Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Vai trò kích thích lao động của các hình thức tiền lương - tiền thưởng và giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.79 KB, 48 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong lịch sử phát triển của xã hội lồi người, lao động đã đóng góp một vai trị
quyết định và theo cách nói của F.Enghen: Lao động đã góp phần sáng tạo ra con người.
Lao động là hoạt động chính của xã hội và sự phát triển của lao động, sản xuất là nền
tảng, là thước do sự phát triển của xã hội.
Lao động là hoạt động của con người. Mỗi người tham gia lao động đều có
những lý do, mục đích nhất định: Lao động để kiếm sống, lao động để tự khẳng định
mình; lao động để được thăng chức, cấp; lao động bị bắt buộc... Nhưng cho dù lý do nào
đi chăng nữa thì lao động ln là hoạt động có mục đích , có ý thức và sự lỗ lực trong
kinh doanh luôn là động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Ở mỗi thời kỳ phát triển của xã hội, hình thành những tổ chức lao động phù hợp,
mà ở đó mỗi người phải ln cố gắng, nỗ lực. Khi mà điều kiện thay đổi, hình thức đã
có trở lên lỗi thời, mọi người khơng cịn tích cực lao động nữc, xã hội rơi vào tình trạng
bế tắc và một hình thức mới thích hợp sẽ ra đời. Đó là quy luật chung trong sự phát triển
xã hội.
Trong thời đại ngày nay, do mức độ phát triển cao của tự do cá nhân, hình thức
lao động bắt buộc khơng cịn thích hợp nữa. Mọi người đều có thể tự quyết định là gì và
làm như thế nào trong những điều kiện cụ thể...
Xuất phát từ vai trò hoạt động lao động của con người và đặc điểm tâm lý con
người lao động nói chung và sự tác động của điều kiện kinh tế xã hội hiện nay đặt ra
vấn đề là làm như thế nào để quản lý có hệu quả, nguồn nhân lực đó là cần có những
chính sách quản lý lao động như thế nào. Với ý nghĩa là công cụ để tác động vào mục
đích hoạt động lao động của con người để phát huy vai trị mục đích của hoạt động lao
động nhằm thúc đẩy xã hội phát triển và hoàn thiện con người lao động... Trong đó,
cơng cụ tiền lương tiền thưởng hiện nay có vai trị hết sức quan trọng, nó tác động trực
tiếp đến lợi ích kinh tế của người lao động góp phần tạo ra động lực trực tiếp thúc đẩy
con người lao động làm việc tốt, nâng cao hiệu quả hoạt động lao động...
Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh q trình cơng nghiệp hố- hiện đại hoá
trên lĩnh vực của đời sống kinh tế - chính trị - xã hội. Đặc biệt là chiến lược phát triển
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta


ln có tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt các chủ chương, chính sách kinh tế - xã hội là ln
quan tâm chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy thế nhân tố con người với tư cách là động
lực, vừa là mục tiêu của Cách mạng; là yếu tố quyết định cho sự phát triển bền vững của

1


đất nước. Trong đó chính sách chế độ tiền lương luôn được Đảng và Nhà nước ta coi là
một trong những vấn đề trọng yếu liên quan mật thiết và có ảnh hưởng thường xun
mang tính chất quyết định đến động thái kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước. Chính
vì thế Đảng và Nhà nước ta đã xác định là : Quan tâm đến con người được xác định là
vấn đề trọng tâm, chỉ có quan tâm và phát triển con người mới khai thác được khả năng
tiềm ẩn của con người. Một trong những nhân tố kích thích khả năng tiềm ẩn trong con
người đó là lợi ích của họ thu được gì khi lao động của họ tham gia vào hoạt động có
mục đích, theo Các Mác: Một khi tư tưởng tách rời lợi ích thì nhất định sẽ tự làm nhục
nó; cịn F. Anghen lại khẳng định: ở đâu có sự kết hợp các lợi ích, ở đó có sự thống nhất
về mục đích và lý tưởng. Chính sách tiền lương là một trong những biểu hiện cụ thể
trong lợi ích đó.
Do đó việc nghiên cứu và áp dụng đúng đắn các chế độ, chính sách tiền lương
hiện nay để chúng thực sự là vai trị kích thích lợi ích người lao động, trong đó việc
nghiên cứu và áp dụng các hình thức tiền lương, tiền thưởng là một mặt quan trọng
trong các chế độ, chính sách tiền luơng. Đồng thời qua việc học tập và nghiên cứu một
số tài liệu về mặt lý luận và một phần thực tế các hình thức tiền lương - tiền thưởng hiện
nay cho em thấy việc áp dụng các hình thức tiền lương - tiền thưởng có nhiều ưu
điểm ,nhưng cũng cịn nhiều hạn chế cần nghiên cứu để hoàn thiện. Do vậy em chọn đề
tài : "Vai trị kích thích lao động của các hình thức tiền lương - tiền thưởng và giải pháp
hoàn thiện". Với mục đích là qua nghiên cứu về mặt lý luận và thực tế các hình thức tiền
lương - tiền thưởng hiện nay để từ đó được ra những giải pháp hoàn thiện chúng theo
một hướng thống nhất nhằm tăng cường vai trị kích thích lao động của nó và đảm bảo
các hình thức tiền lương này thực sự là những cơng cụ, địn bẩy kinh tế to lớn nhằm

khai thác và khơi dậy những tiềm năng của mỗi con người trong lao động và cũng nhằm
hồn thiện một cơng cụ quản lý lao động tiền lương hữu hiệu góp phần vào sự nghiệp
cơng nghiệp hố - hiện đại hố đất nước ta hiện nay.
Đề án này nghiên cứu về mặt lý luận, kết hợp một phần thực tiễn nhằm tìm ra
những biện pháp nhằm tăng cường hiệu quả, vai trị kích thích lao động của các hình
thức tiền lương - tiền thưởng ở nước ta hiện nay. Qua nghiên cứu đề án này em đã sử
dụng phương pháp thu thập, phân tích, đánh giá, kết hợp các vấn đề có liên quan.
Ngồi phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề án gồm 3 phần:
Phần I: Cơ sở lý luận các hình thức tiền lương - tiền thưởng và vai trị của nó
trong việc kích thích lao động.
Phần II: Thực trạng vai trị kích thích lao động của các hình thức tiền lương - tiền
thưởng ở nước ta hiện nay.

2


Phần III: Một số giải pháp nhằm tăng cường vai trị kích thích lao động các hình
thức tiền lương - tiền thưởng.

3


NỘI DUNG
PHẦN I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÁC HÌNH THỨC TIỀN LƯƠNG - TIỀN
THƯỞNG VÀ VAI TRỊ CỦA NĨ TRONG VIỆC KÍCH THÍCH LAO
ĐỘNG
I. Q TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƯƠNG
CỦA CÁC NHÀ KINH TẾ - CHÍNH TRỊ HỌC TỪ W- PETTY ĐẾN C.MÁC.

1. Lý luận về tiền lương của W. Petty (1623 - 1687):

W. Petty là một nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh. Ông đã nghiên cứu kinh
tế trong đó có lý thuyết về tiền lương.
Lý thuyết về tiền lương W. Petty được xây dựng trên cơ sở lý thuyết giá trị lao
động của ơng. Có thể nói là ông là người đầu tiên trong lịch sử đặt nền móng cho lý
thuyết giá trị lao động. Ơng coi lao động là hàng hoá, tiền lương là giá trị của lao động.
Mà theo ông giá cả tự nhiên là giá trị của hàng hố, cịn giá cả nhân tạo là giá cả thị
trường của hàng hố. Ơng đã đặt ra nhiệm vụ xác định mức tiền lương. Theo ông giới
hạn tiền lương là mức tư liệu sinh hoạt tối thiểu để ni sống người cơng nhân. Ơng là
người đầu tiên trong lịch sử đặt nền móng cho lý thuyết "quy luật sắt về tiền lương"
2. Lý luận về tiền lương của A. Smith (1723 - 1790):
A.Smith là một nhà kinh tế chính trị cổ điển nổi tiếng ở nước Anh và trên thế
giới. Ông là một trong những bậc tiền bối lớn của C.Mác. Trong các tác phẩm của mình
ơng đã trình bày một cách khá hệ thống các lý thuyết kinh tế, trong đó có lý thuyết tiền
lương:
ASmith xác định cơ sở của tiền lương là giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết
để nuôi sống người công nhân làm thuê và giao dục, nuôi dưỡng con cái anh ta để có thể
đưa ra thay thế trên thị trường lao động. Ơng chỉ mức bình thường của tiền lương và cho
rằng tiền lương phải đạt được ở mức (giới hạn) tối thiểu. Theo ông, tiền lương không
được hạ thấp q giới hạn đó, vì nếu thấp hơn giới hạn tối thiểu này sẽ là thảm hoạ cho
sự phát triển của các dân tộc.
A.Smith đối lập với quan điểm của các nhà kinh tế học đương thời ủng hộ trả
lương theo mức tối thiểu. A.Smith ủng hộ trả lương cao vì theo ơng, tiền lương cao sẽ
tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế. Cụ thể là, tiền lương cao người lao động phấn khởi
tìm mọi cách tăng năng suất lao động, tăng thu nhập quốc dân nói chung.

4


3. Lý luận về tiền lương của D.Ricardo (1772 - 1823)
David Ricardo là nhà kinh tế - chính trị học tư sản cổ điển Anh. Ơng là cha đẻ

của mơn kinh tế chính trị học và ơng là người kế tục xuất sắc A.Smith.
Ơng có ý đồ giải quyết liên hệ xác định tiền lương theo quy luật giá trị, nhưng
khơng thành cơng vì cũng giống như A.Smith, ơng chưa phát hiện được lao động với
sức lao động. Tuy nhiên ông vẫn xác định đúng tiền lương của người công nhân phải
ngang với giá trị những sinh hoạt tối thiểu cần thiết cho cơng nhân và gia đình anh ta.
Một trong những công lao to lớn của ông là phân biệt được tiền cơng thực tế và
xác định nó như một phạm trù kinh tế. D.Ricardo có chủ trương ủng hộ "lý thuyết qui
luật sắt về tiền lương".
4. Lý luận về tiền lương của Sismondi (1773 - 1842):
Sismondi là nhà kinh tế chính trị học kiểu tư sản Pháp. Ơng có nhiều cơng lao
trong viẹc phân tích vấn đề thu nhập: Lợi nhuận, địa tô và tiền lương. ông giải quyết các
vấn đề này có điểm rõ hơn A.Smith và D.Ricardo.
Về lý luận tiền lương, Sismondi đã coi công nhân là người sáng tạo ra của cải vật
chất, như vậy ông đã chỉ ra là lao động là nguồn gốc của mọi của cải. . Theo ông, tiền
lương phải ngang bằng tồn bộ giá trị sản phẩm của cơng nhân.
5. Lý luận tiền lương của Các Mác (1818 - 1883).
Các Mác là một trong những người sáng lập ra chủ nghĩa Mác là nền tảng lý luận
vững chắc cho giai giai cấp công nhân và nhân dân lao động đấu tranh với chủ nghĩa tư bản
để đánh đổ chủ nghĩa lập lên chế độ xã hội chủ nghĩa do người lao động làm chủ. Trong nhiều
tác phẩm ơng có lý luận về tiền lương.
Các Mác trên cơ sở tiếp thu có phê phán chọn lọc các lý luận về tiền lương của
các nhà kinh tế - chính trị học trước đó, ơng đã trình bầy một cách có hệ thống và khá
hoàn chỉnh các lý luận về tiền lương.
Các Mác chỉ rõ: Chủ nghĩa sau khi làm việc cho nhà đầu tư bản trong một thời
gian nào đó, sản xuất ra một lượng hàng hố nào đó thì nhận được một số tiền cơng nhất
định. Số tiền cơng đó chính là tiền lương mà tiền lương này không phải là giá trị hay giá
cả lao động, vì lao động khơng phải là hàng hố và khơng phải là đối tượng mua bán và
cái mà công nhân bán cho nhà tư bản, cái mà nhà tư bản mua của người công nhân là
sức lao động.


5


C.Mác chỉ ra 2 hình thức cơ bản của tiền lương: tiền lương tính theo thời gian và
tiền lương tính theo sản phẩm. C.mác cũng chỉ ra sự khác nhau giữa tiền lương danh
nghĩa và tiền lương thực tế và khẳng định nếu khoảng cách giữa chúng càng lớn là nguy
cơ lớn đối với đời sống của người làm công ăn lương và sự bảo đảm của tiền lương phụ
thuộc vào nhiều yếu tố: năng suất lao động , cường độ lao động, trình độ thành thạo của
người lao động.
Sau đây ta sẽ nghiên cứu cụ thể lý luận về các hình thức tiền lương theo lý luận
của C.Mác.
II. BẢN CHẤT VÀ VAI TRỊ KÍCH THÍCH LAO ĐỘNG CỦA TIỀN
LƯƠNG - TIỀN THƯỞNG TRONG NỀN KINH TẾ
1. Khái niệm và bản chất của tiền lương
1.1. Tiền lương trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung: tiền lương được hiểu thống nhất như
sau: "Về thực chất, tiền lương dưới chủ nghĩa xã hội là một phần thu nhập quốc dân,
biểu hiện dưới hình thức tiền tệ, được Nhà nước phân phối một cách có kế hoạch cho
cơng nhân, viên chức phù hợp với số lượng và chất lượng lao động của mỗi người đã
cống hiến. Tiền lương phản ánh việc trả công cho công nhân viên chức, dựa trên nguyên
tắc phân phối theo lao động nhằm tái sản xuất sức lao động".1
Như vậy: dưới chủ nghĩa xã hội, về bản chất tiền lương có những đặc điểm sau:
Thứ nhất: tiền lương khơng phải là giá cả sức lao động, vì dưới chủ nghĩa xã hội
sức lao động khơng phải là hàng hố.
Thứ hai: tiền lương là một khái niệm thuộc phạm trù phân phối, tuân thủ những
nguyên tắc của quy luật phân phối dưới chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba: tiền lương được phân phối công bằng theo số lượng và chất lượng lao
động của cơng nhân viên chức đã hao phí và được kế hoạch hoá từ cấp trung ương đến
cơ sở, được Nhà nước thống nhất quản lý.
1.2. Tiền lương trong nền kinh tế thị trường

Hiện nay nền kinh tế nước ta đang chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa cho nên cơ chế thị trường buộc
chúng ta phải có những trao đổi lớn trong nhận thức quan niệm về tiền lương. Do đó
khái niệm tiền lương trong nền kinh tế thị trường được hiểu như sau:
1

Phùng Thế Trường: Kinh tế lao động - NXB đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội - 1986 - tr 205

6


Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá của yếu tố sức
lao động mà người sử dụng (Nhà nước, chủ doanh nghiệp) phải trả cho người cung ứng
sức lao động, tuân theo các nguyên tắc cung + cầu, giá cả của thị trường và pháp luật
hiện hành của Nhà nước. Như vậy bản chất của tiền lương trong nền kinh tế thị trường
là:
Thứ nhất: tiền lương là giá cả sức lao động được hình thành trên cơ sở giá trị sức
lao động thơng qua sự thoả thuận giữa người có sức lao động và người sử dụng sức lao
động và chịu sự chi phối của các qui luật kinh tế trong đó có quy luật cung cầu, giá cả
tiền thực tế và như vậy trong nền kinh tế thị trường sức lao động được coi là một hàng
hoá.
Thứ hai: tiền lương là bộ phận cơ bản (hoặc duy nhất) trong thu nhập của người
lao động, đồng thời là một trong các yếu tố chi phí đầu vào của sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp.
Ngồi khái niệm về tiền lương đã trình bày trên, ta tìm hiểu và phân biệt thêm
một số khái niệm sau: Khái niệm và phân biệt giữa tiền lương với tiền công; Khái niệm
và phân biệt giữa tiền lương danh nghĩa với tiền lương thực tế; khái niệm tiền lương tối
thiểu:
Tiền lương - tiền công chỉ là một biểu hiện, một tên gọi khác của tiền lương
Tiền lương và tiền công các khoản biểu hiện của phần thù lao cơ bản mà người

lao động nhận được thông qua mối quan hệ thuê mướn lao động giữa họ với người sử
dụng sức lao động trong đó:
+ Tiền lương (salary) là số tiền trả cho người lao động một cách cố định, thường
xuyên theo một đơn vị thời gian dựa trên cơ sở loại công việc cụ thể, mức độ thực hiện
cơng việc, trình độ và thâm niên cơng tác của người lao động. Tiền lương thường được
trả cho cán bộ quản lý, lãnh đạo, nhân viên chuyên môn và kỹ thuật.
+ Tiền công (wages): là số tiền trả cho người lao động tuỳ thuộc vào số lượng
thời gian làm việc thực tế (giờ, ngày), hay số lượng sản phẩm sản xuất ra hay tuỳ thuộc
vào khối lượng cơng việc hồn thành. Tiền công thường được trả cho nhân viên sản
xuất, nhân viên bảo dưỡng, nhân viên văn phịng... Tiền cơng còn được hiểu là số tiền
trả cho một đơn vị thời gian lao động cung ứng, tiền trả theo khối lượng công việc được
thực hiện phổ biến trong những thoả thuận thuê nhân công trên thị trường tự do và có
thể gọi là giá nhân cơng.

7


Như vậy tiền công được trả trên cơ sở: Khối lượng cơng việc hồn thành, thời
gian làm việc thực tế hay số lượng sản phẩm sản xuất ra.
Trong nền kinh tế thị trường phát triển khái niệm tiền lương và tiền công được
xem là đồng nhất về vật chất kinh tế (đều là giá cả sức lao động hay phản ánh một phần
giá trị sức lao động), cũng như phạm vi áp dụng và đối tượng áp dụng. Nhưng ở các
nước đang chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường
trong đó có nước ta thì khái niệm tiền lương được gắn với chế độ tuyển dụng suốt đời
trong khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực hành chính sự nghiệp, hoặc một thoả thuận
hợp đồng sử dụng lao động dài hạn ổn định do đó nó có tính chất ổn định hơn tiền cơng;
cịn tiền cơng được gắn với các quan hệ thuê mướn thoả thuận trực tiếp tự do trên thị
trường lao động thường áp dụng với các thành phần kinh tế ngồi quốc doanh, nó chịu
sự tác động, chi phố rất lớn của tiền lương và thị trường lao động. Do đó nó có tính chất
rộng hơn tiền lương và thường không ổn định hơn so với tiền lương.

* Tiền lương danh nghĩa - tiền lương thực tế
+ Tiền lương danh nghĩa: là khái niệm chỉ số lượng thực tế mà người sử dụng lao
động trả cho người cung ứng sức lao động căn cứ vào hợp đồng thoả thuận giữa 2 bên
trong việc thuê lao động.
+ Tiền lương thực tế là số lượng tư liệu sinh hoạt và dịch vụ mà người lao động
có thể mua được bằng tiền lương danh nghĩa cuả họ.
Vậy tiền lương thực tế không những phụ thuộc vào tiền lương danh nghĩa mà cịn
phụ thuộc vào giá cả hàng hố và dịch vụ cần thiết mà họ muốn mua. Mối quan hệ giữa
tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế được thể hiện bằng công thức sau:
ITLTT =
ITLDN : Chỉ số tiền lương danh nghĩa
ITLTT

: Chỉ số tiền lương thực tế

Igiá cả

: Chỉ số giá cả hàng hoá - dịch vụ

* Tiền lương tối thiểu (hay mức lương tối thiểu): là mức lương để trả cho người
lao động làm việc giản đơn nhất (không qua đào tạo) với điều kiện lao động và mơi
trường lao động bình thường.2
Mức lương tối thiểu được xem là "Cái ngưỡng" cuối cùng, để từ đó xây dựng các
mức lương khác, tạo thành hệ thống tiền lương của một ngành nào đó, hoặc một hệ
Các văn bản quy định chế độ tiền lương mới, tập 4 - Bộ LĐTBXH: Điều 8/Nghị định 197/CP ngày
31/12/1994 về việc thi hành bộ luật lao động, tr 6.
2

8



thống tiền lương chung thống nhất của một nước. Mức lương tối thiểu này được luật
hoá, nhằm hạn chế sự giãn cách quá lớn giữa tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực
tế, đây là hình thức can thiệp của Chính phủ vào chính sách tiền lương, trong điều kiện
thị trường lao động ln có số cung tiềm tàng hơn số cầu lao động.
1.3. Vai trò chức năng của tiền lương
Để phù hợp với khái niệm mới về bản chất của tiền lương trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam có một yêu cầu mới là phải làm cho tiền lương thực hiện đầy đủ các
chức năng của nó. Tất cả có 4 chức năng chủ yếu.
+ Chức năng thước đo giá trị (sức lao động): Đây là một chức năng cơ bản,
nó phù hợp với quy luật giá trị. Vì tiền lương phản ánh giá trị sức lao động hao phí, nó
là giá cả sức lao động nên theo quy luật giá trị nó phải đảm bảo đúng quy luật giá trị.
+ Chức năng tái sản xuất sức lao động: nhằm duy trì năng lực làm việc
lâudài, có hiệu quả trên cơ sở tiền lương bảo đảm bù đắp được sức lao động đã hao phí
cho người lao động.
+ Chức năng kích thích : bảo đảm khi người lao động làm việc có hiệu quả,
năng suất cao thì về mặt nguyên tắc tiền lương phải được nâng cao và ngược lại. Để
thuận tiện được chức năng này thì đòi hỏi phải thực hiện tốt 2 chức năng đầu.
+ Chức năng tích luỹ: Đảm bảo là tiền lương của người lao động khơng những
duy trì cuộc sống hàng ngày trong thời gian làm việc, mà còn để dự phòng cho cuộc sống
lâu dài. Khi họ hết khả năng lao động hoặc gặp bất trắc, rủi ro.
Trên đây là một số vấn đề cơ sở lý luận và bản chất kinh tế của tiền lương, ngoài
bản chất kinh tế, tiền lương cịn mang bản chất xã hội, vì nó gắn liền với người lao động
và cuộc sống của họ. Sức lao động con người không giống như các loại hàng hố khác
mà nó là một loại hàng hố đặc biệt, nó là tổng thể các mối quan hệ xã hội. Do đó khi nghiên
cứu, tính tốn tiền lương khơng chỉ tính về mặt thực tế, mà cịn phải đề cập và tính tốn đầy đủ
cả về mặt xã hội của tiền lương.
2. Khái niệm và bản chất của tiền thưởng
2.1. Khái niệm tiền thưởng
Tiền thưởng thực chất là khoản tiền bổ sung cho tiền lương nhằm quán triệt hơn

nguyên tắc phân phối theo lao động và nhằm kích thích người lao động trong việc nâng
cao năng suất, cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm và tiết kiệm nguyên vật liệu trong
quá trình sản xuất.

9


Tiền thưởng là một trong những biện pháp khuyến khích vật chất đối với người
lao động trong quá trình làm việc. Qua đó nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản
phẩm và rút ngắn thời gian làm việc.
2.2. Nội dung cơ bản của tổ chức tiền thưởng
Nội dung của việc tổ chức tiền thưởng bao gồm:
*Chỉ tiêu thưởng: là một trong những yếu tố quan trọng nhất của mỗi hình thức
tiền thưởng. Yêu cầu của chỉ tiêu thưởng là phải rõ ràng, chính xác, cụ thể chỉ tiêu
thưởng; bao gồm cả nhóm chỉ tiêu về số lượng và chỉ tiêu về chất lượng gắn với thành
tích của người lao động và đòi hỏi trong mỗi thời kỳ tổ chức tiền thưởng phải xác định
được một hay một số chỉ tiêu thưởng chủ yếu để người lao động có mục tiêu phấn đấu.
* Điều kiện thưởng: Là những cái đưa ra để xác định những tiền ề, chuẩn mực
để thực hiện một hình thức tiền thưởng nào đó, đồng thời các điều kiện này còn được
dùng để kiểm tra việc thực hiện các chỉ tiêu thưởng.
* Nguồn tiền thưởng: Đó là những nguồn tiền có thể được dùng tồn bộ (hay
dùng một phần) để trả tiền thưởng cho người lao động. Trong các doanh nghiệp thì
nguồn tiền thưởng có thể gồm nhiều nguồn khác nhau như: từ lợi nhuận, từ tiền quĩ
lương từ kỳ trước...
* Mức tiền thưởng: Là số tiền thưởng mà lao động nhận được khi họ đạt được các
chỉ tiêu và điều kiện thưởng. Mức tiền lương là cái trực tiếp khuyến khích người lao động.
Tuy nhiên, mức tiền thưởng được xác định cao hay thấp tuỳ thuộc vào nguồn tiền thưởng và
yêu cầu khuyến khích của từng loại công việc.
2.3. Ý nghĩa của tiền thưởng
Chúng ta biết rằng tiền thưởng là phần tiền mà người sử dụng lao động trả cho

người lao động khi họ hoàn thành một cơng việc hay họ có các sáng kiến làm tăng năng
suất lao động, chất lượng sản phẩm... Bên cạnh số tiền mà người lao động nhận được đó
về mặt vật chất nó cịn có ý nghĩa cả về mặt tinh thần, vì họ cảm thấy cơng việc của
mình được người khác công nhận và đánh giá. Điều này cịn thúc đẩy người lao động tích
cực hơn trong cơng việc mà khơng phải chỉ vì tiền mà cịn là địa vị, niềm đam mê công việc
hay sự thoả mãn về cơng việc mình làm. Đồng thời tiền thưởng cịn là công cụ để quản lý tốt
hơn tiền lương và hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình mà vẫn khuyến khích được người
lao động.

10


3. Động cơ lao động và vai trị kích thích lao động của tiền lương - tiền
thưởng.
3.1. Động cơ lao động
3.1.1. Vai trị của con người trong q trình lao động sản xuất: Khi phân tích q
trình sản xuất của cải vật chất, C.Mác đã nêu ra 3 yếu tố của lao động, đó là lao động
của con người, đối tượng lao động và công cụ lao động. Thiếu 1 trong 3 yếu tố đó, q
trình sản xuất sẽ khơng thể diễn ra. Trong đó, nếu xét về mức độ quan trọng, thì lao
động của con người là yếu tố đóng vài trị quyết định nhất, hai yếu tố sau (chính là tư
liệu sản xuất) là quan trọng, nhưng nếu khơng có sự kết hợp và sự tác động của sức lao
động con người thì tư liệu sản xuất sẽ khơng thể phát huy tác dụng. Vì vậy, việc khơng
đánh giá đúng vai trò quyết định của con người trong lao động sản xuất sẽ dẫn đến hiệu
quả tiêu cực và ngược lại. Trong lịch sử phát triển xã hội, đã có nhiều cách nhìn nhận
khác nhau về vai trị của con người. Tương ứng với mỗi quan niệm, xây dựng sẽ có cách
ứng xử và chính sách quản lý riêng, và đã đem lại những kết quả khác nhau khi sử dụng
người lao động.
Ngày nay, các nước tư bản phát triển đã biết khai thác triệt để tiềm năng của yếu
tố con người trong hoạt động sản xuất. Các nhà tư bản sở dĩ quan tâm đến người lao
động, có chính sách tạo điều kiện thuận lợi để người lao động làm việc có năng suất,

chất lượng và hiệu quả cao vì trước hết việc làm đó đem lại lợi nhuận lớn cho nhà tư
bản. Mặt khác nói đến vai trị của con người, cịn phải nói đến tính sáng tạo của họ trong
quá trình lao động. C.Mác chỉ ra rằng xã hội càng phát triển, thì khả năng tư duy sáng
tạo của con người càng phát triển. Ngày nay người ta gọi tính sáng tạo đó là "chất
xám". Trong điều kiện khoa học - công nghệ phát triển như vũ bão hiện nay và đang trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thì xã hội nào, nước nào càng thu hút và sử dụng tốt
lao động sáng tạo, chất xám, càng thúc đẩy kinh tế phát triển...
3.1.2. Khái niệm và bản chất của động cơ lao động:
+ Khái niệm động cơ lao động
Động cơ lao động là sự biểu thị thái độ chủ quan của con người với lao động, nó
phản ánh mục tiêu đặt ra một cách có ý thức, nó xác định và giải thích cho hành vi xã
hội của mỗi con người.
+ Bản chất của động cơ lao động

11


Từ nghiên cứu vai trò của con người trong quá trình lao động sản xuất ở trên ta
thấy rằng, muốn phát huy vai trị và tính sáng tạo của người lao động chúng ta phải đi
tìm hiểu động cơ hoạt động cũng như nhu cầu và lợi ích kinh tế của họ. Để có các biện
pháp, chính sách đáp ứng tốt những nhu cầu và lợi ích đó. Do đó ở đâu, vấn đề đặt ra là:
Tại sao con người lao động? Mục đích lao động của họ là gì? vì sao cùng một con người
nhưng ở các tổ chức này họ làm việc tốt, làm việc hết mình cịn ở tổ chức khác lại
không muốn làm việc, làm việc với năng suất thấp và khơng có hiệu quả? vấn đề đó là
ở chỗ: Ngồi mơi trường làm việc, cịn có động cơ thúc đẩy họ làm việc, do đó muốn
phát lực cho động cơ con người hoạt động, trước hết phải xác định đúng đắn mục đích
hoạt động của con người và tạo điều kiện môi trường thuận lợi để họ có thể làm việc.
Động cơ hoạt động của con người, theo C.Mác, đó là phần thỏa mãn nhu cầu cho
bản thân và gia đình người lao động hay chính nhu cầu của con người tạo ra động cơ
thúc đẩy họ lao động.

Nhu cầu được xem là những đòi hỏi của con người cần được đáp ứng, nó xuất
phát từ những nguyên nhân khác nhau, nhu cầu của con người rất đa dạng, mỗi con
người có thể có những nhu cầu riêng và luôn luôn biến đổi cùng với sự phát triển của
ch, nên việc nắm bắt được nhu cầu, định hướng đúng nhu cầu kịp thời thoả mãn các nhu
cầu đa dạng là một vấn đề quan trọng, trong đó tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã hội của ...
từng thời kỳ mà có thể đáp ứng nhu cầu của con người ở mức độ khác nhau.
Trong điều kiện kinh tế thị trường thì nhu cầu được thể hiện tập trung ở lợi ích
kinh tế - động lực trực tiếp thúc đẩy người lao động làm việc và làm có năng suất - chất
lượng, hiệu quả.
Lợi ích kinh tế theo C.Mác, đó là một phạm trù kinh tế, biểu hiện quan hệ sản
xuất, được phản ánh trong ý thức, thành động cơ hoạt động nhằm thoả mãn một cách tốt
nhất nhu cầu vật chất của các chủ thể tham gia lao động. Lợi ích kinh tế xuất hiện, phát
triển phụ thuộc vào những điều kiện khách quan của đời sống con người và hình thành
trên cơ sở những nhu cầu của họ. Về mặt khách quan, lợi ích kinh tế là hình thức biểu
hiện quan hệ sản xuất, là cơ chế tác động chung của tất cả các quy luật kinh tế do quan
hệ sản xuất trực tiếp sinh ra. Về mặt chủ quan, nó trở thành động cơ hành động của con
người. Các mặt chủ quan và khách quan này gắn bó chặt chẽ với nhau, qui định và tác động
lẫn nhau. vì vậy lợi ích kinh tế trở thành một trong những động lực cơ bản, phổ biến của sự
phát triển không ngừng của sản xuất và đời sống xã hội.

12


Còn động lực lao động là sự khao khát và tự nguyện của con người nhằm tăng
cường mọi nỗ lực để đạt được mục đích lao động hay một kết quả lao động cụ thể. (hay
nói cách khác đơng lực lao động là bao gồm tất cả các lý do làm cho con người làm
việc).
Như vậy, lợi ích là mức độ thoả mãn của nhu cầu của con người trong một điều
kiện cụ thể nhất định, giữa chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau, khơng có nhu cầu thì
khơng có lợi ích hay nói cách khác là lợi ích là tổ chức biểu hiện của nhu cầu, trong đó

lợi ích tạo ra động lực cho người lao động, mức độ thoả mãn các nhu cầu càng cao thì
động lực lao động tạo ra càng lớn, do đó lợi ích tạo ra động lực thúc đẩy con người hăng
say làm việc hơn, có hiệu quả hơn.
Tóm lại: Nhu cầu của con người tạo ra động lực thúc đẩy họ tham gia lao động,
song chính lợi ích trong đó có lợi ích kinh tế của họ mới là động lực trực tiếp thúc đẩy
họ làm việc với hiệu quả cao.
3.2. Vai trị kích thích lao động của tiền lương - tiền thưởng và các phương
hướng kích thích lao động
3.2.1. Kích thích lao động và các phương hướng kích thích lao động
+ Kích thích lao động là gì?
Là q trình tạo ra động lực lao động thúc đẩy sự quan tâm đến việc thực hiện
hoạt động lao động.
+ Tại sao phải kích thích lao động
Từ việc nghiên cứu bản chất của động cơ lao động và xuất phát từ khái niệm kích
thích lao động cho ta thấy: Lợi ích trong đó có lợi ích kinh tế tạo động lực lao động,
song thực tế động lực lao động được tạo ra ở mức độ nào, bằng cách nào, điều đó lại
phụ thuộc vào cơ chế cụ thể để sử dụng nó như một nhân tố cho sự phát triển xã hội,
hay nói cách khác muốn lợi ích tạo ra động lực lao động ta phải tác động vào nó, kích
thích nó, làm gia tăng hoạt động có hiệu quả của lao động trong công việc, trong chuyên
môn hay những chức năng cụ thể... Mặt khác cần chú ý kích thích với tư cách là một
động lực phát triển sản xuất và khả năng của con người, cần phải được xem xét chỉ
trong mối quan hệ chặt chẽ với người lao động, vì chính người lao động là lĩnh vực thể
hiện sự kích thích vật chất.
+ Các phương hướng kích thích:

13


Như vậy, kích thích lao động chính là kích thích lợi ích người lao động. Để kích
thích nó người ta dùng nhiều phương pháp khác nhau, trong đó đặc biệt là kích thích

kinh tế và tâm lý xã hội. Hai loại kích thích này gắn chặtvới lợi ích vật chất và tinh thần
của người lao động. Nó được coi là một công cụ, một phương tiện, một cơ chế để có
được những lợi ích của người lao động trong thực tiễn. Do đó lợi ích có hai loại là lợi
ích vật chất và lợi ích tinh thần nên kích thích lao động có hai phương hướng kích thích
chủ yếu là: kích thích vật chất (kinh tế) và kích thích tinh thần (tâm lý xã hội).
Kích tích vật chất là sự biểu hiện các nhu cầu nên các yếu tố vật chất biểu hiện ra
là những lợi ích đã được nhận thức, nó bao gồm: tiền lương, tiền thưởng, lợi nhuận, giá
cả... Đó là những cái thoả mãn trực tiếp các nhu cầu vật chất của con người. Trong đó
tiền lương, tiền thưởng là những hình thức cơ bản để kích thích vật chất.
Kích thích tinh thần: ngồi nhu cầu vật chất, con người cịn có nhu cầu tinh thần.
Những biện pháp thoả mãn nhu cầu tinh thần của người lao động chính là kích thích họ
hăng say lao động và lao động có năng suất cao. Kích thích về mặt tinh thần gồm các
mặt sau: tạo việc làm ổn định cho người lao động, động viên, quan tâm khen thưởng kịp
thời người lao động của tổ chức...
Giữa kích thích vật chất và kích thích tinh thần có mối quan hệ chặt chẽ và tương
hỗ lẫn nhau.
3.2.2. Vai trị kích thích lao động của tiền lương và nguyên tắc kích thích của tiền
lương
Tiền lương là một hình thức cơ bản nhằm thoả mãn nhu cầu và kích thích vật
chất đối với người lao động. Tiền lương có vai trị rất lớn khơng chỉ đối với người lao
động mà cịn cả đối với nền kinh tế đất nước. Vì tiền lương gắn liền với người lao động
và là nguồn sống chủ yếu của họ và gia đình họ. Tiền lương người lao động nhận được
thoả đáng sẽ là động lực kích thích người lao động nâng cao năng lực làm việc của
mình, phát huy những khả năng vốn có để tạo ra năng suất lao động cao, mặt khác khi
năng suất lao động của người lao động tăng lên thì lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ tăng
và do đó nguồn phúc lợi cuả doanh nghiệp mà người lao động nhận được cũng sẽ tăng
lên, đó là phần bổ sung thêm cho tiền lương làm tăng thêm thu nhập và lợi ích người lao
động. Hơn nữa khi lợi ích của người lao động được bảo đảm bằng các mức lương thoả
đáng, nó sẽ tạo ra sự gắn kết giữa người lao động với mục tiêu và lợi ích của tổ chức,
xố đi sự ngăn cách giữa người lao động và người sử dụng lao động, làm cho người lao


14


động có trách nhiệm tự giác hơn với các hoạt động của doanh nghiệp và tổ chức, ngược
lại nếu mức lương người lao động nhận được không thoả đáng, không chú ý đúng mức
đến lợi ích của người lao động thì nguồn nhân cơng có thể sẽ bị kiệt quệ về thể lực,
giảm sút về chất lượng và hạn chế khả năng làm việc của người lao động, biểu hiện rõ
nhất là tình trạng cắt xén thời gian làm việc, lãng phí nguyên vật liệu và thiết bị, làm
dối, làm ẩu và tạo ra sự mẫu thuân gay gắt giữa người lao động và người sử dụng lao
động, một biểu hiện nữa là doanh nghiệp tổ chức sẽ mất đi những người lao động có
chun mơn, tay nghề cao sang các doanh nghiệp tổ chức khác có mức lương hấp dẫn
hơn... Do đó có một nhà quản lý đã nhận xét: nếu tất cả những gì anh đưa ra chỉ là hột
lạc, thì chẳng có gì ngạc nhiên, rằng kết cục anh chỉ có thể đánh bạn với lũ khỉ.
Với vai trị và ý nghĩa đó của tiền lương, để tiền lương thực sự đóng vai trị kích
thích người lao động thì ngun tắc kích thích của tiền lương phải đảm bảo các nguyên
tắc kích thích sau:
+ Tiền lương của người lao động phải đảm bảo chiếm 70 - 80% trong tổng thu
nhập của người lao động.
+ Tiền lương phải đảm bảo sao cho người lao động có thể tái sản xuất sức lao
động, bao gồm tái sản xuất giản đơn sức lao động và đảm bảo trách nhiệm xã hội của
chính họ.
+ Tiền lương chỉ thực sự khuyến khích người lao động khi nó gắn trực tiếp với
số lượng, chất lượng lao động của họ đã cống hiến, do vậy tất cả các cơng việc phải có
tiêu chuẩn đánh giá rõ ràng, chính xác làm cơ sở để trả lương.
3.2.3. Vai trị kích thích của tiền thưởng và ngun tắc kích thích của tiền thưởng
Ngồi tiền lương để động viên người lao động các doanh nghiệp, tổ chức còn áp
dụng các hình thức tiền thưởng để khuyến khích người lao động. Đây cũng là một trong
những biện pháp kích thích vật chất có hiệu quả đối v người lao động. Cùng với tiền
lương, tiền thưởng góp phần thoả mãn các nhu cầu vật chất cho người lao động và ở

một chừng mực nào đó tiền thưởng cịn có tác dụng kích thích người lao động về mặt
tinh thần, vì họ cảm thấy công việc của họ được người khác công nhận và đánh giá.
Điều này càng thúc đẩy người lao động tích cực hơn nữa trong cơng việc mà khơng phải
chỉ vì tiền mà là địa vị niềm đam mê trong công việc hay sự thoả mãn về công việc
mình làm. Đồng thời tiền thưởng là cơng cụ giúp doanh nghiệp, tổ chức quản lý tiền
lương được tốt hơn mà vẫn kích thích người lao động.

15


Để tiền thưởng đóng vai trị kích thích người lao động thì ngun tắc kích thích
của tiền thưởng phải đảm bảo những nguyên tắc sau:
+ Tiền thưởng chỉ có hiệu quả nếu nằm trong giới hạn 15 - 30% trong tổng thu
nhập của người lao động.
+ Mức tiền thưởng phải đảm bảo một mức có ý nghĩa nhất định nào đó trong
cuộc sống của người lao động, nghĩa là người lao động nhận được tiền thưởng thì họ
nghĩ là sẽ được thoả mãn yếu tố này hay yêú tố khác trong cuộc sống hàng ngày mà học
mong mỏi.
+ Tiền thưởng phải tác động vào đúng thành tích của người lao động và làm cho
người lao động hiểu rằng: làm tốt sẽ có nguồn kích thích và người ta hy vọng vào cái
đó.
+ Thời gian thưởng khơng nên q dài và cũng không nên quá ngắn sẽ gây cho
người lao động cảm giác nhàm chán và vai trị kích thích tiền thưởng sẽ mất đi.
III. CÁC HÌNH THỨC TIỀN LƯƠNG - TIỀN THƯỞNG

1. Các hình thức tiền lương
1.1. Các hình thức tiền lương theo thời gian
Hình thức trả lương theo thời gian là hình thức trả lương cho người lao động căn
cứ vào trình độ chun mơn, kỹ thuật và thời gian làm việc thực tế của người lao động
(theo năm, tháng, ngày, giờ).

Hình thức tiền lương trả theo thời gian có hai chế độ là:
1.1.1. Chế độ trả lương theo thời gian giản đơn: Là chế độ trả lương mà tiền
lương nhận được của mỗi người lao động do mức lương cấp bậc cao hay thấp và thời
gian làm việc thực tế nhiều hay ít quyết định.
1.1.2. Chế độ trả lương theo thời gian có thưởng: Là sự kết hợp giữa chế độ trả
lương theo thời gian giản đơn với tiền thưởng, khi người lao động đạt được những chỉ
tiêu về số lượng hay chất lượng quy định. Tiền lương của người lao động nhận được
tính bằng mức lương thời gian giản đơn cộng với tiền thưởng.
1.2. Hình thức tiền lương theo sản phẩm
Là hình thức trả lương cho người lao động căn cứ trực tiếp vào số lượng và chất
lượng sản phẩm hay dịch vụ mà họ đã hoàn thành.
Hình thức trả lương theo sản phẩm có các chế độ trả lương như sau:

16


1.2.1. Chế độ trả lương sản phẩm trực tiếp cá nhân: là chế độ trả lương cho người
lao động trực tiếp làm ra sản phẩm theo sự tỷ lệ thuận với số lượng sản phẩm hoàn
thành theo đúng chất lượng yêu cầu.
1.2.2. Chế độ trả lương theo sản phẩm tập thể: là chế độ trả lương được áp dụng
để trả lương cho một nhóm người lao động khi họ hồn thành một khối lượng sản phẩm
nhất định theo đúng chất lượng yêu cầu. Chế độ trả lương này áp dụng cho những cơng
việc địi hỏi nhiều người cùng tham gia thực hiện mà cơng việc của mỗi cá nhân có liên
quan đến nhau.
1.2.3. Chế độ trả lương theo sản phẩm gián tiếp: là chế độ trả lương được áp
dụng để trả lương cho những người lao động làm những công việc phục vụ hay phù trợ
cho hoạt động của công nhân chính.
1.2.4. Chế độ trả lương khốn sản phẩm: là chế độ lương sản phẩm mà khi giao
công việc đã định rõ số tiền để hoàn thành một khối lượng công việc trong một thời gian
nhất định.

1.2.5. Chế độ trả lương sản phẩm có thưởng: là sự kết hợp trả lương theo sản phẩm
(đã nghiên cứu ở trên) và kết hợp với tiền thưởng khi người lao động đạt được những chỉ tiêu
về số lượng, chất lượng hay thời gian thưởng theo qui định.
1.2.6. Chế độ trả lương theo sản phẩm luỹ tiến: là chế độ trả lương theo hai đơn
giá khác nhau, đơn giá bình thường cho số lượng sản phẩm trong định mức và đơn giá
cao hơn (luỹ tiến) cho những số lượng sản phẩm vượt mức để kích thích sản xuất càng
nhiều sản phẩm càng tốt.
2. Các hình thức tiền thưởng
Tiền thưởng là loại kích tích vật chất có các tác dụng rất tích cực đối với người
lao động trong việc phấn đấu thực hiện công việc tốt hơn. Tiền thưởng có nhiều loại, tuỳ
vào điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp, tổ chức có thể áp dụng một hay một số
hình thức tiền thưởng. Trong thực tế có một số hình thức tiền thưởng: Thưởng hoàn
thành vượt mức kế hoạch, thưởng phát huy sáng kiến; thưởng nâng cao năng suất chất
lượng sản phẩm; thưởng tiết kiệm vật tư...
IV. VAI TRỊ KÍCH THÍCH LAO ĐỘNG CỦA CÁC HÌNH THỨC TIỀN LƯƠNG
TIỀN THƯỞNG

1. Vai trị kích thích lao động của các hình thức tiền lương
Như chúng ta đã nghiên cứu ở phần lý luận về tiền lương ở trên ta biết rằng tiền
lương là một trong những hình thức kích thích lợi ích vật chất với người lao động. Vì

17


vậy để sử dụng đòn bẩy kinh tế của tiền lương nhằm đảm bảo sản xuất phát triển, duy trì
một đội ngũ có trình độ kỹ thuật nghiệp vụ cao, với ý thức kỷ luật vững, địi hỏi cơng
tác tổ chức tiền lương trong doanh nghiệp, tổ chức phải đặc biệt coi trọng. Tổ chức tiền
lương trong doanh nghiệp được cơng bằng và hợp lý sẽ tạo ra hồ khí cởi mở giữa
những người lao động, hình thành khối đại đồn kết thống nhất, trên dưới một lịng, một
chính sách nhất trí vì sự phát triển của doanh nghiệp, tổ chức và vì lợi ích của bản thân

người lao động.
Chính vì vậy mà người lao động có thể làm việc tích cực bằng cả sự nhiệt tình
hăng say và họ có quyền tự hào về mức lương họ đạt được, ngược lại khi công tác tổ
chức tiền lương trong doanh nghiệp tổ chức thiếu tính cơng bằng, hợp lý thì khơng
những sẽ đẻ ra mâu thuẫn nội bộ thậm chí khá gay gắt giữa những người lao động với
nhau và giữa những người lao động với người sử dụng lao động mà có lúc, có nơi cịn
có thể gây nên sự phá hoại ngầm dẫn đến sự lãng phí to lớn trong sản xuất.
Do đó cơng tác tiền lương trong doanh nghiệp, tổ chức đóng vai trị hết sức quan
trọng, trong đó việc xây dựng, tổ chức và thực hiện các hình thức tiền lương làsự thể
hiện cụ thể, trực tiếp của công tác tổ chức tiền lương trong doanh nghiệp . Tổ chức, thực
hiện tốt các hình thức tiền lương này là việc thực hiện trực tiếp vai trò kích thích lao
động của tiền lương.
Hiện nay có 2 hình thức tiền lương chủ yếu áp dụng trong các doanh nghiệp, tổ
chức là: Hình thức tiền lương theo sản phẩm và hình thức tiền lương theo thời gian. Sau
đây ta sẽ nghiên cứu cụ thể vai trị kích thích lao động của các hình thức tiền lương này:
1.1. Vai trị kích thích lao động của hình thức tiền lương theo sản phẩm
* Áp dụng hình thức tiền lương theo sản phẩm là một hình thức kích thích vật
chất có từ lâu đời và được sử dụng rộng rãi và phổ biến hiện nay và có hiệu quả cao. Trả
lương theo sản phẩm là hình thức tiền lương căn cứ vào số lượng và chất lượng sản
phẩm sản xuất ra của mỗi người và đơn giá sản phẩm để trả lương cho cán bộ công nhân
viên làm và sản xuất ở đó.
Hình thức tiền lương trả theo sản phẩm là hình thức căn bản để thực hiện quy
luật phân phối theo lao động. Để quán triệt để được hơn nữa nguyên nhân, nguyên tắc
phân phối theo số lượng và chất lượnglao động, nghĩa là căn cứ trực tiếp vào kết quả lao
động của mỗi người sản xuất. Ai làm nhiều, chất lượng sản phẩm tốt, được hưởng nhiều
lương, ai làm ít chất lượng sản phẩm xấu thì hưởng ít lương. Những người làm việc

18



như nhau thì được hưởng lương như nhau. Mặt khác chế độ trả lương theo sản phẩm
còn phải căn cứ vào số lượng và chất lượng lao độngkết tinh trong từng sản phẩm của
mỗi công nhân làm ra để trả lương cho họ, làm cho quan hệ giữa tiền lương và năng suất
lao động, giữa lao động và hưởng thụ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Thực hiện các hình thức tiền lương theo sản phẩm sẽ có tác dụng kích thích rất
lớn với người lao động, cụ thể:
Thứ nhất: Việc thực hiện các chính sách tiền lương theo sản phẩm sẽ làm cho
người lao động vì lợi ích vật chất mà quan tâm đến việc nâng cao năng suất lao động, hạ
giá sản phẩm, phải đảm đương hoàn thành toàn diện và vượt mức kế hoạch cho doanh
nghiệp hình thức đặt ra. Bởi vì hình thức tiền lương theo sản phẩm căn cứ trực tiếp vào
sản lượng và chất lượng sản phẩm trong mỗi người sản xuất ra để tính lương nên phải
có tác dụng khuyến khích người lao động tích cực sản xuất, tận dụng thời gian làm việc
để tăng năng suất lao động. Hơn nữa chỉ có sản phẩm tốt mới được tính để trả lương cao
nên người lao động cần phải cố gắng sản xuất bảo đảm chất lượng sản phẩm tốt. Do vậy
cùng với năng suất lao động tăng lên chất lượng sản phẩm bảo đảm thì giá thành sản
phẩm sẽ hạ xuống tạo cho sản phẩm trong doanh nghiệp có thể cạnh tranh được trên thị
trường, tạo điều kiện tăng doanh thu cho doanh nghiệp và đó là cơ sở để tăng lương cho
người lao động.
Thứ hai: Thực hiện hình thức tiền lương cho sản phẩm sẽ khuyến khích người
lao động phải quan tâm đến việc nâng cao trình độ văn hố, chun mơn nghiệp vụ,
khoa học kỹ thuật hợp lý hố sản xuất và lao động tích cực, sáng tạo và ln áp dụng
những phương pháp sản xuất tiên tiến. Bởi vì khi thực hiện trả lương theo sản phẩm,
người lao động phải phấn đầu để thường xuyên đạt được và vượt mức các định mức lao
động đề ra, do đó để thực hiện được, họ không thể đơn thuần dựa vào sự lao động hết
sức mình, tận dụng thời gian làm việc mà phải ln có gắng học tập để khơng ngừng
nâng cao trình độ, văn hố khoa học kỹ thuật thì mới có thể dễ dàng tiếp thu, nắm vứng
và áp dụng được những phương pháp trên vào sản xuất. Hơn nữa họ cịn phải liên kết
ln tìm tịi suy nghĩ để phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hố sản xuất. Chỉ có
như thế thì sản phẩm của họ làm ra sẽ tăng lên và sức lao động sẽ giảm xuống mà vẫn
đảm bảo chất lượng sản phẩm.

Thứ ba: Thực hiện hình thức tiền lương theo sản phẩm cịn góp phần đẩy mạnh,
hồn thiện việc cải tiến, tổ chức , quá trình sản xuất, thúc đẩy việc thực hiện tốt chế độ

19


hạch toán và quản lý kinh tế trong doanh nghiệp, tổ chức. Bởi vì, khi áp dụng các chế độ
tiền lương theo sản phẩm địi hỏi phải có sự tổ chức chuẩn bị sản xuất ở điều kiện nhất
định; phải củng cố kiện toàn tổ chức sản xuất, kỹ thuật sản xuất; tài chính, lao động... để
đảm bảo cho quá trình sản xuất được cân đối, hợp lý. Mặt khác trong quá trình thực hiện
thì do năng xuất lao động trong người lao động tăng lên thì nhiều vấn đề mới đặt ra cần
giải quyết như: Cung cấp nguyên vật liệu đúng quy cách chất lượng, sản lượng kịp thời
gian; Cơng tác nghiệm thu sản phẩm phải chính xác theo sản lượng - chất lượng sản
phẩm. Điều chỉnh lại lao động trong dây truyền sản xuất, thống kê thanh toán tiền lương
nhanh chóng, chính xác, đúng kỳ hạn.... Tất cả những vấn đề trên đều ảnh hưởng đến
trực tiếp đến mức tiền lương trong công nhân nên họ rất quan tâm phát hiện và yêu cầu
giải quyết. Do đó bất cứ có một hiện tượng nào vi phạm đến yêu cầu kỹ thuật và chế độ
phục vụ, cơng tác,... thì người lao động khơng những tự tìm cách khắc phục kịp thời
mới cần có ý thức tích cực để đề phịng những khiếm khuyết có thể xẩy ra. Đồng thời
nâng cao tinh thần đấu tranh chống lại những hiện tượng tiêu cực, làm việc thiếu trách
nhiệm trong cán bộ quản lý và giám sát công nhân sản xuất.
Thứ tư: Thực hiện hình thức tiền lương theo sản phẩm sẽ tạo điều kiện củng cố
và phát triển mạnh mẽ phong trào thi đua sản xuất giữa những người lao động, xây dựng
tác phong lao động tiên tiến, góp phần bồi dưỡng, nâng cao ý thức, tinh thần trách
nhiệm tình thần hợp tác và phối hợp có hiệu quả giữa những người lao động, từ đó xây
dựng được bầu khơng khí giúp đỡ, tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau giữa những
người lao động trong tập thể vì lợi ích chung giữa doanh nghiệp, tổ chức và lợi ích riêng
trong từng người lao động. Do đó việc áp dụng tiền lương theo sản phẩm là phương tiện
tốt nhất để thực hiện yêu cầu đó, tuy nhiên bên cạnh việc áp dụng đúng đắn chế độ tiền
lương tính theo sản phẩm, đồng thời phải kết hợp vấn đề động viên tinh thần thi đua

liên tục và mạnh mẽ. Sẽ kết hợp được hai mặt khuyến khích bằng lợi ích vật chất và
động viên về tinh thần để thúc đẩy và phát triển sản xuất.
Điều kiện và các chế độ trả lương theo sản phẩm.
+ Để hình thức trả lương theo sản phẩm thực sự phát huy tác dụng, vai trị kích
thích lao động của nó, khi áp dụng hình thức tiền lương này các doanh nghiệp tổ chức
cần phải đảm bảo các điều kiện sau và việc thực hiện đầy đủ và làm tốt các điều kiện
naỳ cũng chính là sự thể hiện vai trị khuyến khích lao động trong hình thức tiền lương
này đồng thời cũng là tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả áp dụng hình thức tiền lương này.

20


- Công tác chuẩn bị sản xuất: bao gồm
+ Chuẩn bị về nhân lực: khi tổ chức trả lương theo sản phẩm, thì việc chuẩn bị về
nhân lực là vấn đề cần thiết và quan trọng bởi vì trong quá trình sản xuất thì con người
là yếu tố qua trọng nhất, con người có quán triệt được ý nghĩa, tác dụng trong chế độ trả
lương theo sản phẩm thì họ mới đề cao tinh thần trách nhiệm, tích cực và quyết tâm lao
động tạo điều kiện cần thiết cho việc thực hiện chế độ lương sản phẩm.
Do đó phải giải thích, giáo dục, thuyết phục cho người lao động hiểu rõ mục đích
ý nghĩa trong chế độ tiền lương theo sản phẩm và chỉ rõ cho họ thấy được mục tiêu phấn
đấu trong họ về sản lượng và năng xuất lao động, chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất
gắn với lợi ích trong doanh nghiệp và người lao động. Bên cạnh đó con người phải kết
hợp với bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ, lao động tiền lương, cán bộ kỹ
thuật, kiểm tra, chất lượng sản xuất... nhằm thực thiện tốt công tác quản lý việc áp dụng
hình thức tiền lương này có hiệu quả.
+ Chuẩn bị về kế hoạch sản xuất: Kế hoạch sản xuất cho những người lao động
làm theo lương sản phẩm phải được xác định rõ ràng, cụ thể, phải dự báo, tổ chức cung
cấp đầu đủ thường xuyên nguyên vật liệu, máy móc trang bị và phương tiện phịng hộ
để người lao động có thể sản xuất được liên tục, giảm bớt những thời gian tổn thất do
phòng vụ tổ chức và phòng kỹ thuật.

+ Xác định đơn giá lương sản phẩm: Là trong nhứng yếu tố quan trọng trong việc
áp dụng hình thức tiền lương theo sản phẩm.
Đơn giá tiền lương là mức tiền lương dùng để trả cho người lao động khi họ
hoàn thành một đơn vị sản phẩm hay cơng việc nào đó.
Đơn giá tiền lương là khái niệm thường được sử dụng trong phương thức khoán
sản phẩm, trả lương theo sản phẩm. Nó thường gắn với kết quả sản xuất - kinh doanh là
đơn vị hiện vật, đo lường giá đơn vị lao động đã hao phí, để sản xuất một đơn vị sản
phẩm đó. Đơn giá tiền lương do đó được hiểu là phản ánh lợi ích của người thực hiện
cơng việc, vì trong chế độ tiền lương theo sản phẩm tiền lương trong người lao động
phụ thuộc và đơn giá tiền lương và khối lượng công việc hoàn thành.
Như vậy, điều kiện thứ hai để thực hiện tiền lương theo sản phẩm là cần xác định
được đơn giá lương sản phẩm cho chính xác trên cơ sở xác định cấp bậc công việc và
định mức lao động chính xác.
Ta có cơng thức tính đơn giá lượng sảm phẩm:

21


ĐGSP =

Lcv
hay ĐGSP = LCV x MTG
Msl

Trong đó:

LCV: là mức lương cấp bậc công việc.
MSL: là mức sản lượng
MTG: là mức thời gian


+ Xác định cấp bậc công việc: Như vậy từ cơng thức tính đơn giá trên cho thấy
muốn có đơn giá hợp lý, chính xác phải xác định đúng đắn cấp bậc công việc. Nếu cấp
bậc công việc được đánh giá cao hơn yêu cầu kỹ thuật thì đơn giá sẽ cao hơn và ngược
lại, do đó nếu doanh nghiệp chưa có cấp bậc cơng việc thì phải xây dựng lại cấp bậc,
cơng việc nếu đã có rồi thì phải rà sốt lại để kịp thời sửa đổi những cấp bậc chức vụ đã
lạc hậu.
+ Định mức lao động: Là một cơng tác, đó là q trình dự tính và tổ chức thực
hiện những biện pháp về tổ chức, kỹ thuật để thực hiện các cơng việc có năng suất lao
động cao, trên cơ sở đó và xác định các định mức tiêu hao để thực hiện công việc đó.
Mức lao động là lượng lao động hao phí được quy định để hình thành một đơn vị
sản phẩm hay một khối lượng công việc theo đúng tiêu chuẩn chất lượng quy định và
trong những điều kiện tổ chức kỹ thuật nhất định.
Mức lao động có bốn dạng chủ yếu sau: Mức thời gian, mức sản lượng, mức
phục vụ, mức biên chế (mức định biên).
+ Mức thời gian: là đại lượng thời gian cần thiết được quy định để thực hành môt
công việc cho một công nhân hay một nhóm cơng nhân trong một nghề nào đó có trình
độ thành thạo tương ứng với mức độ phức tạp trong công việc, phải thực hiện trong
những điều kiện thách thức kỹ thuật nhất định.
+ Mức sản lượng: là số lượng sản phẩm quy định mà một cơng nhân hay một
nhóm cơng nhân phải hình thành trong một đơn vị thời gian nhất định phù hợp với trình
độ thành thạo trong họ lương ứng với mức độ phức tạp trong công việc và trong những
điều kiện thách thức, kỹ thuật nhất định.
Mức lao động là yêu cầu bắt buộc đối với các hình thức trả lương theo sản phẩm,
lương khốn trong các xí nghiệp, vì nó xác định số lượng và chất lượng của lao động đã
hao phí, phân biệt được kết quả lao động của các thành viên trong doanh nghiệp. Do đó
định mức lao động là thước đo tiêu chuẩn về tiêu hao lao động, đánh giá kết quả lao
động và từ đó làm cơ sở tính đơn giá tiền lương cho người lao động cho nên nếu các cơ

22



sở dó khơng chính xác sẽ tính đơn giá sai và tiền lương công nhân sẽ tăng hoặc giảm
không hợp lý vì vậy sẽ khơng khuyến khích người lao động tăng năng suất lao động.
Định mức lao động để trả lương sản phẩm là mức lao động trung bình tiên tiến do đó phải xây dựng định mức lao động từ tình hình kinh tế sản xuất trong doanh
nghiệp đã được chấn chỉnh, đồng thời các mức lao động đang áp dụng cũng phải thường
xuyên được kiểm tra lại để kịp thời sửa đổi những mức bất hợp lý không sát với kinh tế
sản xuất.
- Công tác kiểm tra nghiệm thu sản phẩm:
Yêu cầu của hình thức tiền lương sản phẩm là đảm bảo thu nhập từ tiền lương
theo đúng số lượng và chất lượng sản phẩm đã hoàn thành của bộ phận kiểm tra chất
lượng, do đó cần phải kiểm tra chất lượng theo số lượng sản phẩm để tăng thu nhập, làm
ra những sản phẩm sai, hỏng không đúng quy cách và yêu cầu kỹ thuật đồng thời thực
hiện tốt điều kiện này sẽ đảm bảo việc trả lương cho người lao động được chính xác,
đúng đắn, kịp thời.
- Công tác tổ chức đời sống:
Cần phải tổ chức tốt công tác đời sống cho người lao động yên tâm, phấn khởi
lao động sản xuất và phục vụ sản xuất. Vấn đề liên quan đến đời sống trong người công
nhân trước hết là vấn đề thu nhập từ tiền lương - tiền thưởng, kế đến là vấn đề an toàn
lao động, các vấn đề sinh hoạt đời sống trong người cơng nhân như ăn, ở, đi lại... đều
phải có kế hoạch để giải quyết tốt những vấn đề này sẽ tạo điều kiện cho người lao động
yên tâm sản xuất đạt năng suất cao nhất, chất lượng tốt.
Đây chính là tính ưu việt trong hình thức tiền lương theo sản phẩm làm cho
người lao động tin tưởng sâu sắc vào đời sống hạnh phúc họ có được quan tâm mật thiết
với sự lao động trung thành trong họ với doanh nghiệp
* Cắn cứ vào đơn giá sản phẩm và đối tượng trả lương, hình thức tiền lương theo
sản phẩm có nhiều chế độ trả lương khác nhau. Sau đây ta sẽ nghiên cứu cụ thể vai trị
kích thích lao động của các chế độ tiền lương đó:
-Chế độ trả lương sản phẩm trực tiếp cá nhân: Chế độ tiền lương này được trả
theo từng đơn vị sản phẩm hoặc chi tiết sản phẩm và tính theo đơn giá nhất định. Tiền
lương trong người lao động căn cứ vào sản lượng sản phẩm hoặc chi tiết sản phẩm do

họ trực tiếp sản xuất ra để trả lương. Bất kỳ trường hợp nào người lao động sản xuất hụt
mức, đạt mức hay vượt mức bao nhiêu, cứ mỗi đơn vị sản phẩm làm ra đảm bảo chất

23


lượng đều được trả lương nhất định gọi là đơn gián sản phẩm. Như vậy tiền lương trong
người lao động sẽ tăng lên theo số lượng sản phẩm sản xuất ra nếu sản xuất được nhiều
sản phẩm thì được trả nhiều lương và ngược lại sản xuất được ít sản phẩm thì được trả ít
lương, do đó sẽ kích thích người lao động có ý thức tự giác, năng động, tích cực trong
cơng việc để tăng năng xuất lao động.
Đơn giá sản phẩm cá nhân là cơ sở của chế độ tiền lương tính theo sản phẩm trực
tiếp cá nhân. Khi xác định đơn giá sản phẩm người ta căn cứ vào những nhân tố: Định
mức lao động và mức lương cấp bậc cơng việc. Do đó cơng thức tính đơn giá sản phẩm
xác định như sau:
+ Nếu công việc có định mức sản lượng:
Trong đó :

ĐGSP =

LCV: Lương cấp bậc công việc
PC: Là các khoản phụ cấp lương
MSL: Là mức sản lượng

+ Nếu công việc được định mức thời gian:

ĐGSP = LCV x MTG

Trong đó: LCV : Là mức lương cấp bậc công việc
MTG: Là mức thời gian qui định hồn thành một đơn vị sản phẩm

Khi tính đơn giá sản phẩm thì ta phải lấy mức lương cấp bậc cơng việc để tính
chứ khơng lấy mức lương cấp bậc cơng nhân được giao làm cơng việc đó, vì có những
trường hợp lương cấp bậc cơng nhân cao hoặc thấp hơn cấp bậc công việc được giao
làm cho đơn giá sản phẩm thay đổi, sẽ phá vỡ tính thống nhất của chế độ tiền lương
theo sản phẩm và tính hợp lý của quy luật phân phối theo lao động, mặt khác cấp bậc
công nhân chỉ là cơ sở đánh giá khả năng, năng lực trong người lao động, còn công việc
trực tiếp người lao động làm mới quyết định kết quả kinh tế làm ra.
Ngoài ra bên cạnh tiền lương cơ bản (L cv ) , trong đơn giá tiền lương cần được
tính các khoản phụ cấp có tính chất thường xuyên theo chế độ.
Khi đó mức tiền lương của công nhân làm việc theo chế độ lương sản phẩm trực
tiếp cá nhân được xác định trong kỳ là: LTT = ĐGSP x SLTT
Trong đó:

LTT: Là mức lương thực tế người lao động nhận được trong kỳ
SLTT : Mức sản lượng thực tế sản xuất trong kỳ

Như vậy mức lương thực tế của người công nhân làm việc theo chế độ tiền lương
sản phẩm trực tiếp cá nhân phụ thuộc vào đơn giá sản phẩm và mức sản lượng thực tế
họ làm ra, sẽ kích thích người lao động rất lớn trong việc nâng cao năng suất lao động,

24


mặt khác đơn giá tiền lương lại tính theo lương cấp bậc cơng việc do đó đơn giá càng
cao thì mức lương cấp bậc cơng việc càng cao do đó khuyến khích người lao động ln
có gắng học tập để khơng ngừng nâng cao trình độ lành nghề, phát huy sáng kiến cải
tiến kỹ thuật... để có đủ khả năng làm được những cơng việc cao hơn, khó khắn phức
tạp hơn.. Tuy nhiên chế độ tiền lương này cũng có những nhược điểm như: Dễ làm cho
người công nhân chỉ quan tâm đến số lượng mà ít chú ý đến chất lượng sản phẩm và do
đó nếu khơng có thái độ ý thức làm việc tốt sẽ ít quan tâm đến việc tiết kiệm vật tư,

nguyên vật liệu hay sử dụng máy móc thiết bị, mặt khác sự hợp tác và tính tập thể lao
động kém, như hiện tượng dấu nghề, không chú ý, chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau mà chỉ chú
ý đến cá nhân.
- Chế độ trả lương sản phẩm tập thể:
+ Tính đơn giá tiền lương sản phẩm tập thể được xác định:
n

ĐGSPTT =

∑L
i =1

CVI

n

hay ĐGSPTT =

M SL

∑L
i =1

CVI

x MTG

Trong đó: ĐGSPTT: Là đơn giá tiền lương sản phẩm tập thể.
Σ LCVI :Là tổng tiền lương tính theo cấp bậc công việc của cả tổ
n: Là số người làm theo lương sản phẩm trong tổ.

MSL: là mức sản lượng định mức của cả tổ trong kỳ.
MTG: Là mức thời gian định mức của cả tổ trong kỳ.
Như vậy: Mức tiền lương của tập thể nhận được là:
Tiền lương sản
phẩm tập thể

=

Đơn giá sản
phẩm tập thể

X

Mức sản lượng
thực tế

Trong đó: Tiền lương sản phẩm tập thể : là mức tiền lương thực tế trong tập thể
lao động nhận được trong kỳ.
Mức sản lượng thực tế : là mức sản lượng của tập thể sản xuất được trong kỳ.
Khi đó tiền lương của từng người cơng nhân trong tập thể nhận được phụ thuộc
vào đơn giá sản phẩm tập thể, số lượng sản phẩm tập thể chế tạo được và phụ thuộc vào
cách phân phối tiền lương cho mỗi thành viên. Do đó việc chia lương cho từng cá nhân
trong tổ rất quan trọng trong chế độ trả lương sản phẩm tập thể. Có hai phương pháp
chia lương thường được áp dụng đó là:

25


×