1. A.S.PUSHKIN THƠ VỀ TỰ DO VÀ TIỂU THUYẾT EVGHENY ONEGIN
a. Các vấn đề về tư tưởng tự do
1.1. Tư tưởng tự do
Trong nhiều ngôn ngữ phương Tây, từ tự do xuất phát từ liber của tiếng Latinh, có
nghĩa tự do, không phải nô lệ. Từ này đi liền với từ liberty trong tiếng Anh và khái
niệm tự do. Âm ỉ suốt trong đêm trường Trung Cổ, cuộc đấu tranh vì tự do bắt đầu từ
phong trào Phục hưng Ý, trong cuộc đấu tranh giữa một bên là những người ủng hộ
các thành bang độc lập và một bên là những người ủng hộ Giáo hoàng hay Hoàng đế
La Mã Thần thánh.
Theo Bách khoa toàn thư mở “Thuyết tư tưởng tự do khẳng định rằng các cá nhân
không nên chấp nhận hay phủ nhận các quan niệm được đưa ra như là các chân lý mà
không dùng đến tri thức và lý tính. Do đó, những người có tư tưởng tự do cố gắng xây
dựng các niềm tin của mình dựa trên cơ sở của các dữ kiện, truy vấn khoa học, và các
nguyên lý lôgic, tránh phụ thuộc vào bất cứ ngụy biện dữ kiện/lôgic, tránh chịu ảnh
hưởng của quyền lực, sự thiên vị trong nhận thức (cognitive bias), kiến thức truyền
thống, văn hóa đại chúng, định kiến, chủ nghĩa bè phái, truyền thống, lời đồn đại, và
các nguyên tắc giáo điều hay sai lầm khác. Theo đó, khi áp dụng cho tôn giáo, triết lý
tư tưởng tự do cho rằng: với các dữ kiện hiện có, các lý thuyết khoa học đã được chấp
nhận rộng rãi, và các nguyên tắc lôgic, không đủ bằng chứng cho sự tồn tại của các
hiện tượng siêu nhiên.”
Tư tưởng tự do nhấn mạnh đến quyền cá nhân. Nó đi tìm kiếm một xã hội có đặc
điểm là tự do tư tưởng cho mỗi cá nhân, hạn chế quyền lực (nhất là của nhà nước và
tôn giáo), pháp trị, tự do trao đổi tư tưởng, một nền kinh tế thị trường hỗ trợ doanh
nghiệp tư nhân tự do, và một hệ thống chính phủ minh bạch trong đó các quyền của
công dân được bảo vệ. Chủ nghĩa tự do phủ nhận nhiều giả thuyết nền tảng đã thống
trị các lý thuyết đầu tiên về nhà nước, chẳng hạn như thần quyền của vua chúa, vị trí
có được do thừa kế và quốc giáo. Những quyền căn bản của con người mà tất cả
những người theo chủ nghĩa tự do đều ủng hộ là quyền được sống, quyền tự do và
quyền sở hữu tài sản.
1.2 Tư tưởng tự do trong nghệ thuật và văn học
1.2.1 Tư tưởng tự do trong nghệ thuật:
Không phải chính trị hay khoa học, chính nghệ thuật lại là phạm trù quan tâm đến tự
do nhất. Tự do và nghệ thuật như một quả cam mọng nước, bao bọc lấy nhau và sở
hữu lẫn nhau, như lời tuyên bố của Albert Camus “Không có tự do, không có nghệ
thuật; nghệ thuật chỉ sống dựa vào sự gò bó nó tự tạo nên cho mình, và sẽ chết dưới
mọi dạng khác.” Với một mong muốn về cuộc sống bình đẳng, con người được hưởng
sự sống tuyệt vời với tất cả quyền lợi của mình, các nhà làm nghệ thuật đã nhắc đến
vấn đề tự do trong rất nhiều tác phẩm của mình. Đó là tư tưởng thấm vào Picasso
khiến ông sáng tạo nên những bức tranh khỏa thân nổi tiếng như bức Những người
phụ nữ Algiers, Lá xanh, khỏa thân và bầu ngực. Hoặc như trong lịch sử các tác phẩm
hội họa kinh điển của nền mỹ thuật Pháp, bức “La Liberté guidant le peuple” (Nữ thần
Tự do dẫn dắt người dân) của danh họa Pháp Eugène Delacroix luôn được xem là tác
phẩm đắt giá, ghi lại được tinh thần của Cách mạng Pháp. Bức “Nữ thần Tự do dẫn
dắt người dân” khắc họa lại sự kiện Cách mạng Tháng 7 (1830) của nước Pháp,
nhưng khi bình luận về bức tranh này, người ta thường nhìn nhận sự kiện như một cái
cớ để danh họa Delacroix sáng tác, còn bản thân bức tranh đã vượt ra khỏi ý nghĩa
của một sự kiện cụ thể, để vươn lên tầm vóc của một bức tranh khái quát nên những
biểu tượng lớn lao của nước Pháp. Hay như người đàn ông "đã tạo ra những sự diễn
đạt thi vị theo cách mới trong truyền thống ca khúc tuyệt vời của Mỹ"_Bob Dylan đã
đưa những vấn đề về tự do xuất hiện liên tục trong các tác phẩm âm nhạc của
mình_“How many years must a mountain exist before it is washed to the sea? How
many years can some people exist before they're allowed to be free?” (Tạm dịch: Bao
nhiêu năm núi vẫn ung dung,cho đến một ngày núi sẽ nằm dưới biển? Bao nhiêu lâu
ta sẽ sống, nhưng đến một ngày mới thật sự tự do?)
1.2.2. Tư tưởng tự do trong văn học:
Hoàng đế Marcus Aurelius - được mệnh danh là một vị vua - triết gia lý tưởng trong
tác phẩm "Suy ngẫm", đã viết về: “...ý niệm về một thực thể chính trị được quản lý
theo cách sao cho có quyền bình đẳng và có tự do bình đẳng trong ngôn luận, và ý
niệm về một nhà nước quân chủ tôn trọng tự do của những người bị trị...” - Marcus
Aurelius Antoninus Augustus, một trong những tác phẩm đầu tiên nói đến tự do. Hay
Những đứa con của tự do (Marc Levy) đi đến những khẳng định về những con người
khao khát tự do, trải qua bao nhiêu khó khăn của cuộc chiến với Đức quốc xã, đối
diện với cái chết, với thiếu thốn,... nhưng họ vẫn hướng về tương lai: một mùa xuân
của tự do. Nhà thơ Nga nổi tiếng Mikhail Yuryevich Lermontov thường xuyên viết về
tự do đã từng lên tiếng:
“Я ищу свободы и покоя!
Я б хотел забыться и заснуть!”
(Tạm dịch: Tôi đi tìm tự do và tĩnh lặng
Tôi chỉ mong giá được ngủ và quên!)
Rồi tiếng lòng tha thiết và dữ dội của Paul Éluard:
“Trên quyển vở nhà trường
Trên án viết thân cây
Trên cát trên tuyết
Ta viết tên em
Trên những trang đã đọc
Trên những trang trắng tinh
Đá, máu, giấy hay tro
Ta viết tên em
Trên tranh ảnh tô vàng
Trên vũ khí chiến binh
Trên mũ miện vua chúa
Ta viết tên em
Trên rừng hoang sa mạc
Trên tổ chim hoa đồng
Trên tiếng vang tuổi trẻ
Ta viết tên em
Trên huyền diệu những đêm
Trên bánh trắng ban ngày
Trên những mùa cưới hỏi
Ta viết tên em
Trên các mảnh trời xanh
Trên ao mặt trời mốc
Trên hồ trăng lung linh
Ta viết tên em
Trên đồng ruộng chân trời
Trên những cánh chim bay
Trên máy xay bóng tối
Ta viết tên em
Trên mỗi thoáng bình minh
Trên mặt biển thân tàu
Trên ngọn núi điên cuồng
Ta viết tên em
Trên bọt nổi mây lồng
Trên mồ hôi cơn giông
Trên mưa dày và nhạt
Ta viết tên em
Trên hình dáng long lanh
Trên chuông ngân màu sắc
Trên chân lý hữu hình
Ta viết tên em
Trên những nẻo rộn ràng
Trên đường sá thênh thang
Trên quảng trường toả rộng
Ta viết tên em
Trên ngọn đèn mới khêu
Trên ngọn đèn đang tắt
Trên mái nhà sum họp
Ta viết tên em
Trên trái bổ đôi
Gương soi và phòng ngủ
Trên giường bỏ trống không
Ta viết tên em
Trên con chó của ta háu ăn và trìu mến
Trên tai nó vểnh lên
Trên chân nó vụng về
Ta viết tên em
Trên bục cửa nhà ta
Trên các đồ quen thuộc
Trên sóng ngọn lửa thiêng
Ta viết tên em
Trên da thịt hiến dâng
Trên trán yêu bè bạn
Trên bàn tay đưa nắm
Ta viết tên em
Trên cửa kính ngạc nhiên
Trên làn môi chú ý
Vượt xa trên im lặng
Ta viết tên em
Trên chỗ ẩn bị tan
Trên hải đăng sụp đổ
Trên tường niềm ngao ngán
Ta viết tên em
Trên xa vắng không ước thèm
Trên quạnh hiu trần trụi
Trên bậc thềm cái chết
Ta viết tên em
Trên sức khỏe phục hồi
Trên hiểm nguy tan biến
Trên hy vọng chẳng nhớ nhung
Ta viết tên em
Và do phép màu một tiếng
Ta làm lại cuộc đời
Ta sinh ra để biết em
Để gọi tên em
TỰ DO” (Tế Hanh dịch)
Để tìm thấy những tư tưởng về tự do trong văn học không hề khó khăn, dù là trong
nước hay thế giới. Bởi tư tưởng tự do là điều ám ảnh và ăn sâu vào tiềm thức mỗi
người, và khi đến với nhà văn điều đó lại có cơ hội bộc lộ và thể hiện mạnh mẽ hơn
bao giờ hết.
2. Tự do trong thơ Puskin
2.1.Tự do ở hình thức
Có một nhà thơ được Gorki mệnh danh là “khởi đầu của mọi khởi đầu” trong văn học
Nga, được Belinski gọi là “nhà cải cách vĩ đại của văn học Nga”, Gogol xem là “con
người của tinh thần Nga”, và đặc biệt Dostoievski khẳng định là “người duy nhất nói
tiếng mới”- tiếng nói “toàn nhân loại”. Đó chính là lời ca ngợi dành cho “mặt trời thi
ca Nga”. Nhưng để chính những người Nga, những nhà văn nổi tiếng của xứ sở bạch
dương khẳng định điều này thì thơ ca của Puskin đã đạt được những thành tựu vô
cùng rực rỡ, đó chính là thành công ở phương diện nghệ thuật. Bởi lẽ đây là người đã
tạo ra một sự tự do vô tận trong hình thức thi ca Nga.
Ông đã phá vỡ nguyên tắc của chủ nghĩa cổ điển khi ông mới 18 tuổi, để rồi ông
khai khá chủ nghĩa hiện thực vào năm 26 tuổi và chính thức đặt nền móng cho chủ
nghĩa hiện thực vào năm 1925. Không chỉ vậy, Puskin còn đem đến những sáng tạo
mới trong ngôn ngữ Nga ở văn học hiện đại, một thứ ngôn ngữ đậm đà bản sắc và
thoát khỏi sự vay mượn, khoa trương trống rỗng. Chính nhờ Puskin mà văn học Nga
có sự hòa quyện giữa dòng văn chương bác học và văn học dân gian.
2.2. Tự do trong nội dung:
John Adam từng nói rằng: “Hãy để trí óc con người tự do. Nó phải được tự do. Nó sẽ
được tự do. Sự mê tín và giáo điều không thể giam cầm được nó.” Tư tưởng này có lẽ
được thể hiện sâu sắc nhất trong thơ ca của Puskin.
Thơ ca của Puskin vô cùng đa dạng về nội dung, nhưng một phạm trù không thể thiếu
đó chính là cổ vũ cho sự tự do, đấu tranh cho quyền con người. Chủ đề tự do trong
thơ Puskin được thể hiện rất đa dạng và đầy hình ảnh. Trong tác phẩm Người tù
(1822), nhà thơ từng khuyến khích con người hãy:
“Bay bay đi, ta loài chim tự do
Bay về nguồn nước vô cùng trong sáng”.
Có lẽ chủ đề tự do được tập trung mãnh liệt nhất ở bài Tự do, ngay từ nhan đề tác giả
đã chủ đích hướng người đọc đi theo mạch nguồn của sự giải phóng khỏi những ràng
buộc. Những lời thơ đanh thép mà tha thiết rền rĩ:
“Hỡi nàng thơ kiêu hãnh của tự do?
Hãy tới gỡ hoa vinh dự khỏi đầu ta!
Tới đập tan cây đàn thơ ẻo lả!
Ta muốn ngợi ca tự do cho trần thế,
Ta muốn đập vào những tật xấu gian tham
Đang nghiễm nhiên ngự trị trên ngai vàng...”
Đó không chỉ là tự do đơn thuần, mà đó là sự thoát ly khỏi những cái xấu xa và đáng
sợ đang thắt chặt cuộc sống đau khổ của con người. Puskin ý thức được nguồn gốc
của sự mất tự do, hơn ai hết ổng hiểu cách để tìm thấy tự do. Mà muốn có tự do thì
không còn cách nào khác là đấu tranh:
“Ôi! Nhìn bất cứ về đâu ta cũng thấy;
Những gông cùm, xiềng xích với roi da
Và lệ sầu thê thảm cuộc đời tù
Và tình cảnh tan hoang vòng pháp luật…”
Tự do chính là bản tuyên ngôn của các nhà cách mạng: lật đổ chế độ Nga hoàng. Bài
thơ mang một sức mạnh cổ vũ lớn lao trong cuộc đấu tranh giải phóng con người
bằng một niềm tin mãnh liệt. Kết thúc bài thơ ông viết:
“Tự do nhân dân và cuộc sống thanh bình
Sẽ là kẻ đứng canh muôn đời bên ngôi báu”
Thiên nhiên chính là nơi nhà thơ gởi gắm tâm hồn tự do của mình, bởi lẽ những gì
thuộc về tự nhiên vốn dĩ là đỉnh cao nhất của tinh thần tự do. Trong Gửi biển, tác giả
gào thét:
“Người qua đời niềm tự do gào khóc
Để lại cho thế giới cả vòng hoa
Hãy gầm lên, biển cả, hãy gầm sóng
Chính vì ngươi, Người đã cất lời ca”
Rồi đến với Hỡi sóng cả (1823) - viết theo bút pháp lãng mạn, lại miêu tả xã hội như
một ao tù chật hẹp:
“Gió, gió đâu cuốn ao tù thành thác
Phá tan tành đập chắn âm u
Giông tố đâu hình ảnh của tự do
Hãy phủ lên mặt nước tù u uất”.
Puskin đã liên tục đấu tranh bền bỉ và không biết mệt mỏi cho tự do, nhà thơ dám lên
tiếng chỉ đích danh những kẻ cướp đi sự sống con người, căm thù xã hội Nga hoàng
đáng sợ lúc bấy giờ. Không lâu trước khi đón nhận cái chết bi thương, Puskin đã viết
bài thơ bất hủ Đài kỷ niệm (1836) như một lời di chúc cho muôn vàn thế hệ mai sau,
như lời ca thiên nga bi tráng và bất diệt. Nhà thơ hiểu rằng cuộc đời mình không uổng
phí, sự nghiệp của mình sẽ sống mãi trong trái tim nhân loại:
“Ta đã dựng cho ta đài kỷ niệm
Không bởi sức tay người! Đường tới viếng
Cỏ không trùm dấu bước thế nhân,
Cao hơn cả trụ thờ Alếcxanđrơ bởi cái đầu bất trị.
Và nhân thế còn yêu ta mãi
Vì đàn thơ ta thức tỉnh thân ái
Vì trong thủa bạo tàn ta ca ngợi tự do
Và gợi từ tâm với kẻ sa cơ.”
(Đài kỷ niệm)
Ông nguyện làm một chú chim nhỏ mang sự tự do bay cao, làm làn sóng mạnh vỗ mãi
bài ca tự do, cả cuộc đời đấu tranh bền bỉ cho những áp bức. Để làm được điều này
không hề đơn giản. Đó phải là một trái tim thức nhận mạnh mẽ với hiện thực cuộc
sống, là một tâm hồn rung cảm với bao đau khổ kiếp người, và một trí tuệ siêu việt
cùng lòng can đảm. Chính những điều này đã thôi thúc Puskin viết nên những câu thơ
về tự do hay đến thế. Ông hiểu được rằng mình chính là Người gieo giống tự do trên
đồng vắng:
“Tôi ra đi từ sáng sớm tinh mơ
Bàn tay tôi trong trẻo ngây thơ
Gieo mầm sống trên luống cày nô dịch
Nhưng tôi chỉ phí thời gian vô ích
Cả tư tưởng và việc làm thiện chí của tôi
Nhân danh than bình, cứ gậm cỏ đi thôi!
Tiếng vinh dự không thể làm tỉnh giấc
Tự do đâu cho một bầy súc vật?
Chúng chỉ cần cắt xẻo, cạo lông
Đời nối đời, di sản chúng nó chung
Là ách nặng đeo chuông và roi vọt.”
Chính những ám ảnh về tự do đã khiến tác giả quan tâm đến cả những sinh linh bé
nhỏ đang khao khát sự sống trọn vẹn ngoài kia:
“Nơi đất khách quê người tôi tôn kính
Tục ngàn xưa thân thiết của cha ông:
Trong ngày hội tưng bừng đầu xuân thắm
Trả tự do cho chim nhỏ giam lồng
Tôi cảm thấy lòng mình đầy an ủi
Còn việc chi mà phải trách ông xanh:
Khi có thể đem tự do kia tới
Trao tặng cho dù chỉ một kiếp sinh!”
Như một ca sĩ say mê hát hai từ tự do, Puskin đã để lại cho nước Nga và thế giới một
di sản khổng lồ, mà ở đó thơ ca được sống trong một không gian tự do để nói về tự
do.
Hegel đã khẳng định: “Lịch sử của thế giới chính là tiến trình của ý thức tự do.” Và
“tiến trình ý thức của tự do” trong thơ Puskin chính là đỉnh cao nhất của sự tự do
thông qua nghệ thuật của Nga lúc bấy giờ.
2. TIỂU THUYẾT EVGHENY ONEGIN
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Vài nét về tác giả và tác phẩm
1.1.1. Tác giả Puskin (1799 – 1837)
* Thời thơ ấu
Alexander Sergeevich Puskin sinh ngày 6 tháng 6 năm 1799 tại thành phố Moska
trong một gia đình quý tộc Nga.
Cha thi sĩ là một người rất ham mê văn học, thích sân khấu. Ông đã từng làm thơ
bằng tiếng Pháp. Chú của Puskin là một thi sĩ có tên tuổi thời bấy giờ.
Mẹ của ông (thuộc dòng dõi của Abram Petrovich Gannbal - một người nô lệ da đen của
vua Pyotr Đại đế - nhờ thông minh cũng như có những đóng góp lớn về quân sự, hàng
hải nước Nga nên được Pyotr Đại đế nhận làm con nuôi.
Các nhà thơ, nhà văn lớn thường đến thảo luận các vấn đề văn học tại nhà bố mẹ
Puskin như Ka-ram-din, Đơ-mi-tơ-ri-ép, Giu-cốp-xki,… Puskin sớm tiếp xúc với không
khí văn học nên lên 10 tuổi, ông đã đọc nhiều tác phẩm văn học Nga, Văn học Tây Âu,
hàng loạt bài thơ Pháp và làm quen với văn học dân gian Nga qua A-ri-na Rô-đi-ô-nôpna và người nô bộc Ni-ki-tin Cô-dơ-lốp.
* Thời kì học ở trường Li-xe (1811 - 1817)
Năm 1811, Puskin vào học ở trường Li-xê. Ở đây, thi sĩ được tiếp xúc với nhiều
thầy cô giáo, bạn bè có tư tưởng tự do. Hơn nữa, năm 1812, cuộc chiến tranh ái quốc
chống Na-pô-lê-ông thắng lợi đã làm cho Puskin thêm tự hào về sức mạnh của nhân dân
Nga. Ông bắt đầu sáng tác liên tục. Bài thơ xưa nhất còn lại đến nay là Gửi Na-Ta-sa
(1813). Năm 1814, tờ “Người truyền tin Châu Âu” đăng bài Gửi bạn thơ của Puskin.
Thơ trữ tình trong thời kì này của Puskin thường ca ngợi tình bạn, tình yêu, nỗi hân
hoan trong cuộc sống và chủ đề văn hóa nghệ thuật như Gửi Giu-Cốp-Xki, Thị trấn,…
Ngoài ra, ông cũng sáng tác theo khuynh hướng vượt ra khỏi ngoài phạm vi như
hàng loạt bài thơ, chủ đề “Tổ Quốc”, “Tự do” xuất hiện. Bài Hồi ức ở Hoàng Thôn
(1814) là một chứng cứ để thấy được tinh thần yêu nước của Puskin. Nhiệt tình tự do,
chống chế độ độc tài như bài Gửi Li-xi-nhi, các trường ca Tu sĩ (1813), Bô-va (1814),
kịch Bước vào xã hội thượng lưu như thế, Nhà hiền triết,…
Tóm lại, nội dung sáng tác ở thời kì học ở trường Li-xê tương đối phong phú. Về
mặt trình độ thì còn non, chịu ảnh hưởng của các nhà thơ lớn và đây cũng là mốc đánh
dấu cho Puskin vươn cao xa hơn, đi vào bậc nghệ sĩ tiền bối của mình.
* Thời kì Pê-téc-bua (1817-1820)
Năm 1817, tốt nghiệp ở trường Li-xê. Thời kì này chính phủ Nga hoàng tỏ ra
phản động hơn trước. Bên trong thì nó đàn áp khốc liệt các khởi nghĩa của nông dân.
Còn bên ngoài câu kết với bọn phản động để dìm các cuộc cách mạng vào bể máu. Cách
cuộc cách mạng như “Liên minh cứu quốc” (1816), “Liên minh hạnh phúc” (1818) ra
đời và phát triển. Giờ đây, sáng tác của Puskin đề cập đến chủ đề lớn lao. Thi sĩ viết
hàng loạt bài thơ nói về tình cảm của lớp tiến bộ Nga như Tự do (1817), Gửi Sa-đa-ep
(1818), Nô-en (1818), Làng quê (1819). Năm 1820, tác phẩm lớn đầu tiên ra đời với bản
trường ca Ru-xlan và Li-ut-mi-la. Trường ca bắt đầu viết từ năm 1817 lúc thi sĩ ra chiến
trường nên thầy Giu-Cốp-xki đã đề bức ảnh của mình gửi cho Puskin “Thầy chiến bại
tặng trò chiến thắng”.
* Thời kì đi đày ở Phương Nam (1820-1824)
Năm 1820 bị Nga hoàng đày xuống Phương Nam vì những bài nói lên tinh thần
tự do và chống chế độ nông nô. Trong thời gian đi đày thi sĩ đã viết hàng loạt thơ trữ
tình để nói lên tinh thần yêu nước và yêu tự do vốn có của thi sĩ như Gửi O-Vit (1821),
Người tù (18210), Con chim nhỏ (1818). Puskin ca ngợi những chiến sĩ đấu tranh cho tự
do, những người khởi nghĩa Hy Lạp: Cô nàng Hy Lạp thủy chung (1821), Chiến tranh
(1821), Chiếc dao găm (1821),..
Puskin đã thoát khỏi sự ảnh hưởng của chủ nghĩa cổ điển. Bài ca Vầng thái
dương đã tắt (1820), hàng loạt trường ca như: Người tù Cáp-ca (1820-1821), Đài phun
nước Bac-khơ-si-xa-rai (1820-1821), Anh em kẻ cướp (1821-1822).
Từ năm 1823 trở đi phong trào cách mạng ở Tây Âu lần lượt thất bại, Puskin viết
lên hàng loạt bài thơ Người Gieo tự do, Quỷ sứ (1823) và bắt đầu viết tiểu thuyết bằng
thơ Evgheni Oneghin (5-1823).
* Thời Kì bị đày lên Phương Bắc (1824-1826)
Tháng 8/1824, Puskin bị đày lên Phương Bắc ở xã Mi-khai-lôp-xcoi-ê thuộc trại
ấp của cha mình.
Năm 1825, sáng tác của Puskin có một bước ngoặc quan trọng. Thi sĩ từ bỏ lãng
mạn chuyển sang phương pháp hiện thực.
Những tác phẩm của Puskin trong thời kì này: 19-10, Bức thư bị đốt, Gửi Kéc
1825),…
* Thời kì sau cuộc khởi nghĩa tháng Chạp 1825
Ngày 14/12/1825, cuộc khởi nghĩa Pê-tec-bua nổ ra.
Hàng loạt bài thơ của Puskin thể hiện sự đấu tranh giữa nỗi đau buồn và lòng tin
cuộc sống A-ri-ôn, Gửi đi Xi-bia (1827), Cây thuốc độc (1828).
Một chủ đề quan trọng khác mà Puskin khai thác đó là chủ đề Nhà nước, dân tộc
Nga và các dân tộc khác trong nước Nga. Điều đó thể hiện rõ trong trường ca Pôn-ta-va
(1828),…
Năm 20 cũng là giai đoạn mà Puskin viết các chương chính (5,6,7,8) trong
Evgheni Oneghin, và văn xuôi như truyện ngắn Người da đen của Pi-ốt đại đế (1827).
* Những năm cuối cùng (Từ 1830 trở đi)
Tháng 2/1831, Puskin thành lập gia đình.
Trong thời kì này sáng tác thơ ít hơn trừ lúc ở Bôn-đi-nô (1830), Mùa thu (1833),
Tôi trở lại thăm (1835), Đại Kỉ Niệm (1836).
Năm 1831, Puskin kết thúc tiểu thuyết Evgheni Oneghin.
Trong giai đoạn này Puskin chú ý đến kịch như Rút-xan-ca (1833), Những màn từ
thời hiệp sĩ (1835), và xuất sắc nhất là quyển Người con gái viên đại úy (1836) mô tả về
khởi nghĩa nông dân thật sự.
Từ 1830 trở đi, những âm hưởng của chủ nghĩa lãng mạn trong sáng tác của ông
không còn nữa. Rồi Puskin đấu súng với Đăng-tet (8/2/1837) để bảo vệ danh dự gia
đình trước dư luận xã hội. Thế là Mặt trời thi ca Nga đã lặn.
Cái chết của Puskin đã làm cho cả nước Nga tiến bộ đau buồn và phẫn nộ. Cái
chết của thi sĩ là số phận đau thương của các nhà văn, nhà thơ tiến bộ Nga dưới chế độ
hà khắc của Ni-cô-lai, Rư-lê-ép, Gơ-ri-bô-ê-đốp, Léc-môn-tốp và hàng loạt nghệ sĩ khác
cũng là hàng loạt nạn nhân của xã hội tàn nhẫn đó.
1.1.2. Tác phẩm Evgheni Oneghin
1.1.2.1. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm
Tác phẩm khởi công viết từ 1823 và hoàn thành 1831. Đăng báo dần dần từng
chương từ 1825 đến 1833 thì xuất bản toàn bộ. Tiểu thuyết bằng thơ này là một trong
những kiệt tác bậc nhất của văn học Nga và thế giới. Với tác phẩm này mở con đường
mới chưa từng có cho văn học Nga chủ nghĩa hiện thực. Đây là một tác phẩm có sự kết
hợp giữa thơ và tiểu thuyết. Nó được coi là cuốn “Bách khoa toàn thư về đời sống Nga”
và là “khởi đầu của mọi sự khởi đầu” đối với tiểu thuyết hiện thực Nga.
1.1.2.2. Tóm tắt tác phẩm
Oneghin là một thanh niên quý tộc thông minh, có học thức, hào hoa, là một kiểu
mẫu thượng lưu. Sau nhiều năm phí hoài tuổi trẻ trong các phòng trà, nhà hát, tiếp tân,
khiêu vũ, tiệc tùng, anh bắt đầu buồn chán nỗi buồn chán của người Nga. Anh đóng cửa
ngồi nhà viết văn, đọc sách… nhưng rồi cũng không xóa được căn bệnh buồn chán nặng
nề ấy. Cha và chú qua đời , anh về quê thừa kế gia tài, quản lý trại ấp, sống cho khuây
khỏa. Nhưng chỉ được vài ngày sau anh lại buồn chán như xưa… Cùng quê, có anh bạn
Lenxki đang đắm đuối trong bản tình ca cùng cô Ônga xinh đẹp, hồn nhiên, bạn láng
giềng từ nhỏ. Cả hai kết bạn với nhau. Tachyana, chị của Ônga, một tiểu thư nông thôn
không đẹp như cô em nhưng tâm hồn trong sáng, đẹp đẽ, mơ màng tư lự và giản dị.
Tanhia yêu Oneghin ngay trong buổi đầu gặp gỡ. Cô viết thư tỏ tình gửi ngay cho
Oneghin. Xúc động vì tấm lòng chân thành của cô nhưng Oneghin lại từ chối tình yêu vì
lo rằng cuộc sống sẽ mất yên tĩnh và tự do. Thực ra anh chưa yêu vì còn ở trong tình
trạng khủng hoảng tư tưởng. Do sự bực bội với Lenxki, anh tìm cách trả thù bạn theo
kiểu quí tộc. Anh giả vờ ve vãn Ônga, chọc tức Lenxki. Đúng vào ngày lễ thánh của
Tanhia, xảy ra xung đột giữa Lenxki và Oneghin. Vì thói sĩ diện quí tộc, Oneghin đã
nhận lời thách đấu súng và anh đã giết bạn. Đau buồn và hối hận, Oneghin rời làng quê
ra đi du ngoạn lang thang suốt mấy năm trời.
Ônga mau chóng quên lãng người yêu xấu số Lenxki, cô nhận lời cầu hôn của
một viên sĩ quan và cùng chồng đi theo đơn vị.
Tanhia cảm thấy bị xúc phạm và đau khổ, sống âm thầm lẻ loi, từ chối mọi đám
mai mối. Mùa đông nước Nga, hai mẹ con chuyển về sống ở Moskva. Trong xã hội
thượng lưu có một viên tướng lớn tuổi xin cầu hôn nàng. Vì thương nể mẹ, Tanhia nhận
lời.
Đến ngày Oneghin trở lại thì Tanhia đã là một phu nhân sang trọng và đức hạnh
trong giới quí tộc thủ đô. Với Oneghin, tình yêu sống dậy mãnh liệt trong tâm hồn, anh
viết thư cho Tanhia. Anh trở nên si tình đến mức ốm đau và không thể chờ hồi âm, anh
tìm đến gặp cô.
Tanhia thú nhận vẫn còn yêu anh nhưng băn khoăn có nên bỏ cả lầu son gác tía để
cùng anh trở lại làng quê giản dị ngày xưa. Cô cảm động vì tình yêu say đắm của anh,
nhưng cuối cùng cô quyết định từ chối, vẫn chung thuỷ với chồng.
Tanhia bỏ đi, Onegin đứng đó sững sờ,… nàng ra khỏi phòng khách, chồng của nàng
bước vào tiếp khách.
1.1.2.3 Giá trị của tác phẩm
*Giá trị nội dung
- Tiểu thuyết Evgheni Oneghin được xem là "Cuốn Bách khoa toàn thư của cuộc
sống Nga". Bách khoa toàn thư là bộ sách chuyên sâu và chuyên ngành về một lĩnh vực,
một phương diện, một góc độ văn hóa, sắc tộc và quốc gia nhất định.
Theo nhà phê bình V. Belinsky gọi Evgheni Oneghin là "Bách khoa toàn thư của
đời sống Nga" vì tác phẩm phản ánh thực tại nước Nga thành thị đến nông thôn đầu thế
kỉ XIX mà còn vẽ nên bức tranh thiên nhiên với thời tiết bốn mùa đặc trưng cho nước
Nga từ ngàn đời. Thiên nhiên trở thành biểu tượng cho cội nguồn, thành tiêu chí đánh
giá và phân loại nhân vật. Vấn đề nước Nga và tương lai của nó được đặt ra trong bối
cảnh chung của thế giới, đặc biệt là Châu Âu đầu thế thế kỷ XIX. Qua các nhân vật và
những suy ngẫm ngoại đề của người kể chuyện – tác giả, có thể thấy được tư tưởng văn
hóa Nga truyền thống được đối sánh với những luồng tư tưởng phương Tây du nhập và
chi phối cuộc sống đương đại làm thành một cuộc đối thoại lớn thể hiện bản chất của
thực tại. Đồng thời đây cũng là tác phẩm đầu tiên phản ánh cuộc sống “đúng như nó tồn
tại”, chân thực, đa dạng có tính chất “bách khoa”. Cuộc sống ở tỉnh và ở quê với những
vũ hội, yến tiệc, cưới hỏi, ma chay…và nhiều mặt phong phú trong đời sống vật chất và
tinh thần của nước Nga những năm 1819 – 1825, thời điểm quan trọng sau chiến tranh
vệ quốc và trước cuộc khởi nghĩa Tháng Chạp.
Tiểu thuyết Evgheni Oneghin là tác phẩm đầu tiên mở đầu cho văn học hiện thực
Nga thế kỷ XIX. Chủ nghĩa hiện thực Nga với phương pháp sáng tác hiện thực, đi sâu
vào thực tại, lấy cuộc sống và thời đại làm đối tượng khám phá, sáng tạo. Đây là kiểu
mẫu đầu tiên vượt qua chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa tình cảm và chủ nghĩa lãng mạn ở
nước Nga. Với tiểu thuyết thơ này, lần đầu tiên trong văn học Nga xuất hiện hình tượng
nhân vật “con người thừa”. Puskin là cái mốc kết thúc dòng văn học lãng mạn Nga và
là người mở đầu cho dòng văn học hiện thực Nga.
Tiểu thuyết Evgheni Oneghin là sự kết hợp bằng tính nhân dân, tính hiện thực và
tính trữ tình. Trong Evgheni Oneghin, Puskin đã nêu lên được các cuộc khởi nghĩa nông
dân, những phong tục văn hóa đời sống của nhân dân như lễ cưới, ma chay,… Thi sĩ
cũng đề cập đến sự hiện thực Nga trong thời kì này, sự tàn nhẫn, tàn bạo của chính
quyền Nga hoàng và đồng thời nêu lên tình cảm yêu nước, yêu tự do và khát vọng đóng
góp cho cuộc khởi nghĩa bằng chính thơ, văn chương của bản thân.
* Giá trị nghệ thuật
Thời đại tiểu thuyết hiện thực Nga mở ra trên ngưỡng cửa thập niên 30 với tiểu
thuyết bằng thơ của Puskin Evgheni Oneghin. Đó là tiểu thuyết “khởi đầu của mọi sự
khởi đầu” tạo nên những nhân vật điển hình của thời đại, với những phương thức nghệ
thuật trở thành khuôn mẫu cho những thế hệ tiểu thuyết Nga về sau.
Về cốt truyện ta thấy sự kiện không đóng vai trò quan trọng. Các bức tranh mô tả
cảnh sinh hoạt với các chi tiết tỉ mỉ, cụ thể chiếm phần lớn tác phẩm. Không có xung đột
kịch tính (các nhân vật chính đều là bạn bè, yêu mến lẫn nhau). Xung đột chủ yếu là ở
nội tâm (giữa thiện – ác trong tâm hồn con người). Bên cạnh đó nó còn có kết thúc mở.
Nhân vật được mô tả cụ thể, tỉ mỉ, gắn liền với những cảnh sinh hoạt xung quanh,
không có xung đột gay gắt giữa các nhân vật. Mỗi nhân vật sống với thế giới riêng tư
của mình, không có sự phân chia nhân vật chính – phụ (mỗi nhân vật đều là nhân vật
chính), không có sự phân chia nhân vật chính diện – phản diện. Mâu thuẫn chủ yếu là
giữa “chính diện” và “phản diện” trong tâm hồn mỗi con người. Tính cách “tự phát
triển”. Vẫn có nhân vật “lý tưởng”, nhưng trung tâm tác phẩm vẫn là nhân vật “lưỡng
diện”, kiểu nhân vật “con người thừa”. Ngoài ra, nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm nằm
ở những “khổ thơ Oneghin”, cốt truyện của tác phẩm khá đơn giản và mang kết thúc
mở khiến độc giả còn cần phải suy nghĩ. Đó là điểm đặc biệt của truyên thơ mà Pushkin
đã để lại.
CHƯƠNG 2: THIÊN NHIÊN NƯỚC NGA TRONG TIỂU THUYẾT
EVGHENI ONEGHIN
2.1. Mùa xuân
Tháng 5/1823, Puskin bắt đầu viết tác phẩm đề cập đến vấn đề “con người thời
đại”, đó là tiểu thuyết bằng thơ Evgheni Oneghin - tác phẩm trung tâm trong sự nghiệp
sáng tác của ông. Giới nghiên cứu phê bình ở Việt Nam đánh giá cao tài năng của ông
“Tiểu thuyết Evgheni Oneghin bộc lộ tập trung, nổi bật tài năng của Puskin, thể hiện
những quan sát lạnh lùng của trí tuệ và những nhận xét cay đắng của trái tim” [6, 179].
Tiểu thuyết Evgheni Oneghin được nhà phê bình V.Belinsky gọi là “Cuốn bách
khoa toàn thư của cuộc sống Nga”. Bởi nó không chỉ phản ánh thực tại nước Nga từ
thành thị đến nông thôn đầu thế kỉ XIX, mà còn vẽ nên bức tranh thiên nhiên với thời
tiết bốn mùa đặc trưng cho nước Nga từ ngàn đời. Thiên nhiên trở thành biểu tượng cho
cội nguồn, thành tiêu chí đánh giá và phân loại nhân vật.
Nhiều bức tranh về nông thôn Nga, thành phố Nga được vẽ nên trong tiểu thuyết.
Chúng ta bắt gặp những cảnh đẹp của kinh thành Pê-téc-bua đường bệ ở chương đầu và
cuối chương tiểu thuyết, chúng ta cùng Tanhia đến với Moskva cổ kính để trông thấy
những vòm nhà thờ, gác chuông, vườn hoa và lâu đài cố đô đi ngang qua Pê-tơ-rốp gợi
cho chúng ta nhớ đến cuộc chiến trang giải phóng vĩ đại của nhân dân Nga. Nông thôn
Nga chiếm một vị trí đặc biệt trong tiểu thuyết. Cả xuân, hạ, thu, đông đều được miêu
tả. Cũng như việc diễn tả con người và tính chất con người, Puskin không có khuynh
hướng chọn những cảnh đặc biệt khác thường. Ngược lại đây là những cảnh hoàn toàn
bình thường, hấp dẫn.
Những thi sĩ trước Puskin thể hiện thiên nhiên trong các tác phẩm cổ điển hoặc
lãng mạn, họ tìm cái đẹp, cái thi vị trong các tác phẩm cổ điển hoặc lãng mạn. Họ đi tìm
cái đẹp, cái thi vị trong những cảnh trí lớn như núi cao, sông rộng, thác đổ dồn, bể trào
bọt sóng…Tuy nhiên, trong Evgheni Oneghin chỉ có những cảnh bình thường quen
thuộc như một buổi sáng mùa đông, con đường phủ đầy tuyết, bầu trời trong xanh, cành
xuân với những lộc non vừa mới nhú… nhưng vẫn hấp dẫn bình thường. Puskin đã thấy
được cái đẹp trong những cái bình thường nhất. Chính thi sĩ đã chỉ cho người Nga hiểu
và yêu thiên nhiên bình dị của đất nước mình. Lòng yêu nước đã toát ra qua việc thể
hiện thiên nhiên Nga đó. Yếu tố mùa là dấu ấn quan trọng trong văn học Nga nói chung
và tác phẩm của Puskin nói riêng.
Từ một chàng thanh niên quý tộc thông minh, tài hoa nhưng sau nhiều năm phí
hoài tuổi trẻ cùng sự buồn chán, bế tắc nơi cuộc sống phồn hoa đô thị. Oneghin trở về
nông trại nơi mà cha chàng đã để lại cơ nghiệp cho chàng. Chàng bắt đầu một cuộc sống
mới nơi vùng quê thanh bình, giản dị. Bằng tài năng nghệ thuật của mình, Puskin đã tái
hiện bức tranh thiên nhiên nước Nga một cách chân thực, độc đáo. Những hình ảnh
thiên nhiên hiện lên tạo nên những hình thức khác nhau, mang nét phong phú, đa dạng.
Một mùa đông kết thúc với bao giá lạnh được xua tan, tăm tối thay thế dần cho sự
sống. Khi mùa đông nhường chỗ cho mùa xuân thì sức sống của thiên nhiên như được
trỗi dậy mạnh mẽ sau giấc ngủ đông dài. Băng tan dần chảy thành những dòng suối uốn
lượn. Không khí cũng trở nên ấm áp hơn:
Tuyết trên núi, trên gò cao đây đó
Được nắng xuân sưởi ấm dần bắt đầu
Tan thành nước, chảy từng dòng rất nhỏ
Xuống cánh đồng cũng ngập nước từ lâu
Cái hối hả, nhựa sống như đang dâng trào trong từng vần thơ của tác giả. Sự thao
thức suốt cả mùa đông chỉ vì chờ đợi ánh nắng của mùa xuân. Tầng tầng, lớp lớp những
mầm non đang vươn lên tràn đầy nhựa sống. Mùa xuân tất cả đều đẹp. Muôn loài chim,
ong, bướm thi nhau hút mật. Các thung lũng tràn ngập những sắc hoa, những reo ẩm khi
đông nay đã dần dần khô:
Trời rất trong, mây sáng lượn yên lành
Và rừng núi, cũng thế bắt đầu xanh
Như được phủ lớp nhung hối hả
Đàn ong bay vui hút mật khắp đồng...
Phải chăng thiên nhiên cũng đang là tâm hồn của con người. Tâm hồn đang chiếm
ngự thiên nhiên hay ngược lại. Mùa xuân đến thế nhưng tác giả vẫn mang một nỗi buồn
trong tâm hồn và trái tim “Ôi buồn sao khi xuân đến bồi hồi”. Giữa khung cảnh yên tĩnh
nơi đồng quê vắng vẻ, khi hơi thở mùa xuân đang thổi nhè nhẹ phả vào người. Nhưng
cái vui, cái mới của mùa xuân không làm Oneghin vui lên hay chính sự chuyển giao đột
ngột sau một giấc ngủ dài khiến người ngỡ ngàng, bối rối chưa chấp nhận kịp thời:
Tôi vẫn buồn buồn một nỗi không đâu
Hay không lẽ trái tim tôi lạnh giá
Quên niềm vui và tất cả những gì
Đẹp tươi mát, luôn ồn ào lấp lánh
Khi tâm hồn con người đã chết thì mọi điều đến với nó đều trống rỗng, những
điều bên ngoài kia đều vô nghĩa. Hay người lại trăn trở về cuộc đời của mình, khi chàng
nhớ lại những cành cây sau thu đã chết, nhưng sự sống lại trỗi dậy để đâm cành. Khi
thiên nhiên trong từng giây phút sống dậy chàng lại suy nghĩ về cuộc đời, về mọi điều
mình đã trải qua, nhớ lại mà tê tái lòng. Nơi thành thị xa hoa, phồn thực, nơi những nỗi
buồn cứ ngự trị lòng người thì tâm hồn đó còn tồn tại cũng như đã chết. Trước khung
cảnh thiên nhiên như thế, lòng người cũng có những rung động, nghĩ suy về quá khứ
hay thực tại, tương lai. Người nghĩ rằng, mình có thể như cây, như thiên nhiên kia qua
bao ngày trải qua khắc nghiệt của cuộc sống có thể đứng dậy hay không?
Rất có thể nhiều khi trong ý nghĩ
Một mùa xuân khác hẳn, cũ và già
Xen vào giữa những giấc mơ thi vị
Đến để làm xúc động trái tim ta
Thiên nhiên trỗi dậy mà lòng người cũng tràn đầy sinh khí của mùa xuân. Niềm
vui, sự chờ đợi, hứng khởi, tất cả như sục sôi trong tâm hồn của những con người ấy.
Những con người đã trải qua mùa đông của sự giá lạnh và u buồn nay đón nhận những
điều tuyệt vời nhất mà thiên nhiên ban tặng:
Mùa xuân kia bao mong đợi đã về
Mời các ngài du ngoạn nơi đồng quê
Giờ là lúc vui chơi, hoa và nắng
Với những đêm quyến rũ đến mê hồn
Sau những giây phút tưởng chừng con người như rơi vào tuyệt vọng của cuộc đời
thì thiên nhiên như sự kêu gọi tâm gọi tâm hồn, mùa xuân của Puskin đã kéo chàng trở
về với cuộc sống thực tại, xa rời những buồn chán một thời. Những tiếng hô hào, hò reo
gấp gáp “hỡi anh lười tốt bụng”, “hỡi triết gia ưa chén hoặc chơi cờ”, “môn đệ Lepsin
thực dụng” hãy cũng ta trở về nơi vùng quê thanh bình ấy, bỏ qua tất cả những phồn hoa
của thành thị.
Nào các vị, ta đi thôi,đi thẳng
Từ phố phường một mạch đến nông thôn,
Bằng xe ngựa ngồi chen nhau vất vả,
Xe chạy suốt, xe thư, xe tam mã
Thiên nhiên, con người như đang cùng reo vui với sự sống. Sự háo hức, mong
chờ đến một vùng đất mới, vùng đất của sự thanh bình, yên ả chốn làng quê không còn
những xô bồ, hối hả, tấp nập nơi thành thị, “Nơi vui đùa giải trí suốt mùa đông”. Thiên
nhiên chính là tiếng nói, là đời sống tinh thần của con người. Vì thế trong những sáng
tác của Puskin, thiên nhiên chiếm một vị trí quan trọng trong sáng tác và thể hiện nội
dung. Thiên nhiên trong Puskin là cái hồn trọn vẹn của thiên nhiên Nga.
2.2. Mùa hạ
Tuy không được miêu tả một cách chi tiết nhưng qua những dòng thơ của Puskin,
ta có thể hình dung được về mùa hè của nước Nga. Thiên nhiên luôn sống động nhưng
thiên nhiên mùa hè thì thật đặc biệt. Đó là mùa của sự ấm áp. Sắc xanh của cỏ cây cũng
đậm đà hơn, không còn là màu xanh nhạt của chồi non mới nhú. Những cơn gió mát
rượi thỉnh thoảng lại thổi qua rừng cây nghe xào xạc. Những cánh đồng như bao la rộng
lớn hơn dưới bầu trời cao xanh khoáng đãng. Mùa hè ở Nga rất ngắn ngủi nên khi nó
qua đi, mọi người đều cảm thấy tiếc rẻ:
Nhưng mùa hè đã vội vã đi qua
Và bên cửa mùa thu vàng ngấp nghé
Thiên nhiên run rồi nhợt nhạt, thay màu
Thiên nhiên thay đổi cũng khiến lòng người thay đổi theo, sự giao mùa nhanh
chóng đến chớp mắt làm con người ngỡ ngàng, rối bời trước nó.
Puskin đã phản ánh trung thành thực tại, viết nên “Bộ bách khoa toàn thư của
cuộc sống Nga”. Đó là cuộc sống đương thời, cuộc sống của những con người Nga cùng
thời tác giả, cuộc sống ở hai kinh đô, ở các làng quê, cuộc sống của thiên nhiên Nga bốn
mùa…Bằng những chi tiết xác thực, tám chương của tác phẩm đã dựng nên bức tranh
toàn cảnh Nga ngày nay – đầu thế kỉ XIX, đủ mọi màu sắc, âm thanh. Điều lí thú ở đây
là những độc giả đang sống bên bờ sông Nhêva hay bên cánh rừng bạch dương kia lại
sững sờ, kinh ngạc khi gặp lại dòng sông ấy, cánh rừng ấy trong tác phẩm. Cái đẹp vẫn ở
bên ta hằng ngày mà ta thờ ơ không biết, đợi đến lúc thi sĩ phát hiện để ta yêu mến, vui
sướng cái đẹp bình dị, tự nhiên ta đã thân quen từ thuở nào.
Thiên nhiên trong thơ Puskin nói riêng và trong văn học Nga nói chung đều là
yếu tố quan trọng trong việc giúp tác giả chuyển tải nội dung tác phẩm. Nó là dấu ấn
quan trọng tạo nên những nét riêng không thể lẫn lộn giữa Nga với các bất kỳ nước nào.
“Xứ sở của tuyết”, “bạch dương”, “mùa thu vàng”... tất cả những cái bình dị ấy đã tạo
nên nét đẹp cho văn học Nga.
Khi nói về thiên nhiên, trong văn học Nga không chỉ có Puskin mà còn tên tuổi
khác được nhắc đến như Lep Tônxtôi, M. Sôlôkhôp với những tác phẩm vang danh như
tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình, Sông đông êm đềm...
Trong Sông Đông êm đềm – “Thiên sử thi nhân dân mãnh liệt”, tình yêu mảnh
đất sông Đông là điều không thể phủ nhận trong con người Sôlôkhôp. Tác giả đã đưa
vào tác phẩm một thế giới thiên nhiên Nga vừa sinh động, phong phú, một thiên nhiên
thuộc về thế giới lao động của những người Côzăc với tính cách đặc trưng trong sáng,
khỏe khoắn. Đó là một thế giới thiên nhiên đầy màu sắc, nắng, gió cùng đất nước Nga
xinh đẹp. Ở đây, ta bắt gặp một bức tranh thiên nhiên khỏe khoắn, tráng lệ, cao rộng.
Thiên nhiên có lúc êm đềm lại có lúc gay gắt, khắc nghiệt. Sự luân chuyển của các mùa
trong năm đã phản ánh điều này. Đây là cảnh mùa đông với tuyết trắng bao phủ điển
hình của vùng xứ lạnh. “Một màu trắng khắc nghiệt trùm lên khu rừng đầy những
sương muối rủ xuống như đăng ten”. Còn đây là vùng sông Đông mùa hạ được miêu tả
rất chân thực “Năm ấy hạn hán, khúc sông trước thôn khô cạn dần”. Hay không khí tĩnh
mịch của mùa thu và sự ấm áp vốn có của mùa xuân. Sự phong phú trong thiên nhiên
còn được thể hiện ở sự xuất hiện của cỏ cây lá cành, chim muôn mà chỉ vùng thảo
nguyên mới có.
Dưới góc độ nhìn nhận khác, Chiến tranh và hòa bình – “Kiệt tác văn học của
mọi thời đại”, của Lep Tônxtôi là những hình ảnh thiên nhiên luôn tạo ấn tượng cho độc
giả như cây sồi quan sát của Anđrây, là đêm trăng huyền diệu trong cái nhìn của Natasa,
những cách rừng uy nghi bao vây chiến trận trong cái nhìn của Pie. Trong Chiến tranh
và hòa bình, thiên nhiên là yếu tố không thể thiếu, đặc biệt khi nói đến các hệ thống điền
trang. Những khoảng thiên nhiên xanh bao bọc các dinh thự của các quý tộc. Các điền
trang được xây dựng với sự kết hợp giữa thiên nhiên và nhân tạo. Có thể nói cuộc sống
các điền trang gắn liền với thiên nhiên, con người lớn lên, trưởng thành cùng thiên
nhiên. Không gian thiên nhiên điền trang LưxyêGorư được nhà văn nhắc đến là một nơi
“bằng phẳng, toàn bộ những cánh đồng và những rừng tùng, rừng bạch dương, khu thì
đã đẵn hết cây, khu thì hãy còn nguyên vẹn”. Với Tolstoy, thiên nhiên là thước đo tâm
hồn con người. Hòa nhập với thiên nhiên, theo ông đó là dấu hiệu của tâm hồn nhạy
cảm, phong phú, mạnh mẽ. Bởi thiên nhiên trong Chiến tranh và hòa bình được miêu tả
gắn liền với cảm xúc nhân vật. Thiên nhiên không chỉ tạo khung cảnh mà gợi sự song
hành những nét tâm lí thầm kín trong nhân vật. Có khi là sự hào hứng, say mê, có khi lại
cô quạnh, nhuốm màu đau thương.
Thiên nhiên trong đời sống có vai trò quan trọng đối với con người, đi vào tác
phẩm văn học nó vẫn giữ nguyên giá trị đó. Thiên nhiên có thể xem là một yếu tố cấu
thành nên tác phẩm, thông qua thiên nhiên, tâm lí – tình cảm nhân vật được bộc lộ rõ
nét, thiên nhiên là môi trường hoạt động cho nhân vật. Ngoài ra thiên nhiên còn là một
yếu tố trong việc thể hiện quan điểm, tư tưởng, tình cảm tác giả.
Như vậy, thông qua tiểu thuyết thơ Evgheni Oneghin, Puskin đã cho người đọc
cái nhìn toàn cảnh về cuộc sống Nga đầu thế kỉ XIX. Ở đó không chỉ có con người, đời
sống mà những hình ảnh thiên nhiên hiện lên thật đẹp, giản dị và bình yên. Bức tranh ấy
là tiếng nói của thiên nhiên, của Puskin và là tiếng lòng, tình cảm của nhân dân, đất
nước Nga. Qua bức đó ta như hiểu thêm được vẻ đẹp vốn có của đất nước Nga và đặc
biệt là vẻ đẹp của tâm hồn chân thực của con người Nga.
2.3. Mùa thu
A.x.Puskin một nhà văn Nga vĩ đại ,ông được coi là “Mặt trời của thi ca Nga” là
vầng dương trên đất nước Nga lạnh giá muôn đời. Thơ của Puskin nói chung và tiểu
thuyết của ông nói riêng có sức hấp dẫn và lôi cuốn kỳ lạ chính nhờ những vần thơ của
nhà thi hào Nga đại tài này đã cất cánh đưa chúng ta đến một đất nước Nga xa xôi, giúp
chúng ta hiểu thêm về văn hóa, lịch sử và con người nơi đây cũng như là cuộc sống, tình
cảm, tâm hồn của người dân Nga. Qua những vần thơ của nhà thơ nó không chỉ thể hiện
được vẻ đẹp trữ tình, nhẹ nhàng, dịu dàng của thơ Puskin mà còn cho ta thấy được vẻ
đẹp thiên nhiên hùng vĩ qua thời gian, không gian, bốn mùa của nước Nga, dường như
nó luôn luân chuyển, thay da đổi thịt, tả cảnh ngụ tình thiên nhiên nước Nga hùng vĩ đẹp
nhưng ẩn sâu trong đó là tình cảm tâm trạng của nhà thơ, và tình yêu đất nước, quê
hương, xứ sở.
Ngay từ lúc nhà thơ còn là học sinh trường Li-xe, Puskin đã thể hiện rõ xu hướng
thiên về đời sống tự nhiên và ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên đồng nội, ở thời thiếu thời ông
đã sống và gắn bó, quấn quít với cuộc sống ruộng đồng với những người dân bình dị,
những người dân nơi đây đã ươm mầm trong tâm hồn nhà thơ bằng những câu chuyện
cổ tích Digan, những khúc hát dân ca muôn màu muôn sắc từ đó Puskin càng có thêm
niềm tin yêu mãnh liệt với quê hương đất nước con người Nga. Nhà thơ yêu vẻ đẹp đầy
sức sống của những bông bách hợp đặt nó trong sự tương hợp với những bông hồng quý
tộc đài các nhưng dễ bị úa tàn, theo Puskin thì cái đẹp ở ngay trong những cái mà chúng
ta cho rằng là bình thường và những cái dù có cho là cao quý đi chăng nữa thì vẫn bị coi
là thấp kém.
Thiên nhiên Nga đi vào thơ của Puskin với những gì thuần khiết tự nhiên nhất mà
không cần đến những bút pháp thi vị hóa hay lãng mạn hóa. Trong Evgheni Oneghin,
hình ảnh thiên nhiên xuất hiện rất nhiều với nhiều hình thức thể hiện khác nhau với
những nét phong phú và đa dạng được nhìn nhận dưới nhiều khía cạnh khác nhau nhưng
thiên nhiên Nga vẫn luôn mang trong mình vẻ đẹp đặc trưng độc quyền, lạnh giá nhưng
rất đẹp, nên thơ, buồn nhưng không ảm đạm, tù túng.
Nhà thơ với mong ước đến với nơi nắng ấm nhưng đến nơi nắng ấm vẫn nhớ da
diết về cái lạnh, qua đó ta thấy được rằng tình yêu sâu nặng với tổ quốc, quê hương
mình. Trong thơ của Puskin cảnh sắc được chú ý là mặt trăng, bầu trời, những cánh
rừng, khu vườn, con suối,.. Thiên nhiên trong thơ Puskin được mô tả một cách khái
quát, dưới những góc độ khác nhau, từ khái quát đến cụ thể, từ rộng đến hẹp và từ xa
đến gần, và khung cảnh xung quanh ngôi nhà mà Oneghin sống là một điển hình.
Nơi chàng ở là một ngôi nhà cao
Đứng tách riêng bên bờ sống gợn sóng
Dãy núi cao sừng sững sát sau nhà
Che gió về và thấp thoáng xa xa
Là những vệt mờ đen thôn xóm nhỏ
Những đồng xanh đang trải rộng bước chàng
Những lùm cây nhấp nhô ngoài bãi cỏ
Với đàn cừu trong nắng bước lang thang
Và bên cạnh là khu vườn rất rộng
Cảnh vật với sông núi hữu tình, thiên nhiên là nơi lý tưởng đứng ở đây có thể
vươn tầm mắt ngắm cảnh thôn xóm, đồng ruộng, vườn tược, thiên nhiên như ưu đãi cho
con người, thiên nhiên nơi đây như một món quà mà tạo hóa ban tặng và con người nơi
đây cũng rất ý thức biết giữ gìn trân trọng món quà vô giá ấy.
Ngoài ra, trong tác phẩm nhà thơ Puskin thường chú trọng miêu tả những mối
thời gian cụ thể với nhiều hình ảnh khác nhau.
Chỉ riêng khung cảnh buổi sáng mà ta đã thấy nhiều hình ảnh khác nhau:
Bình minh dậy trong sương mù gió lạnh
Cả không gian đang yên tĩnh hiền lành
Hay:
Ông mặt trời còn lười chưa muốn dậy
Chưa muốn rời hư ảo những giấc mơ
Cảnh trời tối cũng được nhà thơ chú ý miêu tả khá nhiều và đôi khi nó thật đặc
biệt: Đêm đã bùng dày đặc đứng bên ngoài.
Không chỉ miêu tả một cách đơn thuần mà nhà văn đã thông qua cảm nhận của
con người về thiên nhiên.
Nhưng đã muộn rừng cây thôi xào xạc
Đang mơ màng thiêm thiếp ngủ bên sông
Vạn vật thiên nhiên trong thơ Puskin đều mang đặc điểm hoạt động của con
người, thiên nhiên có hồn và luôn trong sự vận động không lặp lại mùa này như mùa
trước không nhàm chán.
Mùa thu trong Evgheni Oneghin đến đem theo sắc vàng ngập trời, mùa thu với vẻ
đẹp dịu dàng, nhưng phảng phất buồn khí trời mát mẻ, ấm áp, lá vàng rơi chất thành
thảm sương mù thì hệt như hình thể có thể bện từng cuộn trôi trên đồng.
Hạ đi thu đến trời đất chuyển mình không còn cái nắng vàng gay gắt của mùa hạ
nữa mà là một ngày tiết trời vào thu với nắng vàng ươm nhẹ nhàng nhuộm vàng cả
không gian mọi thứ xung quanh như chầm chậm, chùng chình, không vội vàng, tiết trời
đỏng đảnh như một người con gái nũng nịu với thời gian.
Thu đến đất trời như xao động cả cánh rừng tràn ngập màu của lá, màu vàng
nhuộm thắm cả không gian soi chiếu làm vàng luôn cả bầu trời, cảnh đẹp mùa thu ở
nước Nga như bức họa mùa thu vàng của họa sĩ nổi tiếng Lavitan. Hơn thế nữa bởi sau
cảnh đẹp mùa thu ấy là những cảm xúc đa chiều của con người còn gì đáng trân trọng
hơn nâng niu giữ gìn hơn là những cảm xúc rung động bồi hồi của con người trước cảnh
sắc của thiên nhiên đất trời mà nhất lại vào mùa thu mùa mà đất trời, con người cũng
ngập ngừng, có chút gì đó mơ hồ hoài tưởng, lưu niệm với một không gian mùa thu
“yên tĩnh ngọt lành”.
2.4. Mùa đông
Mùa đông là mùa được nhắc đến nhiều trong tác phẩm này, trong thời kỳ bị lưu
đày ở phương Bắc số lượng câu thơ viết về thiên nhiên và nhất là về mùa đông chiếm
khối lượng rất lớn trong khoảng thời gian này nhà thơ đã cho ra đời chùm thơ viết về
mùa đông như Con đường mùa đông , Buổi sáng màu đông hay Buổi tối mùa đông đây
là những tuyệt tác về thiên nhiên của Puskin miêu tả chân thực cái âm u và dữ dội giá
băng lạnh lẽo buồn bã thê lương của mãnh đất u buồn, mùa đông ở nước Nga tuy lạnh
nhưng có vẻ đẹp rất riêng và không lẫn vào đâu được, trong mùa đông mặt nước ở
những lòng hồ những dòng sông đông cứng lại hệt như một tấm gương sáng bóng phẳng
lì.
Thế là băng đã bắt đầu xuất hiện
Sáng long lanh như dát bạc ngoài đồng
Cả không gian được tuyết phủ trắng xóa một màu
Mùa đông đến lan khắp nơi tuyết bám
Trên cành thông từng mảng lớn và dày
Tuyết trải rộng lô xô thành chiếc thảm
Phủ kín đồng kín núi đó và đây