Thơ tiên tri của Chủ tịch Hồ Chí Minh -
một giá trị văn hoá
Trong diễn trình tiến hóa phát triển, con người luôn ý thức nhận biết, dự đoán quy luật xã
hội, tự nhiên, mối quan hệ thực - ảo, âm - dương và vươn tới dự báo, tiên tri những sự kiện
lớn sẽ xảy ra vài năm, thậm chí vài trăm năm sau, trong đời sống con người với con người,
con người với vạn vật vũ trụ.
Bác Hồ với kiều bào
Trực giác, tiên tri là khái niệm được luận bàn nghiêm túc và là thiên tài của số ít bậc trí tuệ,
họ giảng giải cho người cộng sự, viết thành văn bản về một số sự kiện xảy ra trong tương
lai gần hoặc xa. Đó là thơ tiên tri, lời tiên đoán, dự đoán, sấm truyền, sấm ngữ... hơn 2.000
năm nay là đề tài trao đổi của các trường phái tâm linh, vô thần và triết học. Nhiều từ điển
định nghĩa khái niệm tiên tri, từ điển tiếng Việt khái luận: “Biết trước được những việc sẽ
xảy ra, bậc tiên tri, những điều tiên tri...”(1).
Trên thế giới, giáo chủ các tôn giáo lớn, một số danh nhân thông tuệ từng có lời tiên tri
như: Đức Phật Thích Ca, Chúa Jesu, Khổng Tử, Thánh Mô-ha-mét, Lưu Bá Ôn, Khổng
Minh, Nostradamust, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Chí Minh...
Thơ tiên tri trong lịch sử Việt Nam
Trong trường kỳ lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân Việt Nam, nhiều sách lịch
sử, ngọc phả, thần phả, truyện như: Đại Việt Sử ký toàn thư, Việt Sử lược, Thiền Uyển
Tập Anh, Thơ văn Lý Trần... ghi lại hàng loạt thơ tiên tri, sấm ký của các vị thiền sư, danh
nhân nổi tiếng.
Thế kỷ III, Khương Tăng Hội là vị sư thấm sâu kinh tạng, uyên thâm Phật lý, truyền dạy
cho tăng đồ, Phật tử giáo pháp của Đức Phật, ông là người đầu tiên dạy tiên tri, sấm ngữ,
nâng tầm nhận thức, khai mở tư duy sáng tạo cho con người, tín đồ.
Thế kỷ VIII, cuốn Thiền Uyển Tập Anh (thời Trần) viết về Thiền sư Định Không: “Sư là
người am hiểu thế số, hành động đúng pháp tắc. Người trong làng tôn thờ...”. Định Không
viết thơ tiên tri (hai trăm năm sau) nhà Lý ra đời, đạo Phật hưng thịnh:
“Để Phật pháp được hưng long...
Họ Lý làm vua...
Gà sau tháng chuột ở
Chính lúc Tam Bảo Hưng”
“Thập bát tử định thành,
Bông gạo hiện Long hình
Thỏ gà trong tháng chuột
Nhất định thấy trời lên”(3)
Thập bát tử là chiết tự của chữ (dòng họ) Lý như đã định sẽ thành công. Sau này, cây gạo
chùa Minh Châu bị sét đánh để lại dấu vết bài thơ Thụ Căn nổi tiếng đúng là Bông gạo
hiện Long hình, tiên tri sự ra đời nhà Lý. Vua Lý Công Uẩn lên ngôi tháng 11 (chuột), năm
Kỷ Dậu (gà) (1009), đúng Thỏ gà trong tháng chuột, nhân dân được hưởng thời kỳ dài
Nhất định thấy trời lên.
Thế kỷ X, hai cuốn Việt Sử lược và Đại Việt Sử ký toàn thư ghi: “thời nhà Đinh, năm Giáp
Tuất, hiệu Thái Bình năm thứ 5 (974) được lời sấm:
“Đỗ Thích giết hai Đinh
Nhà Lê sinh thánh minh...”
Vài năm sau, trong bữa tiệc tối, vua say rượu nằm trong sân, Đỗ Thích nhân cơ hội giết
vua và người con cả Nam Việt Vương Đinh Liễn, đúng là Đỗ Thích giết hai Đinh. Con trai
thứ là Đinh Toàn lên, vua nhỏ tuổi không biết việc nước, văn võ bá quan liền suy tôn tướng
quân Lê Hoàn. Vua Lê đảm đương việc nước, ổn định xã hội, nhân dân hưởng cuộc sống
ấm no, hạnh phúc và đánh tan giặc Tống sang xâm lược, đúng là Nhà Lê sinh thánh minh.
Thế kỷ XI, Thiền sư Vạn Hạnh tu tại chùa Lục Tổ, hương Cổ Pháp, ông tiên tri nhiều sự
việc, vua Lê Đại Hành tôn kính, thường mời ông vào hỏi việc lớn.
Thời vua Lê Ngọa Triều tham tàn, bạo ngược, nhân dân oán ghét, giặc cướp khắp nơi, Vạn
Hạnh thấy trước sự thay đổi, viết thơ tiên tri:
“Tật Lê chìm bể Bắc
Hạt Lý mọc trời Nam...
Tám cõi mừng bình an”(4)
Vài năm sau, Lý Công Uẩn lên ngôi vua Hạt Lý mọc trời Nam, đất nước thái bình, nhân
dân hưởng cuộc sống ấm no, xã hội ngày càng phát triển, định hình nền văn hóa Lý đậm
dấu ấn Phật, thật đúng Tám cõi mừng bình an.
Thế kỷ XII, vua Lý Nhân Tông linh thông Phật pháp, thấu hiểu vai trò, tầm trí tuệ vượt bậc
của sư Vạn Hạnh, vua ca ngợi:
“Vạn Hạnh dung ba cõi
Thật hiệp lời sấm xưa...
Chống gậy trấn kinh đô”(5)
Thế kỷ XX, tập sấm Trạng Trình tiên tri một số sự kiện lớn của dân tộc, câu 41, tiên tri
Cách mạng Tháng Tám (1945):
“...Đầu Thu gà gáy xôn xao
Trăng xưa sáng tỏ soi vào Thăng Long”(6)
Câu 1, Cách mạng tháng Tám (1945) vào tháng 7 âm lịch đầu Thu, năm Ất Dậu (năm gà)
thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập nổi tiếng, được loài người
đánh giá cao, đúng là Đầu Thu gà gáy xôn xao thức tỉnh muôn người.
Câu 2, chiết tự từ Trăng xưa gồm hai chữ nguyệt và cổ, ghép lại là tên dòng họ Hồ và Hồ
Chí Minh lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa giành độc lập, tự do, dựng nền cộng hòa, dân chủ,
thật đúng sáng tỏ soi vào Thăng Long.
Câu thơ 35, tiên tri chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (1954):
Cửu cửu càn khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết Hoa tàn
Trực đáo Dương đầu Mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập Tràng An(7)
Bác Hồ ở Việt Bắc
Câu 2, gần năm thế kỷ nội chiến, tranh giành quyền, địa vị giữa các thế lực Nguyễn, Lê,
Trịnh, Mạc... cùng bọn cướp, phỉ khắp nơi làm cho nhân dân chịu nhiều đau khổ. Đến thời
Võ tướng ra binh, Người anh cả Quân đội Nhân dân Việt Nam đã lãnh đạo tài tình đánh
tan thù trong, giặc ngoài, nhân dân được hưởng Ắt là trăm họ thái bình âu ca, chấm dứt
năm thế kỷ bi thương và nhục nhã.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là một trong những trận đánh “làm thay đổi bộ mặt thế
giới”, niềm tự hào chung của các dân tộc thuộc địa và vai trò hai con người Hồ Chí Minh
- Võ Nguyên Giáp có tầm trong lịch sử, được nhân loại ca ngợi. Trạng Trình sớm tiên tri,
nhấn đậm trọng trách và sự kiện vĩ đại của dân tộc.
Trong tập sấm Trạng Trình còn thơ tiên tri một số sự kiện không thể bỏ qua ở thế kỷ XX.
Thơ tiên tri của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trên thế giới, khác với nhiều lãnh tụ và nhà tiên tri, Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị đứng đầu
Nhà nước duy nhất trong lịch sử nhân loại vào giây phút Giao Thừa, thời khắc thiêng
liêng nhất, có thơ chúc Tết đồng bào, chiến sĩ, dự báo, tiên tri những sự kiện quan trọng
trong năm, vài năm hoặc hàng chục năm sau.
Tết năm 1941, sau hơn 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, tính đúng thời cơ vận nước,
Hồ Chí Minh về nước.
Thời gian này, chiến tranh thế giới lần thứ 2 bắt đầu, phe trục phát xít chủ động tấn công
và giành nhiều vùng đất đai rộng lớn, phe đồng minh bị động liên tiếp thất bại, thiệt hại
nặng nề, thời thế chưa có chiều hướng tốt.
Hồ Chí Minh kịp về nước với hai bàn tay trắng, không quân đội, không vũ khí, không tiền
bạc, căn cứ cách mạng còn manh mỏng, cơ sở vật chất thiếu thốn, không dựa vào thế lực
nước ngoài nào, theo Người chỉ có 43 chàng thanh niên trai tráng, trí tuệ và quả cảm. Lúc
này, quân đội Pháp, Nhật và binh lính Nam Triều khoảng 15 vạn quân tinh nhuệ từng
chinh chiến, vũ khí, khí tài đầy đủ. Không thể so sánh sự tương quan lực lượng, cân bằng
vật chất và luận xét trên nguyên tắc triết học duy lý định lượng, định chất. Vậy mà, Hồ Chí
Minh vừa bước chân về Pắc Bó (Cao Bằng), tự tin viết thơ mừng xuân Pắc Bó hùng vĩ tiên
tri sứ mệnh cao cả mình phải đảm nhận, câu thơ hào sảng và là sấm truyền: “Hai tay xây
dựng một sơn hà”.
Năm 1941, tại chốn rừng sâu heo hút, vắng vẻ, trong hang đá lạnh lẽo, hầu như biệt lập
với lượng thông tin trong và ngoài nước, Hồ Chí Minh viết cuốn Lịch sử nước ta bằng thể
thơ dân gian lục bát, dễ truyền miệng, thấm vào lòng muôn dân, Người trải bầy tâm trí, kết
đọng hàng nghìn năm thăng trầm vận nước như cùng linh giác, thể nhập thơ sấm Trạng