Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẢI CÁCH ĐIỀU TIẾT LĨNH VỰC XÃ HỘI 20162017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC
CẢI CÁCH ĐIỀU TIẾT LĨNH VỰC XÃ HỘI

Giảng viên hướng dẫn:

PGS. TS Kim Ngọc

Nhóm 6:

Đào Quỳnh Anh
Trần Phƣơng Anh
Nguyễn Hồng Ngọc
Nguyễn Thị Ngọc
Phan Hồng Nhung
Phạm Thị Phƣợng
Nguyễn Minh Tâm

Hà Nội, 10/2015


MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................................................................................. i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .......................................................................................... iii
DANH MỤC BẢNG ........................................................................................................... iv
DANH MỤC HÌNH ............................................................................................................. v
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ CẢI CÁCH ĐIỀU TIẾT LĨNH VỰC XÃ
HỘI ....................................................................................................................................... 2


1.1

Cải cách điều tiết lĩnh vực xã hội ........................................................................ 2
1.1.1 Khái niệm cải cách điều tiết lĩnh vực xã hội ................................................ 2
1.1.2 Nội dung của cải cách điều tiết lĩnh vực xã hội ............................................. 4

1.2

Nguyên nhân dẫn đến cải cách điều tiết lĩnh vực xã hội ..................................... 7
1.2.1 Nguyên nhân khách quan ............................................................................... 7
1.2.2 Nguyên nhân chủ quan ................................................................................... 7

1.3

Vai trò của Nhà nƣớc trong cải cách điều tiết lĩnh vực xã hội ............................ 8

CHƢƠNG II: CẢI CÁCH ĐIỀU TIẾT LĨNH VỰC XÃ HỘI TRÊN THẾ GIỚI ............. 10
2.1 Tổng quan chung về cải cách điều tiết lĩnh vực xã hội trên thế giới ..................... 10
2.1.1 Tình hình xã hội trên thế giới ....................................................................... 10
2.1.2 Đặc điểm chung về cải cách điều tiết các lĩnh vực xã hội ........................... 11
2.2 Mô hình và xu hƣớng cải cách lĩnh vực xã hội ở Châu Âu ................................... 12
2.2.1 Mô hình an sinh xã hội ở Châu Âu .............................................................. 12
2.2.2 Mô hình nhà nƣớc phúc lợi ở Châu Âu ........................................................ 16
2.3 Cải cách điều tiết lĩnh vực xã hội ở Châu Á .......................................................... 24
2.3.1 Cải cách điều tiết lĩnh vực XH ở Nhật Bản .................................................. 24
2.3.2 Cải cách điều tiết lĩnh vực XH ở Trung Quốc ............................................. 39
i


CHƢƠNG III: CẢI CÁCH ĐIỀU TIẾT LĨNH VỰC XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ................. 48

3.1 Thực trạng cải cách điều tiết lĩnh vực xã hội ở Việt Nam trƣớc và sau đổi mới ... 48
3.1.1. Tổng quan cải cách điều tiết ASXH và PLXH ở Việt Nam: ....................... 48
3.1.2.

Cải cách giáo dục ở Việt Nam (2000-2010)............................................ 53

3.1.3 Chính sách bảo hiểm y tế ở Việt Nam......................................................... 60
3.1.4 Chính sách xóa đói giảm nghèo, giảm sự phân hóa giàu nghèo .................. 64
3.2. Nhận xét và đánh giá cải cách điều tiết lĩnh vực xã hội: ...................................... 72
3.2.1. Thành tựu đạt đƣợc: .................................................................................... 72
3.2.2. Hạn chế: ....................................................................................................... 77
3.2.3. Thách thức: .................................................................................................. 79
3.3. Định hƣớng, chính sách của Đảng và nhà nƣớc trong việc cải cách điều tiết
lĩnh vực xã hội: ............................................................................................................ 80
3.3.1. Đẩy mạnh triển khai các chƣơng trình phát triển kinh tế - xã hội gắn với
giải quyết việc làm. ............................................................................................................. 80
3.3.2. Phát triển đồng bộ, đa dạng và nâng cao chất lƣợng hệ thống bảo hiểm,
đồng thời có chính sách hỗ trợ phù hợp để ngƣời dân tích cực tham gia........................... 80
3.3.3. Thực hiện có hiệu quả chƣơng trình xoá đói giảm nghèo bền vững. .......... 81
3.3.4. Thực hiện tốt chính sách ƣu đãi đối với ngƣời có công và chính sách trợ
giúp xã hội cho các đối tƣợng bảo trợ xã hội. .................................................................... 81
3.3.5. Nhà nƣớc tăng thêm nguồn lực và phát huy vai trò chủ đạo để nâng cao
phúc lợi xã hội và phát triển đa dạng hệ thống các dịch vụ xã hội cơ bản. ........................ 82
3.3.6. Huy động sự tham gia của toàn xã hội để thực hiện tốt an sinh xã hội và
phúc lợi xã hội. ................................................................................................................... 82
KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................. 84
PHỤ LỤC ........................................................................................................................... 88

ii



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Nguyên nghĩa Tiếng Anh

Nguyên nghĩa Tiếng Việt

TT

Chữ viết tắt

1

ASXH

An sinh xã hội

2

BHXH

Bảo hiểm xã hội

3

BHYT

Bảo hiểm y tế


4

DPJ

Chính phủ và đảng dân chủ
nhật bản

5

EU

Eeropean Union

Liên minh Châu Âu

6

GDP

Gross Domestic Product

Tổng sản phẩm nội địa

7

ILO

International Labour Organization

Tổ chức Lao động Quốc tế


8

KBCB

9

OECD

Khám bệnh, chữa bệnh
The Organisation for Economic

Tổ chức Hợp tác và Phát

Co-operation and Development

triển Kinh tế

10

PLXH

11

USD

United State Dollar

Đô-la Mỹ


12

WB

World Bank

Ngân hàng thế giới

13

XH

Phúc lợi xã hội

Xã hội

iii


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1.Tốc độ tăng trƣởng GDP của EU-15 (đơn vị tính: %) ........................................ 20
Bảng 2.2: Dự báo tỷ lệ ngƣời trên 65 tuổi ở một số nƣớc Châu Âu đến 2050 ................... 21
Bảng 2.3: Dự báo chi tiêu hƣu trí công cộng ở một số nƣớc Châu Âu .............................. 22
Bảng 2.4: Thâm hụt ngân sách và nợ công của một số nƣớc Châu Âu .............................. 22
Bảng 2.5.Đánh giá sự khác nhau chủ yếu trong đƣờng lối chính sách của 2 thời kì cải
cách

............................................................................................................ 28

Bảng 2.6.Tỉ lệ nghèo đói giữa thành thị và nông thôn ở Trung Quốc năm 2003 ............... 40

Bảng 3.1.Tỷ lệ hộ nghèo thành thị/nông thông và vùng tính theo thu nhập ...................... 69
Bảng 3.2.Tỷ lệ thất nghiệp chia theo giới tính, khu vực, nhóm tuổi và trình độ chuyên
môn kỹ thuật

............................................................................................................ 73

Bảng 3.3.Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nƣớc giai đoạn 2008 – 2014 ........................................... 74
Bảng 3.4.Dân số sử dụng nguồn nƣớc uống cải thiện ở Việt Nam (%) ............................. 77

iv


DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1.Dân số nghèo và dân số có mức thu nhập thấp ................................................... 43
Hình 2.2.Thu nhập của các hộ gia đinh tại Trung Quốc qua các năm ............................... 43
Hình 2.3.Sự thay đổi về cơ sở hạ tầng ở vùng nông thôn năm 2002 so với năm 2008 ...... 44
Hình 3.1.Hệ thống an sinh xã hội Việt Nam ...................................................................... 51
Hình 3.2.Tỷ lệ hộ nghèo theo thu nhập (ĐVT: %) ............................................................. 68

v


MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển tất yếu của nền kinh
tế thị trƣờng nhƣ hiện nay, vấn đề cải cách thể chế kinh tế là xu hƣớng tất yếu và yêu
cầu cấp thiết mà các quốc gia cần phải thực hiện. Song song với cải cách thể chế kinh
tế, cải cách và điều tiết các lĩnh vực xã hội là một nhiệm vụ chủ yếu thƣờng xuyên,
đóng vai trò quan trọng nhằm đánh giá sự phát triển của một quốc gia. Nƣớc ta đã đạt
đƣợc nhiều thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế-xã hội, tốc độ tăng trƣởng bình
quân đạt gần 8%/năm, tỷ lệ nghèo giảm nhanh còn hơn 9%. Hệ thống chính sách an

sinh xã hội từng bƣớc đƣợc hoàn thiện, bảo đảm quyền lợi của ngƣời dân. Đối tƣợng
tham gia và thụ hƣởng các chính sách an sinh xã hội đƣợc mở rộng, đa dạng về hình
thức và gia tăng về qui mô; dân cƣ vùng nông thôn đã bƣớc đầu chủ động phòng ngừa,
đối phó, giảm thiểu và khắc phục có hiệu quả những rủi ro để ổn định cuộc sống.
Tuy nhiên, do bối cảnh lịch sử của đất nƣớc phải trải qua 30 năm chiến tranh
và quá trình chuyển đổi của nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, cải cách và điều tiết các lĩnh vực xã hội đang trở
nên cấp bách hơn bao giờ hết. Các biện pháp cải cách, điều tiết phải phù hợp với tình
hình của đất nƣớc nhƣng cũng phải tiếp thu những tinh hoa, tiến bộ của thế giới, đặc
biệt là ở các nƣớc phƣơng Tây. Vì những lý do trên nhóm xin chọn đề tài: “Cải cách
và điều tiết các lĩnh vực xã hội.” làm chuyên đề của mình.
Chuyên đề nghiên cứu gồm 3 chƣơng: Chƣơng 1: “Tổng quan lý luận về cải
cách điều tiết lĩnh vực xã hội” trình bày về các khái niệm, nguyên nhân dẫn đến cải
cách điều tiết lĩnh vực xã hội và vai trò của Nhà nƣớc trong cải cách điều tiết lĩnh vực
xã hội. Nội dung chƣơng 2: “Cải cách điều tiết lĩnh vực xã hội trên thế giới” tập trung
làm rõ tổng quan chung về cải cách điều tiết lĩnh vực xã hội trên thế giới, mô hình; xu
hƣớng cải cách lĩnh vực xã hội ở Châu Âu, cải cách điều tiết lĩnh vực xã hội ở Châu Á
và bài học đƣa ra. Nhóm tập trung phân tích chƣơng 3: “Cải cách điều tiết lĩnh vực xã
hội ở Việt Nam” thông qua thực trạng cải cách điều tiết lĩnh vực xã hội ở Việt Nam
trƣớc và sau đổi mới, nhận xét đánh giá quá trình cải cách điều tiết xã hội từ đó rút ra
định hƣớng chính sách của Đảng và Nhà nƣớc trong nƣớc trong việc cải cách điều tiết
lĩnh vực xã hội.

1


CHƢƠNG I: TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ CẢI CÁCH ĐIỀU TIẾT LĨNH VỰC
XÃ HỘI
1.1


Cải cách điều tiết lĩnh vực xã hội
1.1.1 Khái niệm cải cách điều tiết lĩnh vực xã hội
 Cải cách

Về khái niệm cải cách thì theo sách “Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông”
định nghĩa “cải cách là đổi mới cho tiến bộ hơn, cho phù hợp với sự tiến bộ chung của
xã hội mà không đụng tới nền tảng của chế độ hiện hành”. Khái niệm này nhấn mạnh
đến mục tiêu, kết quả mà cải cách mang đến cho xã hội là ngày càng tiến bộ hơn và
nhấn mạnh bản chất của xã hội vẫn không thay đổi.
Nguyễn Trần Bạt (2005) cho rằng “cải cách là một biện pháp đƣợc thực hiện để
giải quyết những đòi hỏi của thực tiễn với mục tiêu rõ ràng, chƣơng trình cụ thể và yêu
cầu phải hoàn tất trong một thời gian nhất định”. Theo cách định nghĩa này chúng ta
có thể hiểu cải cách là một con đƣờng hay một cách thức nhằm đáp ứng những đòi hỏi
của xã hội. Cải cách là sự điều chỉnh lớn đối với các cấu trúc chính trị, văn hóa, xã hội
mang tính hệ thống và đƣợc hoạch định rõ ràng, có lộ trình cụ thể.
Theo Phạm Ngọc Quang (2006), "cải cách" là đổi khác đi, làm cho biến đổi
thành khác trƣớc, là sửa đổi những bộ phận cũ không hợp lý cho thành mới, đáp ứng
yêu cầu của tình hình khách quan. Cải cách còn có thể hiểu là sự điều chỉnh lớn đối
với các cấu trúc chính trị, văn hóa của xã hội, cần phải có sự đồng tình, ủng hộ của các
lực lƣợng xã hội. Do đó, cải cách sẽ tạo ra những thay đổi mang tính hệ thống hơn,
trên quy mô rộng lớn, sâu sắc cũng nhƣ triệt để hơn về mức độ. Trong một số trƣờng
hợp, nó còn dẫn tới cả những thay đổi về tƣ duy hành động cũng nhƣ định hƣớng phát
triển.
Nhƣ vậy, cải cách là một quá trình, một hoạt động có ý thức, có mục đích làm
thay đổi, cải biến những cái cũ theo hƣớng tốt hơn hoặc thay thế cái cũ bằng cái mới,
đáp ứng yêu cầu của tình hình khách quan. Cải cách có thể diễn ra ở những cấp độ,
mức độ khác nhau. Có những hoạt động cải cách có tính chất cách mạng, có những
cuộc cải cách chỉ là sự thay đổi ít nhiều so với ban đầu.

2



 Điều tiết
Điều tiết có thể hiểu là sự điều chỉnh của Nhà nƣớc vào các quan hệ trong các
lĩnh vực kinh tế - xã hội nhằm đảm bảo trạng thái tích cực hơn. Dựa trên tình hình xã
hội, Nhà nƣớc xem xét lại các chính sách xã hội, đƣa ra những nhận xét về mức hội
phù hợp của các điều, luật, chính sách đã ban hành. Sau đó tiến hành các điều chỉnh,
phân bổ lại để cải thiện, nâng cao giá trị các lợi ích của các thành viên trong xã hội.
 Phân biệt cải cách và điều tiết
Điểm giống nhau cơ bản giữa cải cách và điều tiết là tính có thể kiểm soát bởi
Nhà nƣớc. Tuy nhiên, điều tiết ít nhiều mang ý nghĩa là sự vận động tất yếu, khách
quan của sự vật, hiện tƣợng còn cải cách là sự vận động do chủ thể tiến hành.Sự khác
biệt ở đây là yếu tố chủ động của chủ thể trong cải cách. Nhƣ vậy, yếu tố chủ thể là
yếu tố quan trọng trong cải cách. Một điểm khác nữa giữa cải cách và điều tiết là cải
cách không thể là một công việc diễn ra hàng ngày mà cải cách là một quá trình có nội
dung hành động cụ thể và phƣơng diện áp dụng rất rộng lớn nên phải có thời gian để
áp dụng thực hiện và đánh giá kết quả. Còn điều tiết không có nội dung cụ thể, áp
dụng trong phạm vi hẹp hơn vì điều tiết còn phụ thuộc vào tình hình xã hội, nếu xảy ra
bất ổn trong từng chính sách thì lúc đó điều tiết mới có nội dung cụ thể và thức hiện
trên phạm vi có bất ổn. Cải cách có thể tạo ra nhiều xáo trộn trong xã hội cùng những
hậu quả không mong đợi.Nhƣng việc điều tiết chắc chắn sẽ tạo ra nhiều hiệu quả tốt
đẹp và ít gây ra xáo trộn hơn.Vì thế, cải cách chỉ đƣợc thực hiện khi đƣợc nghiên cứu
và cân nhắc thấu đáo về cách thức, nội dung cũng nhƣ mục đích và hệ quả trƣớc khi áp
dụng vào thực tiễn. Còn điều tiết là nhanh chóng những giải pháp đề án kịp thời để xử
lý, khắc phục những hậu quả mà chính sách mới hoặc chƣơng trình cải cách mang lại.
 Lĩnh vực xã hội
Xã hội là một tập thể hay một nhóm những ngƣời đƣợc phân biệt với các
nhóm ngƣời khác bằng các lợi ích, mối quan hệ đặc trƣng, chia sẻ cùng một thể chế và
có cùng văn hóa. Do vậy, lĩnh vực xã hội sẽ hƣớng đến tất cả mọi ngƣời có cùng văn
hóa thể chế và các đảm bảo các lợi ích xã hội của họ. Lĩnh vực xã hội bao gồm những

lĩnh vực chính nhƣ: lĩnh vực đời sống lao động (các chính sách trợ cấp xã hội); lĩnh
vực định hƣớng cho từng nhóm ngƣời riêng biệt (ngƣời nghèo, ngƣời già, thanh
niên,…); lĩnh vực liên quan đến các dịch vụ xã hội (giáo dục, y tế,…); lĩnh vực các
chính sách quan trọng (môi trƣờng, bảo vệ ngƣời tiêu dùng,…).
3


 Cải cách điều tiết lĩnh vực xã hội
Từ khái niệm cải cách, điều tiết thì cải cách, điều tiết lĩnh vực xã hội là những
thay đổi có kế hoạch, theo một mục tiêu xác định về các chính sách xã hội bởi Nhà
nƣớc trong từng giai đoạn khác nhau. Cải cách, điều tiết không làm thay đổi bản chất
của hệ thống các chính sách xã hội mà chỉ làm cho hệ thống trở nên tốt hơn, hiệu quả
hơn phục vụ các lợi ích xã hội của nhân dân tốt hơn trƣớc.
1.1.2 Nội dung của cải cách điều tiết lĩnh vực xã hội
1.1.2.1 Các nhóm chính sách xã hội theo lĩnh vực
Theo Bùi Đình Thanh "Chính sách xã hội là sự cụ thể hóa, thể chế hóa các
đƣờng lối, chủ trƣơng để giải quyết các vấn đề xã hội dựa trên những tƣ tƣởng, quan
điểm của chủ thể lãnh đạo phù hợp với bản chất chế độ xã hội-chính trị (...) phản ánh
lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói chung và của từng nhóm xã hội nói
riêng nhằm tác động trực tiếp vào con ngƣời và điều chỉnh các quan hệ giữa con ngƣời
với con ngƣời, giữa con ngƣời với xã hội, hƣớng tới mục đích cao nhất là thỏa mãn
những nhu cầu ngày càng tăng về đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân
dân."
Chính sách xã hội bao gồm một hệ thống các chính sách khác nhau và hoạt
động mang tính bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Chính sách xã hội của Nhà nƣớc bao gồm:
1. Lĩnh vực đời sống lao động: Các chính sách trợ cấp xã hội nhƣ:
- Chính sách bảo vệ ngƣời lao động;
- Chính sách bảo hiểm xã hội;
- Chính sách thị trƣờng lao động;
- Chính sách khuyến khích doanh nghiệp.

2. Lĩnh vực định hƣớng cho từng nhóm ngƣời riêng biệt:
- Chính sách xoá đói giảm nghèo;
- Chính sách đối với ngƣời có công với cách mạng;
- Chính sách trợ giúp ngƣời già;
- Chính sách khuyến khích ngƣời lao động trong khu vực nông nghiệp, lao
động thủ công, ngƣời tự hành nghề.
3. Lĩnh vực khác:
- Chính sách giáo dục;
- Chính sách nhà ở.
4


4. Các chính sách xã hội khác, đặc biệt là lĩnh vực các chính sách quan trọng:
- Chính sách thi đua, cạnh tranh;
- Chính sách bảo vệ tiêu dùng;
- Chính sách môi trƣờng;
- Chính sách ổn định, đặc biệt là chính sách bình ổn giá cả.
Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia lại triển khai hệ thống chính sách xã hội khác nhau
sao cho phù hợp với tình hình xã hội đất nƣớc, nhƣng vẫn dựa trên những lĩnh vực cơ
bản.
Chính sách xã hội của Cộng hòa liên bang Đức là một hệ thổng rất rộng, đề
cập đến các lĩnh vực khác nhau liên quan đến con ngƣời: từ chính sách bảo hộ ngƣời
lao động đến chính sách hỗ trợ ngƣời già, thanh niên, gia đình. Các chính sách này bổ
sung cho nhau nhằm đạt đƣợc những mục tiêu chiến lƣợc đã đề ra.
Ở Việt Nam, Thủ tƣớng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã chủ trì Hội nghị trực
tuyến sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết số 70/NQ-CP về một số vấn đề chính sách xã
hội giai đoạn 2012 - 2020. Nghị quyết 70/NQ-CP tập trung vào 6 nhóm chính sách lớn
nhƣ: (1) Ƣu đãi ngƣời có công; (2) chính sách việc làm và đảm bảo thu nhập tối thiểu;
(3) chính sách giảm nghèo; (4) Bảo hiểm xã hội và Bảo hiểm thất nghiệp; (5) chính
sách trợ giúp xã hội; (6) đảm bảo mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản cho

ngƣời dân bao gồm giáo dục, y tế, nhà ở, nƣớc sạch, tiếp cận thông tin.
1.1.2.2 Chính sách xã hội: An sinh xã hội (ASXH) và Phúc lợi xã hội
(PLXH)
Do cải cách, điều tiết lĩnh vực xã hội là những thay đổi chính sách xã hội bởi
Nhà nƣớc nhằm mang lợi ích tối đa cho nhân dân nên nhóm nghiên cứu xin hệ thống
lại các chính sách xã hội và tập trung làm rõ hai chính sách quan trọng nhất là ASXH
và PLXH.
ASXH và PLXH là những lĩnh vực đƣợc giới khoa học xã hội quan tâm
nghiên cứu khá nhiều kể từ sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhất là trong các
ngành xã hội học, kinh tế học và chính trị học. Cho đến nay, ngƣời ta đã đƣa ra nhiều
định nghĩa khác nhau và cũng khó lòng thống nhất với nhau về cách hiểu thế nào là
phúc lợi xã hội hay an sinh xã hội. Tuy vậy, về đại thể, vẫn có một số điểm căn bản mà
hầu nhƣ ai cũng ít nhiều đồng ý, đó là: hệ thống các định chế và các chính sách nhằm
bảo đảm đáp ứng những nhu cầu cơ bản của ngƣời dân, đặc biệt là trong những hoàn
5


cảnh bất trắc nhƣ mất việc làm, già cả và bệnh tật, nhất là những nhóm dân cƣ nghèo,
yếu thế, dễ bị tổn thƣơng. Dƣới đây là một số định nghĩa chính về hai khái niệm này
trên thế giới.
 Về An sinh xã hội
Theo Ngân hàng thế giới (WB) “ASXH là những biện pháp của chính phủ
nhằm giúp cho các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng đƣơng đầu và kiềm chế đƣợc
nguy cơ tác động đến thu nhập nhằm giảm tính dễ bị tổn thƣơng và những bấp bênh
thu nhập”.
Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO) công nhận: “ASXH là sự bảo vệ của xã
hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng,
nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập,
gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thƣơng tật, tuổi già và chết;
đồng thời đảm bảo các chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con”.

Nhƣ vậy, về mặt bản chất, ASXH là góp phần đảm bảo, phân phối lại thu nhập
và đời sống cho các công dân trong xã hội. Phƣơng thức hoạt động là thông qua các
biện pháp công cộng. Mục đích là tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành viên trong xã hội
và vì vậy mang tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc, hƣớng tới sự hƣng thịnh và hạnh
phúc cho mọi ngƣời và cho xã hội.
 Về Phúc lợi xã hội
Thuật ngữ PLXH đƣợc dịch từ tiếng Anh là Social welfare. Tuy nhiên, ở Việt
nam có những nơi, có những tài liệu dịch Social welfare theo nghĩa của bảo trợ xã hội.
Điều này cũng dễ hiểu bởi có những nội dung của PLXH trùng với những hoạt động
trợ giúp xã hội. PLXH, chung nhất đƣợc hiểu là một hệ thống các chính sách, các
chƣơng trình và các dịch vụ nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của xã hội hoặc
các nhóm xã hội khác nhau về đời sống, kinh tế, văn hoá, tinh thần, giáo dục và chăm
sóc sức khoẻ…Theo nhóm nghiên cứu, các chính sách và giải pháp PLXH tập trung
vào nhóm ngƣời yếu thế, nhóm ngƣời thiệt thòi trong xã hội nhiều hơn nhằm hƣớng
tới sự công bằng xã hội. Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, PLXH là một bộ phận thu
nhập quốc dân đƣợc sử dụng nhằm thoả mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của
các thành viên trong xã hội, chủ yếu đƣợc phân phối ngoài thu nhập theo lao động,
phân phối lại.

6


Nhƣ vậy, PLXH là những biện pháp của nhà nƣớc và xã hội nhằm khắc phục
những “thất bại”, khiếm khuyết của thị trƣờng. Bản chất của PLXH là làm giảm thiểu
sự bất công bằng trong xã hội, đảm bảo cho các thành viên trong xã hội đều có thể thụ
hƣởng những cái “chung” của xã hội. Một mặt phải làm cho cái “bánh” của xã hội to
ra; mặt khác phải “chia” cái bánh đó “hợp lý”.
Có thể thấy, giữa ASXH và PLXH có những điểm giống, nhƣng không phải là
đồng nhất. ASXH là sự phân phối lại thu nhập, còn PLXH hƣớng tới sự công bằng.
1.2 Nguyên nhân dẫn đến cải cách điều tiết lĩnh vực xã hội

1.2.1 Nguyên nhân khách quan
Sự bất ổn của tình hình kinh tế, chính trị thế giới trong hơn 100 năm qua. Nửa
đầu những năm 50 của thế kỉ XX, cả thế giới vận hành theo guồng máy chiến tranh khi
liên tiếp diễn ra hai cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất (1914-1918) và lần thứ hai
(1939-1945) khiến hàng chục triệu ngƣời chết và bị thƣơng, kinh tế suy giảm nghiêm
trọng. Cùng với đó là cuộc Đại suy thoái 1929-1932 giáng thêm một đòn nặng nề vào
kinh tế thế giới.
Nửa sau của thế kỉ XX, kinh tế thế giới có sự phục hồi và hƣng thịnh, tuy
nhiên sau thập kỉ 70 lại bƣớc vào giai đoạn đình trệ, hàng loạt các cuộc khủng hoảng
nhƣ khủng hoảng dầu mỏ thế giới 1973, khủng hoảng kinh tế 1974-1975, khủng hoảng
tài chính tiền tệ Mỹ-latinh 1994, khủng hoảng tiền tệ châu Á 1997, và đặc biệt gần
đây nhất là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 đã ảnh hƣởng nặng nề đến tình
hình kinh tế cũng nhƣ chính trị xã hội của các quốc gia. Các cuộc khủng hoảng đang
diễn ra liên tục với thời gian ngày càng rút ngắn, đòi hỏi Chính phủ các nƣớc cũng nhƣ
các tổ chức quốc tế phải có những can thiệp, điều tiết cũng nhƣ đƣa ra các chính sách
cải cách phù hợp và kịp thời hơn.
1.2.2 Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, sự hoạt động kém hiệu quả của các mô hình kinh tế thế giới từ thập
kỉ 70 đến nay. Các mô hình kinh tế thị trƣờng đã giúp các nƣớc đạt đƣợc tăng trƣởng
rất cao vào đầu những năm thập kỉ 60 và 70, giúp các quốc gia phát triển kinh tế-xã
hội. Tuy nhiên, từ thập kỉ 70 đến nay, các mô hình này bắt đầu bộc lộ những khuyết tật
của nó, trong đó bao gồm các vấn đề về thất nghiệp, bất công xã hội, ASXH,…
Thứ hai, nhiều chính phủ trên thế giới chỉ chú trọng đến phát triển kinh tế mà
không chú trọng về chất lƣợng. Tình trạng phát triển nóng đã dẫn đến những hậu quả
7


nghiêm trọng về môi trƣờng nhƣ cạn kiệt nguồn tài nguyên, ô nhiễm không khí, nguồn
nƣớc,… ảnh hƣởng trực tiếp tới sức khỏe con ngƣời. Bên cạnh đó, mặc dù nền kinh tế
tăng trƣởng nhƣng một số vấn đề về ASXH, PLXH nhƣ bảo hiểm, lƣơng hƣu, các dịch

vụ chăm sóc sức khỏe cho ngƣời dân vẫn còn bộc lộ những yếu kém, chƣa đáp ứng
đƣợc nhu cầu.
Thứ ba, những bất ổn trong nền kinh tế vĩ mô ở nội tại các nƣớc đã gây ra sự
mất cân đối nghiêm trọng giữa tiết kiệm và đầu tƣ, chi tiêu của chính phủ đã khiến nền
kinh tế phải đối mặt với tình trạng thâm hụt ngân sách Nhà nƣớc, nợ công tăng mạnh.
Cuộc khủng hoảng nợ công trong những năm gần đây chính là minh chứng tiêu biểu.
Hệ quả tất yếu dẫn đến là lạm phát cũng nhƣ tỉ lệ thất nghiệp tăng, cùng đó là sự bất
ổn của tỷ giá, lãi suất, rối loạn hoạt động của ngân hàng, đình trệ nền kinh tế....
Thứ tư, ngoài những mặt tích cực thì quá trình toàn cầu hóa cũng có những
mặt tiêu cực nhƣ dẫn đến sự phân phối không công bằng các cơ hội và lợi ích kinh tế
giữa các khu vực, quốc gia và từng nhóm dân cƣ. Vì vậy, nó làm gia tăng thêm tình
trạng bất bình đẳng, làm sâu sắc thêm sự phân hóa giàu nghèo, khoảng cách giàu
nghèo tăng cùng với toàn cầu hóa.
Nhƣ vậy, từ các nguyên nhân khách quan cũng nhƣ chủ quan nêu trên, có thể
thấy rằng cải cách, điều tiết các lĩnh vực xã hội là một nhiệm vụ cấp thiết của mỗi
quốc gia, đòi hỏi Chính phủ các nƣớc phải có những biện pháp, chính sách phù hợp
với tình hình cụ thể của quốc gia mình.
1.3 Vai trò của Nhà nước trong cải cách điều tiết lĩnh vực xã hội
Nhà nƣớc với tƣ cách là cơ quan đƣợc nhân dân ủy quyền để tổ chức, quản lý
các mặt đời sống xã hội có vai trò quan trọng cải cách điều tiết lĩnh vực xã hội.
Đối với các nền kinh tế chuyển đổi sang nền kinh tế thị trƣờng luôn gắn liền
với những thay đổi cơ bản trong chính sách xã hội và xuất hiện những rủi ro mới đe
dọa đến đời sống xã hội của ngƣời dân. Do vậy, Nhà nƣớc phải có những thay đổi, cải
cách và điều tiết các chính sách xã hội nhƣ chính sách y tế, thất nghiệp, bảo hiểm hƣu
trí, xóa đói giảm nghèo,… cho phù hợp với điều kiện của từng giai đoạn phát triển.
Bên cạnh đó các cải cách điều tiết đó cần hƣớng tới thực hiện công bằng xã hội, thiết
lập mạng lƣới an sinh xã hội, bảo đảm cuộc sống cho các thành viên trong xã hội.
Đối với các quốc gia đang có sự chuyển dịch cơ cấu từ sản xuất nông nghiệp
sang công nghiệp và dịch vụ thì Nhà nƣớc cần cải cách các chính sách để đẩy mạnh
8



công nghiệp hóa nông thôn, khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình, thực hiện các
chính sách giải quyết việc làm,… Do quá trình chuyển dịch lao động diễn ra chậm nên
tình trạng nông nhàn làm cho dòng ngƣời di cƣ về các đô thị, khu công nghiệp ngày
càng nhiều, gây mất trật tự xã hội, vệ sinh môi trƣờng và góp phần gia tăng các tệ nan
xã hội. Ngoài ra, tình trạng thiếu việc làm do thiếu trình độ dẫ đến không có đủ thu
nhập, thiếu nguồn để sinh sống là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng đói nghèo.
Điều chỉnh các chính sách xã hội là nhiệm vụ cấp bách đặt ra cho Nhà nƣớc để phát
triển đất nƣớc.
Đối với những nƣớc đang phát triển có tốc độ tăng trƣởng kinh tế cao dẫn đến
sự chênh lệch thu nhập giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng kinh tế,.. làm xuất
hiện phân hóa giàu nghèo giữa các nhóm có thu nhập khác nhau trong xã hội. Trong
hoàn cảnh đó, vai trò của nhà nƣớc rất quan trọng trong việc cải cách điều tiết các
chính sách xã hội để giảm mức chênh lệch này. Để xóa đói giảm nghèo, Nhà nƣớc đã
thực hiện kết hợp các chính sách kinh tế bao gồm xây dựng cơ sở hạ tầng, khuyến
khích phát triển các loại hình doanh nghiệp, .. và chính sách xã hội nhƣ chính sách
giáo dục, đào tạo, chính sách trợ cấp cho ngƣời nghèo, miễn giảm học phí,… Bên cạnh
hỗ trợ trực tiếp cho ngƣời nghèo, Nhà nƣớc thực hiện các Chƣơng trình quốc gia xóa
đói giảm nghèo, chƣơng trình giải quyết việc làm và huy động các tổ chức đoàn thể xã
hội và toàn dân tham gia.

9


CHƢƠNG II: CẢI CÁCH ĐIỀU TIẾT LĨNH VỰC XÃ HỘI TRÊN THẾ GIỚI
2.1 Tổng quan chung về cải cách điều tiết lĩnh vực xã hội trên thế giới
2.1.1 Tình hình xã hội trên thế giới
Năm 1948, cộng đồng quốc tế đã đồng ý rằng bảo hiểm xã hội và chăm sóc
sức khỏe cho trẻ em, ngƣời ở độ tuổi lao động bị thất nghiệp hoặc thƣơng tật và ngƣời

cao tuổi, là quyền của con ngƣời. Tuy nhiên, đến năm 2014, chế độ bảo trợ xã hội toàn
cầu dành cho phần lớn dân số thế giới vẫn chƣa thực hiện đƣợc. Theo “Báo cáo Bảo
trợ Xã hội Thế giới 2014-2015: Phục hồi kinh tế, phát triển toàn diện và công bằng xã
hội” của ILO, chỉ có 27% dân số thế giới đƣợc tiếp cận đầy đủ với bảo trợ xã hội.
Chức năng nhiều mặt mà bảo trợ xã hội đóng vai trò trong các nền kinh tế và
xã hội đã trở nên đặc biệt rõ ràng trong suốt cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính gần
đây. Trong giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng (2008-2009), ít nhất 48 quốc gia có
thu nhập cao và trung bình đã đƣa ra các gói kích thích kinh tế với tổng giá trị lên đến
2,4 nghìn tỷ USD với khoảng ¼ trong số đó dành cho các biện pháp bảo trợ xã hội.
Việc hỗ trợ này đã đóng vai trò nhƣ một biện pháp bình ổn tự động giúp nền kinh tế
đƣợc cân bằng trở lại và bảo vệ những ngƣời thất nghiệp và dễ tổn thƣơng trong cuộc
khủng hoảng kinh tế tại các quốc gia bị ảnh hƣởng. Nhƣng trong giai đoạn thứ hai của
cuộc khủng hoảng, từ năm 2010 trở lại đây, nhiều quốc gia đã xoay ngƣợc tình hình và
sớm bắt tay tập trung củng cố tài khóa, mặc dù vẫn còn phải giải quyết nhu cầu cấp
bách là tiếp tục hỗ trợ nhóm dân cƣ dễ tổn thƣơng và ổn định tiêu dùng.
Hiện nay, ở cấp độ toàn cầu, các chính phủ chỉ dành trung bình 0.4% GDP cho
các khoản trợ cấp cho trẻ em và gia đình (dao động từ 2,2% ở Tây Âu tới 0.2% ở châu
Phi và châu Á – Thái Bình Dƣơng). Các khoản đầu tƣ này cần đƣợc tăng lên, bởi hiện
có tới 18.000 trẻ em tử vong mỗi ngày và trong số đó rất nhiều trƣờng hợp có thể đƣợc
cứu sống nếu đƣợc hƣởng bảo trợ xã hội đầy đủ. Đối với mọi ngƣời ở độ tuổi lao
động, mức chi tiêu đối với bảo trợ xã hội nhận đƣợc (ví dụ nhƣ đối với trƣờng hợp thất
nghiệp, nghỉ thai sản, ngƣời khuyết tật hay thƣơng tật do tai nạn nghề nghiệp) rất khác
nhau giữa các khu vực, dao động từ 0,5% ở châu Phi đến 5,9% ở Tây Âu. Trên toàn
thế giới, chỉ có 12% ngƣời thất nghiệp đƣợc hƣởng trợ cấp thất nghiệp (ở Tây Âu là
64% ở Tây Âu, ở Trung Đông và châu Phi chỉ dƣới 3%). Đối với lƣơng hƣu dành cho
ngƣời cao tuổi, gần một nửa (49%) tổng số ngƣời ở độ tuổi đƣợc hƣởng lƣơng hƣu
không nhận đƣợc nguồn trợ cấp nào. Và trong số ngƣời đƣợc hƣởng lƣơng hƣu thì
10



mức lƣơng hƣu thấp hơn nhiều so với chuẩn nghèo. Trong tƣơng lai, ngƣời đƣợc
hƣởng lƣơng hƣu sẽ nhận đƣợc mức lƣơng thấp hơn nữa tại ít nhất 14 quốc gia châu
Âu.
Khoảng 47% dân số thế giới không đƣợc hỗ trợ bởi một hệ thống hay chế độ y
tế nào. Ở các quốc gia có thu nhập thấp, tỷ lệ này lên tới hơn 90%. ILO ƣớc tính có
khoảng 10,3 triệu ngƣời lao động trên toàn cầu không đƣợc hƣởng các dịch vụ y tế
chất lƣợng khi cần thiết. Mặc dù vậy, một số quốc gia – trong đó bao gồm Thái Lan và
Nam Phi – đã đạt đƣợc mức độ bao phủ y tế toàn dân chỉ trong vài năm, chứng tỏ rằng
việc mở rộng hệ thống an sinh xã hội trên toàn thế giới là có thể thực hiện đƣợc.
Những cải cách, điểu tiết lĩnh vực xã hội diễn ra rất phức tạp trên thế giới
trong từng giai đoạn khác nhau. Tại một số quốc gia đã có những điều chỉnh chính
sách xã hội hƣớng tới phục hồi, nâng cao lợi ích của xã hội sau những khó khăn trƣớc
đó. Tuy nhiên, một số quốc gia khác đang quá tập trung vào tài chính nên đã có những
cải cách điều tiết làm thu hẹp lợi ích xã hội của cộng đồng, gây ra những tổn thất lớn
về mặt xã hội.
2.1.2 Đặc điểm chung về cải cách điều tiết các lĩnh vực xã hội
Mỗi quốc gia, khu vực lại có những nét khác nhau trong cải cách điều tiết các
lĩnh vực xã hội. Nhƣng về cơ bản ta có thể thấy một số đặc điểm chung nhƣ sau:
Thứ nhất, hƣớng tới những mục tiêu chung cho xã hội: Bảo đảm và tăng
cƣờng về vật chất cho tất cả các thành viên trong xã hội bằng các biện pháp bảo đảm
về cơ hội việc làm cho cá nhân thông qua các điều chỉnh hệ thống xã hội; Thực hiện sự
công bằng xã hội thể hiện ở công bằng khi xuất phát và cân bằng trong phân phối;
Đảm bảo nền hòa bình và ổn định trong xã hội.
Thứ hai, thực hiện các biện pháp ASXH, khuyến khích làm việc, từ đó thúc
đẩy tăng trƣởng kinh tế, góp phần giảm nghèo và bất bình đẳng. Việc sử dụng các biện
pháp đó sẽ hạ thấp tỉ lệ thất nghiệp, giúp nền kinh tế tăng trƣởng, tạo thêm nguồn thu
cho ngân sách, từ đó có thêm nguồn thu cho ASXH, PLXH, mặt khác lại giúp làm
giảm gánh nặng chi tiêu cho bảo hiểm thất nghiệp và một số vấn đề xã hội khác liên
quan. Bên cạnh đó, ngƣời dân có việc làm sẽ làm giảm tình trạng đói nghèo, nâng cao
chất lƣợng cuộc sống cũng nhƣ giảm tình trạng bất bình đẳng xã hội

Thứ ba, hƣớng tới những hệ thống phúc lợi, mô hình an sinh xã hội linh hoạt
hơn. Các quốc gia đang hƣớng tới những hệ thống phúc lợi cũng nhƣ mô hình ASXH
11


có linh hoạt hơn. Nghĩa là những hệ thống phúc lợi và mô hình an sinh ấy có tính ứng
dụng cao, đáp ứng đƣợc các nhu cầu của xã hội, và sẽ có những thay đổi cần thiết để
phù hợp với tình hình.
Thứ tư, chú trọng đến các vấn đề cơ bản nhƣ: lƣơng hƣu, chăm sóc sức khỏe,
việc làm bảo hiểm... Đó là những vấn đề cốt lõi, đƣợc tập trung, chú trọng do đây là
những nhân tố quyết định ảnh hƣởng đến sức khỏe, tuổi thọ cũng nhƣ chất lƣợng sống
của ngƣời dân. Chính phủ sẽ có những chính sách, biện pháp thích hợp để kiểm soát
các vấn đề trên sao cho đảm bảo đƣợc yêu cầu đặt ra của xã hội.
2.2 Mô hình và xu hướng cải cách lĩnh vực xã hội ở Châu Âu
2.2.1 Mô hình an sinh xã hội ở Châu Âu
Từ thế kỷ thứ 19, nền sản xuất công nghiệp bắt đầu phát triển ở các quốc gia
Châu Âu, nguy cơ mất việc làm, giảm thu nhập do tai nạn lao động, ốm đau và tuổi già
trở thành mối đe doạ với ngƣời lao động làm công ăn lƣơng. Để đối phó với những đe
doạ này, các nghiệp đoàn của ngƣời lao động đã hình thành các quỹ cứu trợ.
Với mục tiêu bảo đảm ổn định xã hội và lợi ích của mình, nhà nƣớc và giới
chủ tham gia vào việc đóng góp, hình thành và tổ chức hoạt động của các quỹ mang
tính đoàn kết, tƣơng trợ (hình thức chủ yếu là bảo hiểm xã hội). Trong những năm 30
của thế kỷ 20, mô hình an sinh xã hội hình thành và phát triển mạnh mẽ ở Châu Âu,
châu Mỹ. Sau chiến tranh Thế giới thứ Hai, an sinh xã hội đƣợc tổ chức thực hiện tại
các nƣớc mới giành độc lập ở Mỹ La tinh, châu Phi và vùng Caribê. Khuôn khổ hệ
thống các chính sách an sinh xã hội cũng dần đƣợc mở rộng, bên cạnh bảo hiểm xã hội
còn có các chƣơng trình khác nhƣ: cứu tế xã hội, tƣơng trợ xã hội cho ngƣời già cô
đơn, trẻ em mồ côi, ngƣời goá bụa, ngƣời khuyết tật.
Cùng với quá trình phát triển lý luận và thực tiễn, các mô hình an sinh xã hội
đƣợc hình thành, trong đó tiêu biểu nhất là mô hình an sinh xã hội của Otto Von

Bismark (Đức), mô hình an sinh xã hội ở Thụy Điển và mô hình an sinh xã hội của
Lord Beveridge (Anh).
2.2.1.1 Mô hình ASXH của Otto Von Bismark (Đức)
Đức là quốc gia đầu tiên thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội. Vào năm 1881,
Thủ tƣớng Đức Otto Von Bismarck (1815-1898) đã đề xƣớng thiết kế chính sách bảo
hiểm xã hội bắt buộc trên cơ sở các tổ chức tự phát của ngƣời lao động hoạt động
tƣơng trợ lẫn nhau. Văn bản pháp lý đầu tiên là Luật Bảo hiểm Y tế (1883), tiếp theo
12


là Luật Bảo hiểm Tai nạn Lao động (1884) và Luật Bảo hiểm hƣu trí (1889). Mặc dù
tỷ lệ hƣởng chỉ ở mức thấp, bằng khoảng 30-40% lƣơng, nhƣng lần đầu tiên chế độ
bảo hiểm xã hội đƣợc áp dụng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Sau ảnh hƣởng của
cuộc Chiến tranh Thế giới thứ 1 (1914-1918), khi nhiều lao động mất việc làm, tình
trạng thất nghiệp nhiều, nhà nƣớc mới lần đầu áp dụng đánh giá gia cảnh để hỗ trợ thất
nghiệp, kết quả là năm 1927, Luật bảo hiểm thất nghiệp ra đời, dựa trên sự kết hợp các
dịch vụ hƣớng nghiệp, sắp xếp việc làm và trả một phần nhỏ bảo hiểm thất nghiệp.
Mặc dù nhà nƣớc ban hành các quyết định cơ bản nhƣng các quy tắc bổ sung
lại do các tổ chức bảo hiểm xã hội thông qua đại diện của ngƣời lao động, các tổ chức
sử dụng lao động và các đại biểu quốc gia tự phổ cập và quản lý. Kế hoạch triển khai
sẽ do các cá nhân, tổ chức, đơn vị đóng góp có liên quan, các thành viên là công nhân
và ngƣời lao động có đủ điều kiện hƣởng lợi. Nguyên tắc cơ bản là “phát huy công
bằng xã hội”, nghĩa là chính sách bảo hiểm dựa vào sự tƣơng ứng quyền lợi bảo hiểm
và quá trình đóng góp, và nguyên tắc này, sau đó đã trở thành một trong những nguyên
tắc cơ bản của Đức “mô hình nhà nƣớc xã hội”.
Từ năm 1994, nƣớc Đức thực hiện đạo luật về bảo hiểm chăm sóc sức khoẻ và
loại bảo hiểm này trở thành một trong những bộ phận cơ bản của hệ thống BHXH
Đức. Bên cạnh hệ thống bảo hiểm, các hình thức bảo trợ xã hội khác nhƣ: bảo trợ nuôi
dƣỡng trẻ em, bảo trợ giành cho ngƣời già… cũng đƣợc phát triển mạnh mẽ ở Đức.
2.2.1.2 Mô hình ASXH ở Thụy Điển

Mô hình an sinh xã hội xuất hiện từ những năm 1930 theo mô hình “xã hội
dân chủ”. An sinh xã hội Thuỵ Điển chủ yếu dựa vào thuế và sự đóng góp, đây là mô
hình an sinh xã hội “thân thiện với việc làm”, có nghĩa là đảm bảo việc làm cho tất cả
mọi ngƣời. Vào năm 1999, chính phủ Thụy Điển đã thực hiện các chiến lƣợc hiện đại
hoá an sinh xã hội với 4 mục tiêu cơ bản, trong đó có mục tiêu quan trọng là: “Tạo
việc làm để nâng cao thu nhập, sau đó việc làm sẽ mang lại thu nhập an sinh”.
Có thể nói hệ thống an sinh xã hội của Thuỵ Điển từ thập kỷ 90 trở lại đây gần
nhƣ đã đi theo hƣớng “xã hội dân chủ”. Nó chủ yếu đƣợc dựa trên nguyên tắc bồi
thƣờng sự mất mát thu nhập, đảm bảo thu nhập, nhằm khuyến khích năng suất lao
động và việc làm tăng lên và thất nghiệp giảm xuống. Ngày nay, các hình thức an sinh
xã hội mà Thuỵ Điển áp dụng chủ yếu là: Bảo hiểm hƣu trí cho ngƣời già; Trợ giúp xã

13


hội; Bảo hiểm thất nghiệp; Chính sách chăm sóc ngƣời mẹ cô đơn; Chế độ nghỉ phép
và chăm sóc trẻ.
2.2.1.3 Mô hình ASXH của Lord Beveridge (Anh)
Ở Anh, cơ cấu đóng góp vào quỹ an sinh xã hội đƣợc chia làm 5 nhóm, cụ thể
là: Nhóm 1: giới chủ doanh nghiệp và ngƣời lao động; Nhóm 2: đóng góp của ngƣời
tự làm chủ; Nhóm 3: đóng góp của những ngƣời tình nguyện bảo vệ quyền lợi cho một
số lợi ích; Nhóm 4: đóng góp của những ngƣời tự làm chủ trên lợi nhuận thuế của họ;
Nhóm 5: đóng góp của ngƣời chủ cung cấp cho ngƣời lao động nhiên liệu xe hơi hoặc
xe hơi xử dụng riêng. Hệ thống an sinh xã hội ở Anh bao gồm: bảo hiểm hƣu trí; trợ
cấp cho cha mẹ và trẻ em; trợ cấp ốm đau và mất sức lao động; bảo hiểm thất nghiệp;
trợ cấp cho những ngƣời đang tìm kiếm việc làm.
Một cách tiếp cận khác về bảo hiểm xã hội đƣợc phát triển ở Anh vào năm
1942 trong Thế chiến II với tên gọi là Báo cáo Beveridge. Bản báo cáo này không chỉ
tham vọng có thể giảm nghèo mà còn áp dụng nhằm cải cách và tái cấu trúc hệ thống
an sinh xã hội, với nguyên tắc cải cách hệ thống bao gồm: thống nhất, phổ cập và toàn

diện. Thống nhất bao gồm hợp nhất các chi nhánh/tổ chức bảo hiểm xã hội đang hoạt
động thành một tổ chức tập trung trong tay nhà nƣớc. Mọi đóng góp phải đƣợc thanh
toán vào một quỹ xã hội duy nhất và tất cả các lợi ích phải đƣợc thanh toán từ quỹ này.
Phổ cập đƣợc hiểu là mức độ các lợi ích xã hội đƣợc đảm bảo để chống lại mọi rủi ro,
nhƣng chỉ trên mức vừa đủ, nhằm kích thích nỗ lực cá nhân bổ sung thêm từ các
nguồn khác.
Toàn diện đƣợc hiểu là hệ thống bảo hiểm xã hội cần đƣợc áp dụng rộng rãi
đối với mọi ngƣời dân Anh, giúp họ đáp ứng các nhu cầu của họ và họ đƣợc tự do
đóng góp bảo hiểm ở mức độ tối thiểu (xã hội chấp nhận) nhƣng không bị giới hạn về
thời gian hƣởng và không phải tƣơng ứng với mức đóng góp cũng nhƣ mức thu nhập
của cá nhân. Đề xuất cải cách của Beveridge đã đƣợc chấp thuận và trở thành một
trong những nội dung cơ bản của Luật Bảo hiểm quốc gia năm 1946, thực hiện chức
năng phòng ngừa các rủi ro về thất nghiệp, bệnh tật hoặc tuổi già, làm mất thu nhập
tạm thời hoặc vĩnh viễn. Mặc dù ý tƣởng về một hệ thống “bảo hiểm quốc gia” cho
toàn dân là rất hấp dẫn, tuy nhiên trong thực tiễn không thực sự hiệu quả, do sự quản
lý tập trung của Nhà nƣớc về bảo hiểm xã hội khiến cho hệ thống này bị phụ thuộc và
dễ bị tổn thƣơng do các quyết định chính trị của Chính phủ. Hơn nữa, quyền lợi bảo
14


hiểm nhƣ nhau, đòi hỏi mức phúc lợi phải thấp để không vƣợt quá mức tiền lƣơng thấp
nhất và thƣờng quá thấp để hỗ trợ gia đình.
2.2.1.4 So sánh giữa các mô hình trên
Ý tƣởng của William Henry Beveridge là an sinh xã hội phải bao phủ toàn
dân, phải bao phủ các rủi ro và phải đƣợc sự hỗ trợ của nhà nƣớc, nền tảng cho khái
niệm Nhà nƣớc phúc lợi mà các nƣớc xã hội chủ nghĩa mong muốn. Ngƣợc lại với
Beveridge, mục tiêu của Bismarck cho rằng bảo hiểm xã hội chỉ bao phủ những ngƣời
lao động chính thức, có khả năng tham gia vào hệ thống bắt buộc đối với những rủi ro
đƣợc đã đƣợc xác định rõ. Nói cách khác, mô hình Nhà nƣớc xã hội của Bismarckian
không thực sự nhằm vào ngƣời nghèo, mà hƣớng tới tầng lớp trung lƣu và nhân viên

văn phòng với số lƣợng ngày càng tăng trong xã hội.
Trong ba mô hình phát triển của Châu Âu, mô hình Thụy Điển có phần nhấn
mạnh vai trò của nhà nƣớc hơn cả sau đó đến mô hình của Cộng hòa liên bang Đức. Ở
hai mô hình này, các dịch vụ xã hội chủ yếu do nhà nƣớc thực hiện. Ở Đức, cũng có sự
phân cấp mạnh mẽ cho chính quyền địa phƣơng và các tổ chức xã hội tham gia quản lý
thực hiện. Tuy nhiên, trong mô hình Anh, khu vực tƣ nhân tham gia mạnh mẽ vào
cung cấp các dịch vụ xã hội.
Vai trò của nhà nƣớc còn gắn kết chặt chẽ với mức độ, phạm vi đáp ứng của
các dịch vụ xã hội. Ở Thụy Điển, an sinh xã hội từ giáo dục, y tế, phúc lợi đƣợc phân
bổ rộng rãi, tiêu chí không chặt chẽ, có nghĩa là mọi ngƣời dân đều đƣợc đảm bảo các
lợi ích và dịch vụ an sinh xã hội cơ bản với mức giá hợp lý hoặc miễn phí. Mọi ngƣời
dân đƣợc hƣởng các dịch vụ này từ lúc ở thời kỳ thai nghén cho tới khi chết. Hay mô
hình phát triển của Cộng hòa liên bang Đức cũng cho thấy một mức độ bao phủ khá
rộng tới các đối tƣợng dân chúng với mức chi trả khá cao trong các chƣơng trình bảo
hiểm xã hội. Giáo dục và đào tạo ở Đức chủ yếu là các cơ sở công lập, ở đó thực hiện
miễn phí hoặc mức học phí rất thấp cho ngƣời học. Mô hình này cũng gây ra sự thụ
động của ngƣời lao động do trông chờ vào chính sách hỗ trợ của chính phủ.
Trong khi đó, những nguyên tắc của chế độ an sinh xã hội Anh không mang
tính phổ cập để bảo hộ cho toàn thể công dân mà tập trung nhiều vào những ngƣời
nghèo và ngƣời yếu thế trong xã hội. Chuyển từ hình thức “an sinh cho tất cả” trong
chế độ Thatcher sang “an sinh cho những ngƣời yếu thế”.

15


Khi so sánh về tính bền vững, mô hình Thụy Điển cho thấy có nhiều ƣu việt
nhất vì thu đƣợc những kết quả tốt nhất trên các khía cạnh: giảm thất nghiệp, xoá đói
giảm nghèo, đầu tƣ cho con ngƣời và chống thâm hụt ngân sách.
Tuy nhiên, do các mô hình phát triển xã hội ở Châu Âu đều có sự chi trả cao
nên gánh nặng ngân sách rất lớn. Thêm vào đó, tình trạng dân số ngày càng già đi, hệ

số gánh vác của xã hội càng cao khiến cho xã hội đứng trƣớc nguy cơ thiếu bền vững.
Tình trạng nhập cƣ cả hợp pháp và bất hợp pháp vào những nƣớc Châu Âu ngày càng
gia tăng đã khiến cho xã hội Châu Âu không còn giữ đúng chất của Châu Âu nữa. Một
số ngƣời do đƣợc trợ cấp của nhà nƣớc đã sinh ra ỷ nại, thiếu chủ động làm xã hội có
xu hƣớng kém linh hoạt và xơ cứng
2.2.2 Mô hình nhà nước phúc lợi ở Châu Âu
Cải cách và điều tiết các lĩnh vực xã hội ở Châu Âu chủ yếu thể hiện ở 2 nhóm
lĩnh vực chính là an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Nhóm tập trung đi sâu và làm rõ về
các mô hình nhà nƣớc phúc lợi ở Châu Âu để thấy đƣợc sự hoạt động kết hợp song
song của cả hai nhóm lĩnh vực là ASXH và PLXH
2.2.2.1 Các mô hình nhà nƣớc phúc lợi ở Châu Âu
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhà nƣớc phúc lợi đã đƣợc định hình ở Châu
Âu. Nhà nƣớc phúc lợi hƣớng tới thiết lập và củng cố các tiêu chuẩn quốc gia về các
quyền lợi xã hội. Các quyền lợi đó đƣợc thực hiện thông qua hàng loạt chƣơng trình
khác nhau, nhƣng chủ yếu thông qua an sinh xã hội. Nhà nƣớc phúc lợi thực hiện các
vai trò quan trọng nhƣ: Duy trì sự hỗ trợ chống nghèo đói; hƣớng tới mục tiêu công
bằng thông qua việc thu hẹp sự chênh lệch về mức sống giữa các nhóm ngƣời trong xã
hội; duy trì an sinh xã hội chống lại rủi ro do tai nạn, ốm đau, mất sức lao động sớm,
thất nghiệp, tuổi già, nhu cầu chăm sóc khi bị tổn thất; nâng cao sự phồn thịnh và
chăm lo cho việc phân phối công bằng. Nhà nƣớc phúc lợi đòi hỏi phải có sự can thiệp
sâu của nhà nƣớc vào các chức năng xã hội. Do những đặc tính hấp dẫn của nó, hàng
loạt quốc gia Châu Âu đã thực hiện mô hình nhà nƣớc phúc lợi nhƣ Ireland (1944),
Anh (1945), Na Uy (1946), Thụy Điển (1947), Phần Lan và Áo (1948).
Mô hình nhà nƣớc phúc lợi Châu Âu đƣợc phân loại theo nhiều tiêu chí khác
nhau. Esping Andersen (2008) đã phân chia nhà nƣớc phúc lợi Châu Âu thành ba loại:
mô hình Anglo-Saxon (nhà nƣớc phúc lợi tự do) với các quốc gia tiêu biểu là Anh,
Ireland; mô hình Châu Âu lục địa (nhà nƣớc phúc lợi bảo thủ), tiêu biểu là Pháp, Đức,
16



Italia; và mô hình Scandinavian (nhà nƣớc phúc lợi dân chủ xã hội) gồm Na Uy, Thụy
Điển, Phần Lan, Đan Mạch. Sự phân chia này dựa trên tiêu chí về mối quan hệ và nhân
tố chi phối giữa ba thành tố cơ bản trong việc đảm bảo phúc lợi xã hội là nhà nƣớc, thị
trƣờng lao động và dân cƣ (cá nhân/gia đình).
Andre Sapir (2006) đƣa ra một quan niệm khác, rằng có bốn mô hình nhà
nƣớc phúc lợi là mô hình Bắc Âu (gồm bốn nƣớc bán đảo Scandinavian và Hà Lan),
mô hình Anglo-Saxon (Anh, Ireland), mô hình Châu Âu lục địa (Pháp, Đức, Áo…) và
mô hình Địa Trung Hải (Italia, Hy Lạp, Bồ Đào Nha…). Sự phân chia kiểu này căn cứ
chủ yếu vào khu vực địa lý và nét tƣơng đồng văn hóa ảnh hƣởng tới việc thiết lập hệ
thống và chính sách an sinh xã hội. Một số nghiên cứu khác lại cho rằng chỉ có hai mô
hình nhà nƣớc phúc lợi là mô hình dựa trên chế độ bảo hiểm (theo nguyên tắc đóng hƣởng) và mô hình phúc lợi phổ cập (dựa trên nguồn tài chính quốc gia từ thu thuếtax financed). Tuy nhiên, dù phân loại nhà nƣớc phúc lợi theo tiêu chí nào thì các mô
hình nhà nƣớc phúc lợi Châu Âu cũng đƣợc xây dựng dựa trên hai trƣờng phái lý
thuyết của Bismarck và Beveridge.
Theo lý thuyết của Bismarck, hệ thống bảo hiểm xã hội bắt buộc là cơ sở của
quyền đƣợc hƣởng các loại phúc lợi xã hội của ngƣời lao động. Phạm vi áp dụng của
bảo hiểm xã hội bắt buộc gắn với các nhóm ngƣời có nghề nghiệp trong xã hội, do đó
còn gọi là hệ thống định hƣớng nghề nghiệp. Nó thực hiện trên nguyên tắc bảo hiểm là
chủ đạo với các quỹ thành phần đƣợc phát triển dựa vào đóng góp và cũng chỉ có
những thành viên tham gia đƣợc hƣởng lợi. Nƣớc Đức trở thành quốc gia đầu tiên thực
hiện chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc từ năm 1883. Theo trƣờng phái Bismarck, bảo
hiểm xã hội về cơ bản không đƣợc tài trợ từ nhà nƣớc nhƣng nhà nƣớc đứng ra cam
kết bảo đảm nếu các quỹ bảo hiểm xã hội bị mất khả năng thanh toán. Hệ thống chính
sách phúc lợi xã hội theo trƣờng phái Bismarck mặc dù bị ảnh hƣởng bởi hai cuộc
chiến tranh thế giới nhƣng vẫn tiếp tục phát triển, mở rộng loại hình bảo hiểm xã hội
theo hƣớng ngày càng toàn diện.
Ngƣợc lại với trƣờng phái Bismarck, trƣờng phái Beveridge cho rằng phúc lợi
xã hội phải bao phủ toàn diện, với mức chi trả nhƣ nhau và đƣợc quản lý tập trung,
thống nhất. Đề xuất cải cách hệ thống an sinh xã hội nƣớc Anh của Beveridge đã đƣợc
chấp thuận và trở thành nội dung cơ bản của Luật Bảo hiểm quốc gia năm 1946. Từ
luật này, hệ thống an sinh xã hội phổ cập công cộng đã đƣợc xây dựng, giúp ngƣời lao

17


động đối phó với những “thiếu hụt”, gián đoạn về thu nhập do mất việc làm, bệnh tật
hoặc tuổi già. Đặc trƣng của mô hình này là nhấn mạnh đến tính toàn diện về phạm vi,
lĩnh vực, lợi ích của những ngƣời tham gia, trong đó nhà nƣớc chịu trách nhiệm chính
về mặt tài chính. Cho đến nay, nhà nƣớc phúc lợi đã phát triển ở nhiều nƣớc Châu Âu
với nhiều mô hình khác nhau dựa trên đặc điểm, tình hình kinh tế, xã hội, văn hóa cụ
thể của mỗi nƣớc. Về cơ bản không có nhà nƣớc nào phát triển hệ thống phúc lợi xã
hội theo nguyên mẫu thuần túy mà thƣờng kết hợp ở mức độ khác nhau từ hai trƣờng
phái Bismarck và Beveridge.
2.2.2.2 Những thành quả của nhà nƣớc phúc lợi xã hội Châu Âu ở thế kỷ 20
Các nhà nƣớc phúc lợi Châu Âu đã đạt đƣợc những thành công rõ rệt kể từ sau
Chiến tranh thế giới thứ hai. Ở nhiều nƣớc, các quyền lợi xã hội của công dân đƣợc
mở rộng nhanh chóng và an sinh phát triển mạnh. Thập kỷ 1950, 1960 đƣợc đánh giá
là “những thập kỷ vàng” trong việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội. Nhờ tăng
chi tiêu cho hệ thống an sinh xã hội giai đoạn này, cơ cấu việc làm đã đƣợc chuyển
dịch mạnh sang ngành dịch vụ, y tế, giáo dục phát triển, mức sống đƣợc nâng cao.
Các thành tựu quan trọng của giai đoạn này là xây dựng đƣợc nhà nƣớc phúc
lợi, tăng cƣờng thể chế phát triển giáo dục, xây dựng thị trƣờng lao động hợp lý, xây
dựng nền kinh tế dựa vào kỹ thuật, xây dựng cấu trúc gia đình phù hợp. Hầu hết các
nƣớc Tây Âu đạt đƣợc những thành tựu đó nhờ những nỗ lực bản thân cũng nhƣ những
yếu tố thuận lợi từ bên ngoài tác động nhƣ: sự mở rộng hợp tác quốc tế và khu vực,
mở rộng thƣơng mại, đầu tƣ và tài chính, thành lập Liên minh Châu Âu (EU)…
Sau ba thập kỷ hình thành và phát triển mạnh mẽ, các nhà nƣớc phúc lợi Châu
Âu đã đảm bảo đầy đủ việc làm, phát triển tốt các dịch vụ xã hội. Theo nhiều tiêu chí
đánh giá xếp hạng, các nƣớc Tây Âu đã xây dựng đƣợc hệ thống an sinh xã hội tốt
nhất thế giới, trong đó đứng đầu là Thụy Điển, Pháp đứng thứ hai, Đan Mạch thứ ba,
Phần Lan thứ năm, Đức thứ chín… Những chƣơng trình phúc lợi nhƣ trợ cấp tuổi già,
quỹ hƣu trí, chăm sóc sức khỏe đã nâng cao chất lƣợng cuộc sống dân cƣ. Tuổi thọ

bình quân của ngƣời dân nƣớc Pháp đã tăng từ 55,9 tuổi năm 1930 lên 69 tuổi đầu thập
niên 1970 và 75 tuổi năm 1997. Thập niên 1970 cũng cho thấy nhiều chế độ phúc lợi
xã hội đã góp phần tạo động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội các nƣớc Tây
Âu. Chẳng hạn sự đầu tƣ tích lũy vốn nhân lực dẫn đến năng suất lao động của nhiều
nƣớc tăng cao, kinh tế tăng trƣởng tốt, thu nhập cao dẫn đến mức đóng thuế của ngƣời
18


lao động tăng lên, từ đó ngân sách cho phúc lợi xã hội đƣợc cải thiện. Bên cạnh những
thành tựu về cải thiện mức sống, trong giai đoạn thập niên 1970, các nƣớc Tây Âu còn
đạt đƣợc một sự bùng nổ dân số do tỷ lệ sinh cao, tạo điều kiện bổ sung nguồn nhân
lực cho thị trƣờng lao động. Trong thập niên 1980 và 1990, lực lƣợng lao động này đã
đƣợc hấp thụ bởi quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ công nghiệp sang dịch vụ, tạo
điều kiện cho tăng trƣởng kinh tế ổn định ở các nƣớc Châu Âu.
Đến cuối thế kỷ XX, các nhà nƣớc phúc lợi Châu Âu vẫn duy trì đƣợc hệ
thống phúc lợi xã hội hào phóng cho công dân của mình nhƣ trợ cấp thất nghiệp cao,
tuổi nghỉ hƣu là 60 tuổi, trợ cấp sinh con cao, học đại học miễn phí hoặc chi phí rất
thấp và nhiều loại trợ cấp khác. Chẳng hạn ở Thụy Điển và Đức, trợ cấp thất nghiệp
bằng 75% lƣơng, hoặc nghỉ ốm vẫn đƣợc trả nguyên lƣơng không hạn chế thời gian. Ở
Đức, phụ nữ có thai nghỉ việc đƣợc hƣởng 75% lƣơng, khi sinh con vẫn đƣợc hƣởng
mức lƣơng này đến hai năm. Ngay cả khi ngƣời mẹ quyết định nghỉ việc ở nhà nuôi
con vẫn đƣợc nhà nƣớc hỗ trợ nuôi đứa trẻ đến lúc trƣởng thành. Ở Tây Ban Nha, có
một khoản hỗ trợ sinh con cấp cho các gia đình là 2.500 Euro/lần. Các nƣớc Châu Âu
khác cũng có những khoản hỗ trợ đặc biệt cho các gia đình khi sinh con và các chính
sách phúc lợi tối ƣu cho đứa trẻ từ khi còn trong bụng mẹ đến lúc trƣởng thành (học
xong đại học). Chi tiêu cao cho các chƣơng trình phúc lợi đã trở thành đặc điểm chung
của Châu Âu hiện đại. Những thành tựu đạt đƣợc của nhà nƣớc phúc lợi Châu Âu đã
đem lại an sinh thu nhập to lớn cho ngƣời dân, làm tăng chu kỳ cuộc sống, làm bùng
nổ các dịch vụ xã hội, góp phần cải thiện đầu tƣ vào nguồn vốn con ngƣời, đặc biệt
trong lĩnh vực giáo dục, y tế, chăm sóc trẻ em. Tình trạng nghèo khổ và chênh lệch

mức sống đƣợc hạn chế không những nhờ hệ thống bảo hiểm xã hội mở rộng mà còn
nhờ những biện pháp bổ sung thu nhập và hỗ trợ dịch vụ xã hội. Ở hầu hết các nƣớc,
trẻ em trong các gia đình thu nhập thấp đều đƣợc đến trƣờng và hƣởng các dịch vụ
giáo dục bình đẳng.
2.2.2.3 Những vấn đề đặt ra cho mô hình nhà nƣớc phúc lợi ở Châu Âu trong thế kỷ 21
Trong quá trình phát triển mô hình nhà nƣớc phúc lợi, các quốc gia Châu Âu
đã gặp phải những vấn đề khó khăn ngay từ giữa thập niên 1970 khi tốc độ tăng trƣởng
kinh tế chậm lại sau hai cuộc khủng hoảng dầu lửa thế giới và chi tiêu xã hội không
ngừng tăng lên do hậu quả xã hội của khủng hoảng kinh tế (thất nghiệp, nghèo khổ).
Tuy nhiên, những khó khăn thách thức đối với các mô hình nhà nƣớc phúc lợi Châu
19


×