhận thấy giáo viên dạy bài nào chỉ cốt khai thác kiến thức của bài ấy, còn các
kiến thức cũ có liên quan giáo viên nắm không thật chắc. Ngời ta thờng nói " Biết 10 dạy 1" chứ
không thể " Biết 1 dạy 1" vì kết quả thu đợc sẽ không còn là 1 nữa.
a) Trong chơng trình toán lớp Một giai đoạn đầu học sinh còn đang học chữ nên cha thể đa
ngay "Bài toán có lời văn". Mặc dù đến tận tuần 23, học sinh mới đợc chính thức học cách giải
"Bài toán có lời văn" song chúng ta đã có ý ngầm chuẩn bị từ xa cho việc làm này ngay từ bài
"Phép cộng trong phạm vi 3 (Luyện tập) " ở tuần 7.
* Bắt đầu từ tuần 7 cho đến các tuần 16 trong hầu hết các tiết dạy về phép cộng trừ trong phạm
vi (không quá) 10 đều có các bài tập thuộc dạng "Nhìn tranh nêu phép tính" ở đây học sinh đợc
làm quen với việc:
- Xem tranh vẽ.
- Nêu bài toán bằng lời.
- Nêu câu trả lời.

- Điền phép tính thích hợp (với tình huống trong tranh).
Ví dụ: Sau khi xem tranh vẽ ở trang 46 (SGK), học sinh tập nêu bằng lời : "Có 1 quả bóng
trắng và 2 quả bóng xanh. Hỏi có tất cả mấy quả bóng?" rồi tập nêu miệng câu trả lời : "có tất cả
3 quả bóng", sau đó viết vào dãy năm ô trống để có phép tính :
1

+

2

=

3

* Tiếp theo đó, kể từ tuần 17, học sinh đợc làm quen với việc đọc tóm tắt rồi nêu đề toán bằng
lời, sau đó nêu cách giải và tự điền số và phép tính thích hợp vào dãy năm ô trống. ở đây không
còn tranh vẽ nữa (xem bài 3b - trang 87, bài 5 - trang 89).
* Việc ngầm chuẩn bị cho học sinh các tiền đề để giải toán có lời văn là chuẩn bị cho học sinh
cả về viết câu lời giải và viết phép tính. Chính vì vậy ngay sau các bài tập "nhìn tranh điền phép
tính thích hợp vào dãy 5 ô trống" chúng ta chịu khó đặt thêm cho các em những câu hỏi để các
em trả lời miệng.
Ví dụ: Từ bức tranh "3 con chim trên cành, 1 con chim bay tới" ở trang 47 - SGK, sau khi học
sinh điền phép tính vào dãy ô trống:

Gv:ng Th Xuõn Diu

19


SKKN:"T chc trũ chi toỏn hc trong dy hc mụn Toỏn lp 3".

3

+

1

=

4

Giáo viên nên hỏi tiếp: "Vậy có tất cả mấy con chim?" để học sinh trả lời miệng: "Có tất cả 4
con chim" ; hoặc "Số chim có tất cả là bao nhiêu? (Số chim có tất cả là 4) ...
Cứ làm nh vậy nhiều lần, học sinh sẽ quen dần với cách nêu lời giải bằng miệng. Do đó các
em sẽ dễ dàng viết đợc các câu lời giải sau này.
* Tiếp theo, trớc khi chính thức học "Giải các bài toán có lời văn" học sinh đợc học bài nói về
cấu tạo của một bài toán có lời văn (gồm hai thành phần chính là những cái đã cho ( đã biết) và
những cái phải tìm (cha biết). Vì khó có thể giải thích cho học sinh "Bài toán là gì?" nên mục
tiêu của tiết này là chỉ giới thiệu cho các em hai bộ phận của một bài toán:
+ Những cái đã cho (dữ kiện)
+ Và cái phải tìm (câu hỏi).
Để làm việc này sách Toán 1 đã vẽ bốn bức tranh, kèm theo là bốn đề toán: 2 đề còn thiếu dữ
kiện, 1 đề còn thiếu câu hỏi, 1 đề thiếu cả dữ kiện lẫn câu hỏi (biểu thị bằng dấu ...) Học sinh
quan sát tranh rồi nêu miệng đề toán, sau đó điền số vào chỗ các dữ kiện rồi điền từ vào chỗ câu
hỏi (còn để trống). Từ đó giáo viên giới thiệu cho các em " Bài toán thờng có hai phần ":
+ Những số đã cho.
+ Số phải tìm (câu hỏi).
Bài này giúp các em hiểu sâu hơn về cấu tạo của "Bài toán có lời văn".
b) * Các loại toán có lời văn trong chơng trình chủ yếu là hai loại toán "Thêm - Bớt" thỉnh
thoảng có biến tấu một chút:
- Bài toán "Thêm" thành bài toán gộp, chẳng hạn: "An có 4 quả bóng, Bình có 3 quả bóng. Hỏi

cả hai bạn có mấy quả bóng?", dạng này khá phổ biến.
- Bài toán "Bớt" thành bài toán tìm số hạng, chẳng hạn : " Lớp 1A có 35 bạn, trong đó có 20
bạn nữ. Hỏi lớp 1A có bao nhiêu bạn nam?", dạng này ít gặp vì dạng này hơi khó (trớc đây dạy
ở lớp 2)
* Về hình thức trình bày bài giải, học sinh phải trình bày bài giải đầy đủ theo quy định thống
nhất từ lớp 1 đến lớp 5:
- Câu lời giải.
- Phép tính giải.
- Đáp số.
Ví dụ: Xét bài toán "Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi nhà An có tất cả mấy
con gà?"
* Học sinh lớp 1 cũ chỉ cần giải bài toán trên nh sau:
Bài giải
5 + 4 = 9 ( con gà )

Gv:ng Th Xuõn Diu

20


SKKN:"T chc trũ chi toỏn hc trong dy hc mụn Toỏn lp 3".
Học sinh lớp 1 hiện nay phải giải nh sau:
Bài giải
5 + 4 = 9 ( con gà )
Đáp số : 9 con gà
* Về số lợng bài toán trong một tiết học đợc rút bớt để dành thời gian cho trẻ viết câu lời giải.
Chẳng hạn trớc đây trong 1 tiết " Bài toán nhiều hơn" học sinh phải giải 8 bài toán (4 bài mẫu, 4
bài luyện tập) , thì bây giờ trong tiết " Giải toán có lời văn (thêm) " học sinh phải giải 4 bài (1
bài mẫu, 3 bài luyện tập) ...
* Để lờng trớc về vốn từ và khả năng đọc hiểu của học sinh khi "Giải bài toán có lời văn"

chơng trình toán 1 đã có những giải pháp:
- Hạn chế dùng các vần khó và tiếng khó trong đề toán nh: thuyền, quyển, Quỳnh, ... tăng
cờng dùng các vần và tiếng dễ đọc , dễ viết nh : cam, gà, Lan, ... trong các đề toán.
- Lựa chọn câu hỏi trong đề toán sao cho học sinh chỉ cần chỉnh sửa một chút xíu thôi là đợc
ngay câu lời giải.
- Cài sẵn "cốt câu" lời giải vào tóm tắt để học sinh có thể dựa vào tóm tắt mà viết câu lời giải.
- Cho phép (thậm chí khuyến khích) học sinh tự nghĩ ra nhiều cách đặt lời giải khác nhau.
Chẳng hạn, với bài toán : "An có 4 quả bóng. Bình có 3 quả bóng. Hỏi cả hai bạn có mấy quả
bóng?"; Học sinh có thể đặt lời giải theo rất nhiều cách nh:
+ Cả hai bạn có: ........
+ Hai bạn có: ..........
+ An và bình có: ..........
+ Tất cả có: ..........
+ Số bóng tất cả là: ...........
2) Sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học
Nh chúng ta đã biết, con đờng nhận thức của học sinh tiểu học là: "Từ trực quan sinh động đến
t duy trừu tợng, rồi từ t duy trừu tợng trở lại thực tiễn". Đồ dùng thiết bị dạy học là phơng tiện
vật chất, phơng tiện hữu hình cực kỳ cần thiết khi dạy "Giải toán có lời văn" cho học sinh lớp
Một. Cũng trong cùng một bài toán có lời văn, nếu chỉ dùng lời để dẫn dắt, dùng lời để hớng dẫn
học sinh làm bài thì vừa vất vả tốn công, vừa không hiệu quả và sẽ khó khăn hơn rất nh iều so
với dùng đồ dùng thiết bị, tranh ảnh, vật thực để minh hoạ. Chính vì vậy rất cần thiết phải sử
dụng đồ dùng thiế bị dạy học để dạy học sinh "Giải bài toán có lời văn".
Hiện nay bộ đồ dùng trang bị đến từng lớp đã có khá nhiều các đồ dùng mẫu vật cho việc sử
dụng dạy "Giải toán có lời văn" song vẫn là thiếu nếu giáo viên thực sự có trách nhiệm. Mỗi nhà
trờng cần có kế hoạch mua bổ xung, từng tổ khối, cá nhân giáo viên cần su tầm, làm thêm các
thiết bị nh: vật thực, tranh ảnh... làm đồ dùng, dùng chung và riêng cho từng lớp.

Gv:ng Th Xuõn Diu

21



SKKN:"T chc trũ chi toỏn hc trong dy hc mụn Toỏn lp 3".
Một điều hết sức quan trọng là một số giáo viên còn ngại, hoặc lúng túng sử dụng đồ dùng dạy
học khi giảng dạy nói chung và khi dạy "Giải toán có lời văn" nói riêng. Để khắc phục tình
trạng này, giáo viên cần có ý thức chuẩn bị sử dụng đồ dùng dạy học trớc khi lên lớp. Cần cải
tiến nội dung sinh hoạt chuyên môn để đa việc thống nhất sử dụng đồ dùng dạy học và phơng
pháp sử dụng đồ dùng dạy học.
3) Dạy "Giải bài toán có lời văn" ở lớp Một.
3.1/ Quy trình " Giải bài toán có lời văn " thông thờng qua 4 bớc:
- Đọc và tìm hiểu đề bài.
- Tìm đờng lối giải bài toán.
- Trình bày bài giải
- Kiểm tra lại bài giải.
a) Đọc và tìm hiểu đề toán
Muốn học sinh hiểu và có thể giải đợc bài toán thì điều quan trọng đầu tiên là ph ải giúp các
em đọc và hiểu đợc nội dung bài toán. Giáo viên cần tổ chức cho các em đọc kỹ đề toán, hiểu rõ
một số từ khoá quan trọng nh " thêm , và , tất cả, ... " hoặc "bớt, bay đi, ăn mất, còn lại , ..." (có
thể kết hợp quan sát tranh vẽ để hỗ trợ). Để học sinh dễ hiểu đề bài, giáo viên cần gạch chân các
từ ngữ chính trong đề bài. Một số giáo viên còn gạch chân quá nhiều các từ ngữ, hoặc gạch chân
các từ cha sát với nội dung cần tóm tắt. Khi gạch chân nên dùng phấn màu khác cho dễ nhìn.
Trong thời kỳ đầu, giáo viên nên giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách đàm thoại " Bài toán
cho gì? Hỏi gì?" và dựa vào câu trả lời của học sinh để viết tóm tắt, sau đó cho học sinh dựa vào
tóm tắt để nêu lại đề toán. Đây là cách rất tốt để giúp trẻ ngầm phân tích đề t oán.
Nếu học sinh gặp khó khăn trong khi đọc đề toán thì giáo viên nên cho các em nhìn tranh và
trả lời câu hỏi. Ví dụ, với bài 3 trang 118, giáo viên có thể hỏi:
- Em thấy dới ao có mấy con vịt? (... có 5 con vịt)
- Trên bờ có mấy con vịt? ( ... có 4 con vịt)
- Em có bài toán thế nào? (...)
Sau đó giáo viên cho học sinh đọc (hoặc nêu) đề toán ở sách giáo khoa.

Trong trờng hợp không có tranh ở sách giáo khoa thì giáo viên có thể gắn mẫu vật (gà, vịt, ...)
lên bảng từ (bảng cài, bảng nỉ, ...) để thay cho tranh; hoặc dùng tóm tắt bằng lời hoặc sơ đồ
đoạn thẳng để hỗ trợ học sinh đọc đề toán.
* Thông thờng có 3 cách tóm tắt đề toán:
- Tóm tắt bằng lời:
Ví dụ1: Nga:
Hằng:

3 quyển
2 quyển

Cả hai bạn có: ... quyển?

Gv:ng Th Xuõn Diu

(A)

22


SKKN:"T chc trũ chi toỏn hc trong dy hc mụn Toỏn lp 3".
Ví dụ 2: Hạnh có:

35 que tính
? que tính

Vịnh có: 43 que tính
4
2


?bạn
- Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
Ví dụ:

Bạn trai
Bạn gái

- Tóm tắt bằng sơ đồ mẫu vật:
Ví dụ: Hàng trên:

? con gà
Hàng dới:
Với các cách tóm tắt trên sẽ làm cho học sinh dễ hiểu và dễ sử dụng.
Với cách viết thẳng theo cột nh:

14 quyển



26 quả

12 quyển

33 quả

... quyển

... quả

Kiểu tóm tắt nh thế này khá gần gũi với cách đặt tính dọc nên có tác dụng gợi ý cho học sinh

lựa chon phép tính giải.
Có thể lồng "cốt câu" lời giải vào trong tóm tắt, để dựa vào đó học sinh dễ viết câu lời giải
hơn. Chẳng hạn, dựa vào dòng cuối của tóm tắt (A) học sinh có thể viết ngay câu lời giải là :
"Cả hai bạn có:" hoặc "Số vở cả hai bạn có:" hoặc: "Cả hai bạn có số vở là:". Cần lu ý trớc đây
ngời ta thờng đặt dấu? lên trớc các từ nh quyển, quả, ... Song làm nh vậy thì hơi thiếu chuẩn
mực về mặt Tiếng Việt vì tất cả học sinh đều biết là dấu ? phải đặt cuối câu hỏi. Nếu tóm tắt
bằng sơ đồ đoạn thẳng hoặc sơ đồ mẫu vật thì đặt dấu ? ở đằng trớc các từ nh quyển, quả ,...
cũng đợc vì các tóm tắt ấy không phải là những câu. Tuy nhiên học sinh thờng có thói quen cứ
thấy dấu ... là điền số (dấu) vào đó nên giáo viên cần lu ý các em là: "Riêng trong trờng hợp này

Gv:ng Th Xuõn Diu

23


SKKN:"T chc trũ chi toỏn hc trong dy hc mụn Toỏn lp 3".
(trong tóm tắt ) thì dấu ... thay cho từ "mấy" hoặc "bao nhiêu" ; các em sẽ phải tìm cho ra số đó
để ghi vào Đáp số của Bài giải chứ không phải để ghi vào chỗ ... trong tóm tắt. Nếu không thể
giải thích cho học sinh hiểu đợc ý trên thì chúng ta cứ quay lại lối cũ, tức là đặt dấu hỏi (?) ra
đằng trớc theo kiểu "Còn ? quả" cũng đợc, không nên quá cứng nhắc.
Giai đoạn đầu nói chung bài toán nào cũng nên tóm tắt rồi cho học sinh dựa vào tóm tắt nêu
đề toán. Cần lu ý dạy giải toán là một quá trình. Không nên vội vàng yêu cầu các em phải đọc
thông thạo đề toán, viết đợc các câu lời giải, phép tính và đáp số để có một bài chuẩn mực ngay
từ tuần 23, 24. Chúng ta cần bình tĩnh rèn cho học sinh từng bớc, miễn sao đến cuối năm (tuần
33, 34, 35) trẻ đọc và giải đợc bài toán là đạt yêu cầu.
b) Tìm đờng lối giải bài toán.
* Sau khi giúp học sinh tìm hiểu đề toán để xác định rõ cái đã cho và cái phải tìm, chẳng hạn:
- Bài toán cho gì? (Nhà An có 5 con gà)
- Còn cho gì nữa? (Mẹ mua thêm 4 con gà)
- Bài toán hỏi gì? (Nhà An có tất cả mấy con gà?)

Giáo viên nêu tiếp: "Muốn biết nhà An có tất cả mấy con gà em làm tính gì? (tính cộng) Mấy
cộng mấy? (5 + 4) ; 5 + 4 bằng mấy? (5 + 4 = 9); hoặc: "Muốn biết nhà An có tất cả mấy con gà
em tính thế nào? (5 + 4 = 9); hoặc: "Nhà An có tất cả mấy con gà ?" (9) Em tính thế nào để đợc
9 ? (5 + 4 = 9).
Tới đây giáo viên gợi ý để học sinh nêu tiếp "9 này là 9 con gà", nên ta v iết "con gà" vào trong
dấu ngoặc đơn: 5 + 4 = 9 (con gà).
Tuy nhiên cũng có những học sinh nhìn tranh ở sách giáo khoa để đếm ra kết quả mà không
phải là do tính toán. Trong trờng hợp này giáo viên vẫn xác nhận kết quả là đúng, song cần hỏi
thêm: "Em tính thế nào?" (5 + 4 = 9). Sau đó nhấn mạnh: "Khi giải toán em phải nêu đợc phép
tính để tìm ra đáp số (ở đây là 9). Nếu chỉ nêu đáp số thì cha phải là giải toán.
* Sau khi học sinh đã xác định đợc phép tính, nhiều khi việc hớng dẫn học sinh đặt câu lời giải
còn khó hơn (thậm chí khó hơn nhiều) việc chọn phép tính và tính ra đáp số. Với học sinh lớp 1,
lần đầu tiên đợc làm quen với cách giải loại toán này nên các em rất lúng túng. Thế nào là câu
lời giải, vì sao phải viết câu lời giải? Không thể giải thích cho học sinh lớp 1 hiểu một cách thấu
đáo nên có thể giúp học sinh bớc đầu hiểu và nắm đợc cách làm. Có thể dùng một trong các
cách sau:
Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu (Hỏi) và cuối (mấy con gà ?) để có câu
lời giải : "Nhà An có tất cả:" hoặc thêm từ "là" để có câu lời giải : "Nhà An có tất cả là: "
Cách 2: Đa từ "con gà" ở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ "Hỏi" và thêm từ Số (ở đầu
câu), là ở cuối câu để có: "Số con gà nhà An có tất cả là:"
Cách 3: Dựa vào dòng cuối cùng của tóm tắt, coi đó là "từ khoá" của câu lời giải rồi thêm thắt

Gv:ng Th Xuõn Diu

24


SKKN:"T chc trũ chi toỏn hc trong dy hc mụn Toỏn lp 3".
chút ít.
Ví dụ: Từ dòng cuối của tóm tắt: "Có tất cả: ... con gà ?". Học sinh viết câu lời giải: "Nhà An

có tất cả:"
Cách 4: Giáo viên nêu miệng câu hỏi: "Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà?" để học sinh trả lời
miệng: "Nhà An có tất cả 9 con gà" rồi chèn phép tính vào để có cả bớc giải (gồm câu lời giải
và phép tính):
Nhà An có tất cả:
5 + 4 = 9 (con gà)
Cách 5: Sau khi học sinh tính xong: 5 + 4 = 9 (con gà), giáo viên chỉ vào 9 và hỏi: "9 con gà ở
đây là số gà của nhà ai?" (là số gà nhà An có tất cả). Từ câu trả lời của học sinh ta giúp các em
chỉnh sửa thành câu lời giải: "Số gà nhà An có tất cả là" v.v...
ở đây giáo viên cần tạo điều kiện cho các em tự nêu nhiều câu lời giải khác nhau, sau đó bàn
bạc dể chọn câu thích hợp nhất. Không nên bắt buộc trẻ nhất nhất phải viết theo một kiểu.
c) Trình bày bài giải
Có thể coi việc trình bày bài giải là trình bày một sản phẩm của t duy. Thực tế hiện nay các
em học sinh lớp 1 trình bày bài giải còn rất hạn chế, kể cả học sinh khá giỏi. Cần rèn cho học
sinh nề nếp và thói quen trình bày bài giải một cách chính xác, khoa học, sạch đẹp dù trong giấy
nháp, bảng lớp, bảng con hay vở, giấy kiểm tra. Cần trình bày bài giải một bài toán có lời văn nh
sau:
Bài giải
Nhà An có tất cả là:
5 + 4 = 9 ( con gà )
Đáp số : 9 con gà
Nếu lời giải ghi: "Số gà nhà An là:" thì phép tính có thể ghi: 5 + 4 = 9 (con). (Lời giải đã có
sẵn danh từ "gà"). Tuy nhiên nếu học sinh viết quá chậm mà lại gặp phải các từ khó nh "thuyền,
quyển, ..." thì có thể lợc bớt danh từ cho nhanh.
Giáo viên cần hiểu rõ lý do tại sao từ "con gà" lại đợc dặt trong dấu ngoặc đơn? Đúng ra thì 5
+ 4 chỉ bằng 9 thôi (5 + 4 = 9) chứ 5 + 4 không thể bằng 9 con gà đợc. Do đó, nếu viết: "5 + 4 =
9 con gà" là sai. Nói cách khác , nếu vẫn muốn đợc kết quả là 9 con gà thì ta phải viết nh sau
mới đúng: "5 con gà + 4 con gà = 9 con gà". Song cách viết phép tính với các danh số đầy đủ nh
vậy khá phiền phức và dài dòng, gây khó khăn và tốn nhiều thời gian đối với học sinh lớp 1.
Ngoài ra học sinh cũng hay viết thiếu và sai nh sau:

5 con gà + 4 = 9 con gà
5 + 4 con gà = 9 con gà
5 con gà + 4 con gà = 9

Gv:ng Th Xuõn Diu

25


×