Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

CHỨNG MINH NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA LỊCH SỬ THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI LÀ SỰ KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LỊCH SỬ THẾ GIỚI CẬN ĐẠI.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.86 KB, 18 trang )

MÔN: LỊCH SỬ THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI
ĐỀ: CHỨNG MINH NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA LỊCH SỬ THẾ GIỚI
HIỆN ĐẠI LÀ SỰ KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LỊCH SỬ THẾ
GIỚI CẬN ĐẠI.


BÀI LÀM
Lịch sử loài người trải qua bốn thời kỳ lớn: cổ đại, trung đại, cận đại và hiện
đại. Sự ra đời và phát triển của thời kì sau là quá trình gối đầu các vấn đề của thời
kỳ trước đó, nói đúng hơn đó là sự kế thừa và phát triển các vấn đề của thời kỳ
trước. Thời kì trung đại kế thừa tiền đề của thời kì cổ đại, cận đại là giai đoạn kế
tục và phát triển các tiền đề được tạo ra ở thời kì trung đại, và đến thời kì hiện đại
cũng như vậy, đó là bước tiếp nhận những thành tựu của cận đại và phát triển
những vấn đề cận đại ở một mức độ cao hơn. Các vấn đề đó, bao gồm: tư sản và
chủ nghĩa tư bản, vô sản và chủ nghĩa xã hội, phong trào giải phóng dân tộc, cuộc
cách mạng khoa học kĩ thuật, học thuyết Mác...
Bài làm xin được trình bày sự kế thừa và phát triển của hiện đại qua các vấn
đề nêu dưới góc nhìn lịch sử thông qua việc đối chiếu, so sánh các vấn đề trên hệ
quy chiếu lịch đại lẫn đồng đại:
Đầu tiên, giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản.
Như đã biết, Cách mạng tư sản Anh năm 1640 đánh dấu sự ra đời của chủ
nghĩa tư bản. Từ đó đến nay nó trải qua các giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất, chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh (từ khi ra đời đến
năm 1870) diễn ra trong thời kì cận đại.
Cuộc cách mạng tư sản Anh tấn công vào thành trì cũ chế độ cũ để xây dựng
chế độ mới, lật đổ quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu, mở đường cho sức sản
xuất tư bản chủ nghĩa phát triển. Từ sau cuộc cách mạng tư sản Anh, một loạt các
cuộc cách mạng tư sản, đấu tranh giành độc lập, quyền làm chủ của giai cấp tư sản
diễn ra mạnh mẽ trên khắp thế giới, như cuộc chiến tranh cách mạng ở Bắc Mỹ
cuối thế kỉ 18, cách mạng tư sản Pháp (1789), CMTS Hy Lạp ...
Trong khi phong trào cách mạng tư sản không ngừng tiếp diễn thì kinh tế tư


bản chủ nghĩa đã có những bước tiến quan trọng. Anh vươn lên chiếm vị trí hàng
đầu thế giới trong nền kinh tế, tiếp sau đó là nước Pháp. Nền kinh tế của các nước
tư bản có sự phát triển một cách vượt bậc. Trong giai đoạn này chủ nghĩa tư bản
phát triển theo hướng tự do canh tranh. Giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do (hay rộng
hơn là chủ nghĩa tự do kinh tế) gắn với sự ra đời của các nhà nước dân chủ (hay
dân chủ tư sản) và sự phát triển của chủ nghĩa tự do, bao gồm tự do kinh tế. Chủ
nghĩa tư bản thời kỳ này phát triển mạnh, thúc đẩy sự phát triển khoa học kỹ thuật
và tăng năng suất lao động, đã biến nhiều quốc gia trở thành các cường quốc kinh
tế, tuy nhiên gây ra sự phân hóa xã hội sâu sắc, kể cả bóc lột nhân công thường
thấy. Các tư tưởng cải tạo chủ nghĩa tư bản hoặc chủ nghĩa xã hội phát triển. Từ
cuối thế kỷ XIX trở đi, nhà nước từ chỗ hầu như không can thiệp kinh tế, thì lại can


thiệp mạnh mẽ vào cơ chế thị trường, điều chỉnh thu nhập, sau đó là một quá trình
quốc hữu hóa lớn diễn ra ở một số nước.
Giai đoạn thứ hai, giai đọan chủ nghĩa đế quốc phát triển mạn mẽ và sau
sắc nhất (từ 1870 đến 1945), diễn ra vào cuối thời kì cận đại đầu thời kì hiện đại
của lịch sự thế giới. Trong đó, chủ nghĩa tư bản từ những nền tảng được xây dựng
thời kì cận đại phát triển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền. Giai đoạn độc quyền là
sự kế tục trực tiếp giai đoạn tự do cạnh tranh trong cùng một phương thức sản xuất
TBCN. Chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do phát triển đến độ nhất định thì xuất hiện
các tổ chức độc quyền. Lúc đầu tư bản độc quyền chỉ có trong một số ngành, một
số lĩnh vực của nền kinh tế. Hơn nữa, sức mạnh kinh tế của các tổ chức độc quyền
cũng chưa thật lớn. Tuy nhiên, sau này, sức mạnh của các tổ chức độc quyền đã
được nhân lên nhanh chóng và từng bước chiếm địa vị chi phối trong toàn nền kinh
tế. Chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn phát triển mới - chủ nghĩa tư bản độc
quyền. Xét về bản chất, chủ nghĩa tư bản độc quyền là một nấc thang phát triển
mới của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản độc quyền là chủ nghĩa tư bản trong
đó ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế tồn tại các tổ chức tư bản độc
quyền và chúng chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Nếu trong thời kỳ

chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do, sự phân hóa giữa các nhà tư bản chưa thực sự
sâu sắc nên quy luật thống trị của thời kỳ này là quy luật lợi nhuận bình quân, còn
trong chủ nghĩa tư bản độc quyền, quy luật thống trị là quy luật lợi nhuận độc
quyền. Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền vẫn không làm thay đổi được bản
chất của chủ nghĩa tư bản. Bản thân quy luật lợi nhuận độc quyền cũng chỉ là một
hình thái biến tướng của quy luật giá trị thặng dư.
Sự hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền do sự sáp nhập các doanh nghiệp
tạo nên các tập đoàn kinh tế gần như không chịu sự cạnh tranh mang tính tự nhiên
cũng là một đặc điểm trong giai đoạn thứ ba này. Thời kỳ này, theo nhận định của
Lênin, chủ nghĩa tư bản đã trở thành chủ nghĩa đế quốc, đẩy một dân tộc này đánh
một dân tộc khác. Các giai đoạn phát triển thăng trầm của chủ nghĩa tư bản từ năm
1918 đến năm 1939 và sự xuất hiện của chủ nghĩa phát xít dẫn đến chiến tranh thế
giới thứ hai.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, giai đoạn cuối gắn liền với sự phát triển
cao của chủ nghĩa tư bản ở thời kì hiện đại (chủ nghĩa tư bản hiện đại) với những
đặc điểm nổi bật của nó.
Sau Đại chiến thế giới lần thứ hai, sự can thiệp vào nhà nước vào kinh tế và
quá trình quốc hữu hóa lại đẩy lên một tầm cao hơn, cho dù vẫn tồn tại kinh tế thị
trường và đa thành phần kinh tế ở “các nước tư bản” phát triển.
Từ thập niên 1980 lại một xu hướng khác, là quá trình tư hữu hóa và cắt
giảm an sinh xã hội do sự khủng hoảng nền kinh tế. Sự hồi sinh của chủ nghĩa tư


bản mở đầu bởi các nhà bảo thủ mới như Reagan ở Mỹ và Thatcher ở Anh, lan
rộng ra phần lớn thế giới. Tuy nhiên có một trào lưu khác như tại Mỹ la tinh, quá
trình quốc hữu hóa lại diễn ra tại một số nước. Cuộc khủng hoảng kinh tế gần đây
đã ra tăng sự can thiệp của Nhà nước vào các lĩnh vực kinh tế ở một số nước,
nhưng cơ bản không có một quá trình quốc hữu hóa ồ ạt nào diễn ra.
Nhìn chung bức tranh của chủ nghĩa tư bản hiện đại có thể là một quá trình đan xen
nhau giữa tư hữu hóa (“tư bản hóa”) hay quốc hữu hóa (“xã hội hóa”, “Nhà nước

hóa”) ở các quốc gia, mà nguyên nhân từ sự lên cầm quyền của các lực lượng cánh
tả, bao gồm cả những người tự do cánh tả, hay các lực lượng cánh hữu hay cánh tả
thiên hữu nhưng các đặc điểm cơ bản của nó là tự do kinh doanh và cạnh tranh trên
thị trường “mạnh được yếu thua” - quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản từ khởi
nguồn nguyên thủy thì luôn tồn tại trừ một số quốc gia trong một số giai đoạn.
Hiện nay, chủ nghĩa tư bản hiện đại đã có những bước phát triển chưa từng
thấy về kinh tế và khoa học – kĩ thuật, đời sống vật chất và tinh thần của con người
được nâng cao vượt bậc, nhưng trong lòng của chủ nghĩa tư bản hiện đại, vẫn chứa
đựng những mâu thuẫn không thể khắc phục được (sự cạnh trạnh gay gắt giữa các
nước tư bản, sự chêch lệch giàu và nghèo quá lớn, xã hội bất công, tội ác và và bạo
lực...).

 Thứ hai, vấn đề giai cấp vô sản – công nhân và chủ nghĩa xã hội.
Giai cấp công nhân ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của
chủ nghĩa tư bản. Bị áp bức bóc lột tàn khốc, công nhân đứng lên, đấu tranh vì
quyền lợi của giai cấp mình. Những phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân
trong nững năm 30 – 40 của thế kỉ XIX chứng tỏ rằng giai cấp công nhân đã bước
lên vũ đài chính trị với tư thế của một giai cấp độc lập. Nhưng vì chưa có tổ chức
vững mạnh, và không được tranh bị bằng lí luận khoa học, công nhân chưa thể
dành được thắng lợi. các trào lưu xã hội không tưởng không thể đáp ứng yêu cầu
của giai cấp công nhân tron cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản.
Hoạt động cũng như các phong trào đấu tranh của cộng sản và công nhân
quốc tế trưởng thành và phát triển được đánh giấu bởi sự hình thành và phát triển
của tổ chức quốc tế cộng sản, trải dài từ thời kì cạn đại cho tới thời hiện đại.
Đầu tiên, sự thành lập của Hội Liên hiệp Lao động quốc tế (gọi tắt là Quốc tế
I), Quốc tế I là tổ chức quốc tế đầu tiên của giai cấp công nhân, được thành lập
trên cơ sở chủ nghĩa xã hội khoa học. Quốc tế được xây dựng theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, kết hợp đấu tranh kinh tế với đấu tranh chính trị là cơ sở cho cuộc
đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội của giai cấp công nhân. Trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh các loại, Quốc tế I đã khởi thảo những vấn đề cương



lĩnh về chiến lược và sách lược của chính đảng, góp phần làm cho phong trào công
nhân có bước chuyển biến mới, tiến tới thành lập những tổ chức công nhân có tính
chất quần chúng. Quốc tế I, dưới sự lãnh đạo của Mác và Ăngghen đã đào tạo được
nhiều cán bộ trở thành người tổ chức và lãnh đạo những chính đảng vô sản đầu tiên
của phong trào công nhân quốc tế. Quốc tế I đã đấu tranh chống lại những trào lưu
xã hội chủ nghĩa sai trái, chuẩn bị cơ sở cho việc thành lập chính đảng công nhân
trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học. Cùng với việc thành lập các
chính đảng vô sản độc lập, chủ nghĩa Mác ngày càng được truyền bá rộng rãi vào
phong trào công nhân. Đến đầu những năm 70 của thế kỉ XIX, bước vào giai đoạn
mới được đánh dấu bằng những cuộc cách mạng vô sản năm 1871 ở Pháp và sự
thành lập của công xã Pari, nhà nước vô sản đầu tiên của giai cấp công nhân thế
giới. Có thể nói rằng Công xã là con đẻ tinh thần của Quốc tế I.
Sau sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp tư bản sau năm 1870 đã làm cho
giai cấp vô sản các nước tăng nhanh về số lượng và chất lượng. Giai cấp công nhân
ở Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nga phát triển nhanh chóng. Đội ngũ công nhân các nước
này đã tăng nhanh và cuộc đấu tranh bắt đầu với những quy mô lớn có ý nghĩa lịch
sử trong phong trào công nhân quốc tế.
Sau khi công xã Pari thất bại, Quốc tế I cũng giải tán, phong trào công nhân bắt
đầu thời kì mới tập hợp lực lượng, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư
bản.
Mác – Ăngghen với uy tín lớn lao vẫn tiếp tục lãnh đạo phong trào công
nhân quốc tế, chuẩn bị về mặt tổ chức và lí luận cho giai cấp công nhân. Phong
trào công nhân quốc tê so với thời kì trước công xã đã phát triển rộng rãi hơn, hoạt
động trên phạm vi lớn hơn ở nhiều nước. Ở một số nước châu Âu và châu Mỹ
thành lập đảng công nhân, đảng xã hội hay các nhóm có khuynh hướng tiến bộ
cách mạng của giai cấp công nhân: đảng Xã hội dân chủ Đức (1869), các đảng
công nhân ở Hà Lan (1870), Pháp (1879), Mỹ (1876)....Sự ra đời của các chính
đảng công nhân dù còn nhiều mặt hạn chế, cũng đã đánh dấu việc lớn lên của

phong trào công nhân các nước.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân thế giới phát triển mạnh mẽ từ
cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX do ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác. Dẫn đến sự ra
đời của tổ chức Quốc tế cộng sản hai. Đánh dấu và sự trưởng thành về mặt tổ chức
cũng như lí luận của giai cấp công nhân, mà những người đứng đầu là Mác và
Ăngghen.
Đại hội Pari năm 1889 có ý nghĩa lịch sử đặc biệt. Nó khôi phục quốc tế của
phong trào công nhân, tiếp tục sự nghiệp đấu tranh cho thắng lợi của chủ nghĩa
Mác. Sau đại hội Pari, phong trào công nhân châu Âu đạt được những thành tích


đáng kể dưới ảnh hưởng của Quốc tế II. Năm 1890, chính quyền phản dộng Đức
buộc phải xóa “đạo luật đặc biệt” và trong cuộc tuyển cử, giai cấp công nhân Đức
đã giành được thắng lợi lớn. 1/5/1890, nhiều thành phố châu Âu, công nhân biểu
dương lực lượng rầm rộ thu hút hàng vạn chục người tham gia. Phong trào công
nhân ở Anh, ở Pháp phát triển mạnh mẽ.
Sự ra đời và phát triển của Quốc tế cộng sản thứ hai ảnh hương đến cao trào
đấu tranh của công nhân Nga, mà đỉnh cao là Cách mạng tháng Mười (1917).
Giai cấp vô sản Nga xuất hiện và lớn mạnh nhanh chóng. Từ đầu những năm
40 của thế kỉ XIX, giai cấp công nhân Nga đã có hàng triệu người riêng công nhân
cơ khí 1,5 triệu. Phong trào công nhân dưới ảnh hưởng của những người mácxít và
tổ chức của họ phát triển. Năm 1883, nhóm Giải phóng lao động do Plêkhanốp ra
đời, đây là nhóm mác xít đầu tiên ở Nga. Năm 1895, Lê nin hợp nhất các tổ chức
mác xít của công nhân ở Pê téc bua thành Hội liên hiệp đấu tranh giải phóng giai
cấp công nhân....mầm móng đầu tiên của một chính đảng vô sản.
Tại Đại hội II của Đảng Công nhân xã hội Nga (7 – 1903) ở Luân Đôn đã
thành lập Đảng, thông qua cương lĩnh của Đảng và khẳng định nhiệm vụ chủ yếu
của Đảng là làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, đánh đổ chính quyền của bọn tư bản,
thành lập chuyên chính vô sản. Đồng thời, Đảng đã đề ra nhiệm vụ trước mắt là
đánh đổ chế độ Nga hoàng, thành lập nước cộng hòa, thi hành những cải cách dân

chủ, giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân. Ở Đại hội đại biểu lần III đề ra
khẩu hiệu của cách mạng là thành lập nước cộng hòa dân chủ, tịch thu ruộng đất
của địa chủ chia cho nông dân, thực hiện ngày làm 8 giờ. Những điều này cho thấy
phong trào công nhân Nga được xây dựng, củng cố về tổ chức, dần trang bị về mặt
lý luận khoa học.
Trong bài “Quốc tế thứ ba và địa vị của nó trong lịch sử” vào tháng 4 -1919,
Lênin đã vạch rõ Quốc tế cộng sản là người thừa kế và người kế tục sự nghiệp
Quốc tế thứ nhất: “Ý nghĩa lịch sử của Quốc tế thứ ba đối với toàn thế giới là đã
bắt đầu đem thực hiện cái khẩu hiệu vĩ đại nhất của phong trào công nhân, tức là
khẩu hiệu quy định bởi khái niệm: chuyên chính vô sản”.
Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) đã ghi một mốc son chói lọi
trong lịch sử phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đánh dấu
thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với chủ nghĩa cơ hội, xét lại; góp phần đẩy
nhanh sự hình thành các Đảng Cộng sản ở nhiều nước; Quốc tế Cộng sản đã có
công lao to lớn trong việc tổ chức và lãnh đạo phong trào cộng sản và công nhân
trên thế giới, là trung tâm đoàn kết các đảng cách mạng chân chính trên thế giới
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng nhân loại khỏi áp bức của chủ nghĩa đế quốc.


Đỉnh cao của phong trào cách mạng vô sản thế giới là thắng lợi vẻ vang của Cách
mạng tháng Mười, mà ở đó do giai cấp vô sản – công nhân cầm quyền lãnh đạo
cách mạng, có tổ chức chính đảng là Đảng cộng sản Nga. Cách mạng tháng Mười
Nga đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng của giai cấp công nhân các nước chỉ
ra cho họ con đuocngừ đi tới thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư
bản. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười , một cao trào cách mạng vô
sản đã dấy lên sôi nổi ở châu Âu trong những năm 1818 – 1923, làm chấn động dữ
dội nền thống trị của giai cấp tư sản độc quyền ở nhiều nước. Một loạt các đảng
của giai cấp công nhân ra đời ở các nước thuộc địa và nữa thuộc địa ở giai đoạn
sắp tới “Đảng cộng sản”.
Giai đoạn phát triển cao của phong trào cộng sản quốc tế bắt đầu từ sau

Chiến tranh thế giới thứ hai (1945) đến giữa những năm 70. Đây là giai đoạn phát
triển cao nhất của phong trào cộng sản quốc tế. Cuối giai đoạn này, Đảng Cộng sản
đã hoạt động ở hơn 90 nước trên thế giới với hơn 175 triệu đảng viên (trong dó, 15
Đảng cộng sản cầm quyền ở 15 nước xã hội chủ nghĩa với gần 70 triệu đảng viên.
28 Đảng Cộng sản ở các nước tư bản phát triển gồm 3,5 triệu đảng viên). Thành
tựu lớn nhất của phong trào cộng sản quốc tế là sự ra đời của hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới, làm thay đổi bộ mặt hành tinh thế giới chúng ta.Từ những năm
1944 – 1945 đến 1949, một loạt nước dân chủ nhân dân ở châu Âu và châu Á xuất
hiện, cùng với Liên Xô - nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới - hình thành
hệ thống XHCN thế giới. Từ đây, thế giới chia làm hai phe, hai cực đối địch nhau.
Cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống ảnh hưởng to lớn, có tính quyết định đến lịch sử
phát triển chính trị thế giới. Sự ra đời và phát triển của hệ thống XHCN thế giới
với 1/4 diện tích trái đất và gần l/3 dân số nhân loại với những tiềm lực và thành
tựu to lớn trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học - kĩ
thuật sau chiến tranh là nhân tố quan trọng, có vai trò đặc biệt đối với sự phát triển
tiến bộ của thế giới trong suốt mấy thập niên giữa thế kỉ XX.
Sự hình thành và phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới sau Chiến
tranh thế giới thứ hai không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên mà là sự kế tiếp và
là kết quả đấu tranh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế kéo dài hàng thế
kỉ. Từ giữa thế kỉ XIX, khi mới ra đời phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
chủ nghĩa xã hội mới chỉ được coi như một ''bóng ma ám ảnh châu Âu''. Phải trải
qua hơn nửa thế kỉ đấu tranh, tích lũy và chuẩn bị (chuẩn bị lí luận cách mạng,
chuẩn bị tổ chức và lực lượng cách mạng, diễn tập qua Công xã Pari 1871 và cách
mạng dân chủ tư sản Nga 1905-1907,…) đến năm 1917, chủ nghĩa xã hội mới
thắng lợi đầu tiên ở một nước (Liên Xô). Phải trải qua không biết bao nhiêu khó
khăn, gian khổ và hi sinh xương máu, phải đánh bại tất cả các cuộc tấn công của
các lực lượng thù địch (tiêu biểu là cuộc bao vây, can thiệp quân sự của 14 nước tư
bản những năm 1918-1920 và đặc biệt là cuộc tấn công xâm lược của phát xít Hitle



những năm 1941-1945), mới bảo vệ được nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế
giới và tạo điều kiện cho chủ nghĩa xã hội vượt ra khỏi phạm vi một nước, trở
thành hệ thống thế giới. Như thế, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới là “con đẻ chủ
yếu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế” và phong trào giải phóng dân
tộc.
Như vậy, phong trào cộng sản quốc tế chuyển từ một tổ chức quốc tế tập
trung thống nhất cao, có kỉ luật chặt chẽ nghiêm ngặt trước đây sang một phong
trào chính trị quốc tế của các Đảng Cộng sàn tương đối độc lập, tự chủ, quan hệ
với nhau bằng tình đoàn kết giai cấp có tính quốc tế, với những nguyên tắc tư
tưởng và chiến lược chung. Từ năm 1947 đến 1956, hình thức trao đổi kinh nghiệm
và thống nhất các hoạt động của một số Đảng Cộng sản (chủ yếu là châu Âu) là
Hội nghị thông tin của các đại biểu các đảng này, gọi tắt làCục Thông tin quốc tế
(Cục Thông tin cộng sản). Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các Đảng Cộng sản
và công nhân đã tổ chức được nhiều Hội nghị quốc tế để trao đổi ý kiến, thảo luận,
đánh giá các vấn đề lớn của thời đại như chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản, phong
trào độc lập dân tộc, phong trào công nhân quốc tế và đề ra phương hướng, nhiêm
vụ của phong trào, của các đảng ở các khu vực, những vấn đề lí luân, chiến lược và
sách lược của phong trào cộng sản quốc tế. Đó là các hội nghị quốc tế của các
Đảng Cộng sản và công nhân thế giới những năm 1957, 1960 và 1969 ở Matxcơva
với sự tham gia của đa số các Đảng Cộng sản trên thế giới, sau đó là hội nghị các
Đảng Cộng sản châu Âu năm 1976.
Thứ ba, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.
Về phong trào giải phóng dân tộc.
Sự phát triển và thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc của các nước
châu Á, Phi, Mỹ latinh trong thời kì hiện đại: bước phát triển mới của cách mạng
giải phóng dân tộc sau Cách mạng tháng Mười (1918 – 1945); thắng lợi của của
cách mạng giải phóng dân tộc và sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa
đế quốc sau Chiến tranh thế giới thứ hai; công cuộc xây dựng đất nước của dân tộc
Á, Phi , Mỹ latinh sau khi giành lại được độc lập dân tộc. Thắng lợi của sự nghiệp
cách mạng giải phóng dân tộc là một trong những biến chuyển to lớn làm thay đổi

căn bản tình hình thế giới và bộ mặt xã hội loài người.
Trong suốt cả thời kỳ từ năm 1871 đến năm 1904, trình độ và quy mô của phong
trào công nhân ở các nước thuộc địa và các nước phụ thuộc rất khác nhau. Song,
dù có những sự khác nhau đáng kể, phong trào công nhân ở các nước ấy vẫn có nét
chung là tiến chậm hơn nhiều so với phong trào công nhân ở các nước tư bản chủ
nghĩa phát triển nhất lúc bấy giờ về trình độ tổ chức, về việc thu hút công nhân vào
các cuộc đấu tranh giai cấp, về trình độ giác ngộ giai cấp, về việc nắm vững các


hình thức và phương pháp chống ách áp bức và bóc lột trong các lĩnh vực kinh tế,
xã hội và chính trị.
Sở dĩ phong trào công nhân tiến chậm là do toàn bộ các nhân tố, trước hết là
do trình độ phát triển kinh tế thấp và kể cả về xã hội. Vào cuối thế kỷ XIX, các
nước Á, Phi, Mỹ La Tinh bị cuốn hút vào quỹ đạo của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
thế giới, điều này gắn liền với việc chủ nghĩa tư bản trước độc quyền phát triển
thành chủ nghĩa đế quốc, và các nước phát triển chuyển sang tăng cường xuất khẩu
tư bản vào các nước thuộc địa và nữa thuộc đại. Ở tất cả các nước này, sự phát
triển tư bản chủ nghĩa đã được đẩy nhanh. Tuy nhiên, điều đó đã diễn ra trong
những điều kiện rất đặc biệt, khác với những điều kiện ở châu Âu. Nhân tố kìm
hãm, một mặt là chế độ bóc lột thực dân, mặt khác là sự trói buộc của các hình
thức kinh tế cổ truyền.
Sự thống trị của nước ngoài kết hợp với sự bền vững của các thể chế phong
kiến trong các nền kinh tế và trong đời sống xã hội đã gây nên những khó khăn to
lớn cho giai cấp vô sản đang hình thành trên con đường đi tới chổ tự quyết về mặt
giai cấp, tới chổ thành lập cách tổ chức của mình và phát triển cuộc đấu tranh
thắng lợi các quyền kinh tế và chính trị của mình.
Mức độ bóc lột nặng nề không thể tưởng được, tiền công chết đói tại một số công
xưởng tư bản chủ nghĩa, mối liên hệ chặt chẽ giữa công nhân với nông thôn các
nước này, tất cả điều đó đã quyết định của tâm lý tiểu tư sản, cũng như lối sống và
nếp suy nghĩ cổ truyền của họ. Sự phục tùng chính quyền đã giáo dục trong nhân

dân suốt hàng thế kỷ và ý thức nhẫn nhục trước bọn thực dân cũng đã gây rất nhiều
khó khăn cho quần chúng tích cực tham gia đấu tranh chính trị.
Quá trình phong trào vô sản chính mùi ở các nước thuộc địa và các nước phụ
thuộc đang diễn ra nhanh chóng hơn do ảnh hưởng của cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân phương Tây lúc đó đã một chặn đường phát triển dài. Hàng vạn người,
cái gọi là công nhân thừa di cư từ chính quốc sang các nước Á, Phi, Mỹ latinh đã
trở thành những người trực tiếp truyền bá ảnh hưởng cách mạng hóa phương Tây.
Điều đó đã góp phần phát triển các hình thức hiện đại của phong trào vô sản có tổ
chức ở các nước phụ thuộc, đặc biệt là ở lục địa Mỹ latinh.
Một nhân tố quan trọng nữa là phong trào giải phóng dân tộc, mà trong
phong trào đó đã nổ ra cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản Á, Phi, Mỹ latinh đang
hình thành và chưa ý thức được rằng mình là một giai cấp. Phong trào giải phóng
dân tộc đã lôi cuốn giai cấp vô sản vào cuộc đấu tranh chính trị, là trường học của
giai cấp vô sản để làm quen với tính tổ chức, là trường học giáo dục ý chí kiên
quyết và phương pháp đấu tranh rõ rệt. Ngoài ra còn giúp cho giai cấp vô sản nhận
thấy được sức mạnh to lớn của mình, đoàn kết với các nhóm chính trị khác trong
xã hội, nhưng cùng chí hướng để cùng nhau đấu tranh giải phóng dân tộc. Đồng
thời, vì vai trò lãnh đạo trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thường nằm trong


tay các tầng lớp xã hội thuộc giai cấp tư sản, nên cuộc tham gia đấu tranh đó đã
che giấu tính đặc thù của lợi ích giai cấp vô sản và nhiệm vụ đặc biệt của nó.
Nét tiêu biểu là trong trạng thái phôi thai, cuộc đấu tranh của công nhân làm thuê ở
các nước thuộc địa và các nước phụ thuộc đã bắt đầu biểu hiện nhiều nét vốn có
của phong trào vô sản ở các nước tư bản phát triển. Trước hết là các cuộc bãi công
tự phát, chưa có tổ chức tuy vậy cũng đã bộc lộ xu hướng của giai cấp công nhân
muốn đoàn kết lực lượng của mình. Chính vậy trong các cuộc bãi công và các cuộc
đấu tranh khác, mà giai cấp vô sản ở các nước thuộc địa và phụ thuộc đã tiến
những bước đầu tiên nhằm thống nhất và thành lập các tổ chức của mình.
Sau thế chiến thứ hai, phong trào giải phóng dân tộc đã phát triển mạnh mẽ ở

nhiều nước Á, Phi, Mỹ Latinh.
Hầu hết các quốc gia ở những khu vực này đã giành được độc lập dân tộc,
làm tan rã hệ thống thuộc điạ cuả chủ nghĩa thực dân.
Ở châu Á.
Phong trào giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ngay sau Thế chiến thứ hai,
dẫn đến sự ra đời của hàng loạt quốc gia độc lập.
Ở Trung Quốc: cuộc nội chiến Cách mạng 1946-1949 đã lật đổ nền thống
trị cuả tập đoàn Tưởng Giới Thạch, thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa
(1/10/1949), đưa nhân dân Trung Quốc vào thời kỉ nguyên độc lập, tự do và tiến
lên chủ nghiã xã hội.
Ở Ấn Độ: sự lớn mạnh của phong trào giải phóng dân tộc đã buộc đã buộc
thực dân Anh phải thay đổi hình thức cai trị. 26/1/1950, Ấn Độ tuyên bố độc lập,
nước Cộng hoà Ấn Độ ra đời.
Ở Triều Tiên: sau Thế chiến thứ 2, Triều Tiên tạm thời chia làm 2 miền
quân quản (quân đội Liên Xô đóng quân ở miền Bắc vĩ tuyến 38°, quân đội Mỹ
đóng quân ở Nam vĩ tuyến 38°).
+ Ở Bắc Triều Tiên: nhân dân Triều Tiên đã xây dựng chính quyền nhân dân,
thực hiện các cải cách dân chủ.
+ 9/1948, nước Cộng hoà dân chủ Nhân dân Triều Tiên ra đời tiến hành xây
dựng chủ nghiã xã hội, đạt được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế, văn hoá, giáo
dục, giao thông vận tải.
+ Ở Nam Triều Tiên, 5/1948, Mỹ lập ra chính phủ Lý Thừa Vãn, thành lập
nước Đại Hàn Dân Quốc (Hàn Quốc).
+ Gần đây, Hàn Quốc đã trở thành nước công nghiệp mới (NIC) với nền
nông nghiệp, giao thông và giáo dục hiện đại...


Ở Trung Đông:
+ Sau Thế chiến thứ hai, mâu thuẫn và tranh chấp giưã Mỹ, Anh, Pháp nhằm
khống chế khu vực này là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây bất ổn định ở

Trung Đông (chiến tranh, xung đột tôn giáo và dân tộc, tranh chấp lãnh thổ...).
+ Đến nay, hầu hết các nước Trung Đông đều giành được độc lập dân tộc.
+ Nhờ dầu lửa mà nhiều nước trở nên trù phú về kinh tế, song tình hình
Trung Đông vẫn phức tạp, căng thẳng, để lại nhiều hậu quả nặng nề cho khu vực
(điển hình là cuộc chiến tranh vùng Vịnh - 1991).
Ở Đông Nam Á:
+ Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo
nhân dân Việt Nam làm cuộc đảo Cách mạng tháng Tám thành công.
+ 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
+ Sau đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhân dân Việt Nam đã tiến
hành hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đến 30/4/1975 thì thắng lợi
hoàn toàn và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước.
+ Thắng lợi của 3 nước Đông Dương năm 1975 là đỉnh cao của cuộc kháng
chống chủ nghĩa đế quốc, chống chủ nghĩa thực dân ở Đông Nam Á nói riêng và
châu Á nói chung .
=> Sau khi giành độc lập các nước Châu Á bước vào công cuộc xây dựng
đất nước, phát triển kinh tế - xã hội. Trong quá trình này, có nhiều nước có những
thành công đáng kể như Trung Quốc, Ấn Độ, Singapo, Hàn Quốc, Malaysia...
Ở châu Phi.
- Sau Thế chiến thứ hai, châu Phi trở thành một trung tâm của phong trào
giải phóng dân tộc thế giới.
- Trải qua hơn nữa thế kỉ đấu tranh, các nước châu Phi đã đánh đuổi được
bọn thực dân, giành độc lập dân tộc.
- Nhiều nước châu Phi (chủ yếu ở Bắc Phi) đã có những bước phát triển về
kinh tế xã hội.
- Tuy nhiên, những hậu quả cuả chủ nghĩa thực dân đối với châu Phi còn rất
nặng nề: đòi hỏi các nước châu Phi phải có nỗ lực to lớn cùng với sự giúp đỡ tích
cực của cộng đồng quốc tế để vươn lên, tiến kịp với các nước trên thế giới.
Ở châu Mỹ Latinh.



- Sau Thế chiến thứ hai, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đã diễn ra
sôi nổi ở hầu khắp các nước Mỹ latinh.
- Sau hơn nửa thế kỉ liên tục đấu tranh điển hình là phong trào giải phóng
dân tộc của nhân dân Cuba, các nước Mỹ latinh đã khôi phục lại độc lập chủ quyền
và tiến lên vũ đài chính trị với tư thế độc lập, tự chủ, kinh tế ngày càng phát triển
(Brazil, Mêhico...).
- Bộ mặt khu vực Mỹ Latinh, đặt biệt là những trung tâm kinh tế thương mại
... đã có những thay đổi căn bản.
Phong trào giải phóng dân tộc phát triển đến đỉnh cao đã kép lại thời kì đen
tối, mù mịt, đầy rẫy những áp bức, bóc lột ở các quốc gia Á, Phi Mỹ latinh, thiết
lập nền độc lập tự chủ cho tất quốc gia trên thế giới. Mở ra một kỷ nguyên độc lập
cho toàn nhân loại như bản tuyên ngôn độc lập của Mỹ tuyên bố năm 1776: “”
Có thể thấy rằng, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ,
có thể đi đến chiến thắng tuyệt đối, không còn là những chiến thắng nhất thời, tồn
tại trong khoảng thời gian ngắn như những thành quả của phong trào trong thời kì
cận đại nữa, ở đó là kết quả của việc kế thừa những thành quả cách mạng, những
bài học kinh nghiệm từ sau thất bại của các phong trào đấu tranh trong thời cận đại.
Thứ tư, sự kế thừa và phát triển của chủ nghĩa cộng sản khoa học do C.Mác
và Ph. Ăngghen đề xướng những năm 40 của thế kỉ thứ XIX, được Lênnin
thời kì lịch sử hiện đại tiếp thu, hoàn thiện và vận dụng một cách sáng vào
hoàn cảnh cụ thể nước Nga, hình thành học thuyết Mác – Lênnin, “chủ nghĩa
xã hội tiến bộ” của nhân loại.
Học thuyết về chủ nghĩa cộng sản khoa học do C. Mác. Ph. Ăngghen ra đời
trong những điều kiện nhất định của sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa và và
của mối quan hệ mâu thuẫn tư bản và vô sản , giải thoát người lao dộng khỏi ách
áp bức, bóc lột, giương lên ngọn cờ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Sự xuất hiện tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản vào đầu năm 1848 do
C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo đánh dấu sự hình thành về cơ bản chủ nghĩa xã

hội khoa học. Những nguyên lý cơ bản được nêu ra trong tác phẩm này đã đặt cơ
sở cho chủ nghĩa xã hội khoa học, nó thừa nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân là người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản và là người xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Nó chứng minh cách mạng xã hội chủ nghĩa là điều kiện tất yếu để chuyển chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, để giai cấp công nhân từ giai cấp bị bóc lột trở
thành giai cấp thống trị cả về chính trị và kinh tế. Nó thừa nhận vai trò lãnh đạo
của Đảng cộng sản trong cuộc đấu tranh vì một xã hội mới. Nó cũng chứng minh


sự cần thiết phải thực hiện chủ nghĩa quốc tế vô sản trong phong trào cộng sản và
công nhân…
Từ những sự kiện của cách mạng dân chủ tư sản của các nước Tây Âu
(1848-1851), việc thành lập Quốc tế I (1864). Điều nổi bật trong thời kỳ này được
đánh dấu bằng việc xuất bản tập I bộ Tư bản của Mác (1867) khẳng định thêm một
cách vững chắc địa vị kinh tế – xã hội và vai trò lịch sử của giai cấp công nhân.
Trong thời kỳ này, lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học được phát triển phong
phú thêm nhờ tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của giai cấp công nhân. Mác đã rút
ra kết luận hết sức quan trọng là, để giành lại quyền thống trị về chính trị, giai cấp
công nhân cần đập tan bộ máy nhà nước quan liêu tư sản, xây dựng một nhà nước
mới, nhà nước chuyên chính vô sản. Các nhà sáng lập chủ nghĩa khoa học đã xây
dựng học thuyết về cách mạng không ngừng, về liên minh giai cấp của giai cấp
công nhân, về chiến lược, sách lược đấu tranh giai cấp, về lựa chọn các phương
pháp và hình thức đấu tranh trong các thời kỳ phát triển và suy thoái của cách
mạng, v.v...…
C.Mác và Ph.Ăngghen phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học trên cơ sở tổng
kết kinh nghiệm Công xã Pari, được thể hiện trong các tác phẩm chủ yếu Nội chiến
ở Pháp, Phê phán Cương lĩnh Gôta, Chống Đuyrinh, Sự phát triển của chủ nghĩa
xã hội từ không tưởng đến khoa học, Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu
và của nhà nước...…
Trong các tác phẩm này, các ông đã nêu nhiều luận điểm quan trọng về phá

huỷ bộ máy nhà nước tư sản, về một số nguyên lý xây dựng nhà nước mới, thừa
nhận Công xã Pari là một hình thái nhà nước của giai cấp công nhân. Ở thời kỳ
này, nhất là trong hai tác phẩm Phêphán cương lĩnh Goota và Chống Đuyrinh,
C.Mác và Ph.Ăng ghen đã trình bày khá tập trung dự kiến khoa học về chủ nghĩa
xã hội với những nét khái quát: Hình thái cộng sản chủ nghĩa chia thành hai giai
đoạn thấp và cao; về mục đích, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản khác về cơ
bản với tất cả các xã hội đã từng tồn tại trong lịch sử. Đó là một xã hội tạo mọi
điều kiện để phát huy năng lực của con người và nhằm thoả mãn những nhu cầu
ngày càng tăng của con người. Để đạt mục đích trên, các ông chỉ ra một số phương
hướng cần phải làm...
Như mọi hệ thống khoa học khác, chủ nghĩa Mác nói chung, chủ nghĩa xã
hội khoa học nói riêng là một hệ thống chỉnh thể tri thức. Trong hệ thống ấy, có các
tri thức về các nguyên lý cơ bản phản ánh các quy luật vận động biến đổi của xã
hội là những tri thức phản ánh bản chất của khách thể, chúng tồn tại mãi mãi với
thời gian và không ngừng được bổ sung, hoàn thiện. Các tri thức về cách thức, biện
pháp và phương pháp vận dụng các quy luật ấy có thể thay đổi và cần phải thay đổi
theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điều này, với tư cách là những nhà khoa học


chân chính, sinh thời chính C.Mác và Ph. Ăngghen cũng đã căn dặn chúng ta. Điều
quan trọng là không thể và không bao giờ được cho rằng những hạn chế, nhược
điểm thậm chí cả sai lầm trong các cách thức, biện pháp tác động mà các ông nêu
ra là những sai lầm của cả các tri thức phản ánh quy luật đã được nhận thức. Điều
này cũng giống như, không thể vì những thất bại của hàng nghìn thí nghiệm của
Êđixơn nhằm sáng chế ra đèn điện mà lại nói rằng nguyên lý về sự có thể chuyển
điện năng thành nhiệt năng là sai lầm.
Lênin vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học thời kỳ
trước Cách mạng Tháng Mười Nga.
Trên cơ sở kế thừa và vận dụng sáng tạo các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
xã hội khoa học, phân tích và tổng kết một cách nghiêm túc các sự kiện lịch sử

diễn ra trong đời sống kinh tế - xã hội của hoàn cảnh lịch sử mới, V. I. Lênin phát
hiện và trình bày một cách có hệ thống những khái niệm, phạm trù khoa học phản
ánh những quy luật, những thuộc tính bản chất chi phối sự vận động biến đổi của
đời sống xã hội trong quá trình chuyển biến tất yếu từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đó là các tri thức về đảng kiểu mới của giai
cấp công nhân, về các nguyên tắc tổ chức, cương lĩnh, sách lược trong nội dung
hoạt động của Đảng; về cách mạng xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản, cách
mạng dân chủ tư sản kiểu mới và các điều kiện tất yếu cho sự chuyển biến sang
cách mạng xã hội chủ nghĩa; những vấn đề mang tính quy luật của cách mạng xã
hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vấn
đề dân tộc và cương lĩnh dân tộc, đoàn kết và liên minh của giai cấp công nhân với
nông dân và các tầng lớp lao động khác; những vấn đề về quan hệ quốc tế và chủ
nghĩa quốc tế vô sản, quan hệ cách mạng xã hội chủ nghĩa với phong trào giải
phóng dân tộc.
Bên cạnh hoạt động lý luận, V.I. Lênin đã từng bước lãnh đạo Đảng của giai
cấp công nhân Nga tập hợp lực lượng đấu tranh chống chế độ chuyên chế Nga
hoàng, tiến tới giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động
Nga.
V.I. Lênin vận dụng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học thời kỳ sau
Cách mạng Tháng Mười.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, do yêu cầu của công cuộc xây
dựng chế độ mới, V. I. Lênin đã tiến hành phân tích làm rõ nội dung, bản chất của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác định cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã
hội, xây dựng và bắt tay tổ chức các chính sách kinh tế, xác định chính sách kinh tế
mới nhằm sử dụng và học tập các kinh nghiệm tổ chức, quản lý kinh tế của chủ
nghĩa tư bản để cải tạo nền kinh tế tiểu nông lạc hậu của nước Nga Xô viết.


Cũng trong thời kỳ này, V. I. Lênin đã viết nhiều tác phẩm kinh điển trong đó
nêu ra và luận giải cho một loạt những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa

học, đấu tranh chống lại mọi trào lưu của chủ nghĩa cơ hội - xét lại, chủ nghĩa giáo
điều và bệnh "tả khuynh" trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Cùng với những cống hiến hết sức to lớn cả về lý luận và chỉ đạo thực tiễn
cách mạng, V. I. Lênin còn nêu một tấm gương sáng ngời về lòng trung thành vô
hạn với lợi ích của giai cấp công nhân, với lý tưởng cộng sản do C. Mác, Ph.
Ăngghen phát hiện và khởi xướng; đồng thời Người cũng luôn phê phán bệnh giáo
điều để phát triển sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa học. Những điều đó đã làm cho
V. I. Lênin trở thành một thiên tài khoa học và một lãnh tụ kiệt xuất của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới.
Sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học từ sau khi V.I.
Lênin từ trần (từ 1924 đến nay).
Hơn 80 mươi năm đã trôi qua kể từ khi Lênin từ trần, chủ nghĩa xã hội khoa
học, phong trào cách mạng của giai cấp công nhân thế giới đã trải qua nhiều thử
thách to lớn, đã có được nhiều thắng lợi vĩ đại và cũng đã có những tổn thất to lớn.
Có thể nêu một cách vắn tắt nhưng đầy đủ những nội dung cơ bản phản ánh
sự vận dụng, phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học trong khoảng 80 năm qua như
sau:
- Mọi thắng lợi cơ bản, quan trọng của nhân dân lao động, của cách mạng
thế giới trong thế kỷ XX đều có phần đóng góp trực tiếp, cơ bản và rất quan trọng
của chủ nghĩa xã hội, của sự vận dụng thành công những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa xã hội khoa học vào thực tiễn phong trào cộng sản và công nhân quốc tế ở
mỗi nước cũng như của cả hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Trong đó thắng lợi
vĩ đại nhất là đã đưa nhân dân thế giới thoát khỏi họa phát xít, là tiền đề quan trọng
nhất dẫn đến sự tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ và mới, là sự hình thành và phát
triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa... Điều này đã đẩy nhanh tiến trình vận động
của quy luật lịch sử nhân loại về phía trước. Cùng với những thành tựu trong đấu
tranh, cách mạng, trong hoà bình xây dựng, các nước xã hội chủ nghĩa đã góp phần
quan trọng vào đấu tranh vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội trên toàn thế giới.
- Các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế đã tổng kết nêu ra và tiếp tục
phát triển bổ sung nhiều nội dung quan trọng cho chủ nghĩa xã hội khoa học, cả về

lý luận lẫn các vấn đề về phương hướng, giải pháp tác động, chủ trương chính sách
xây dựng chế độ xã hội mới ở mỗi nước, góp phần quan trọng vào quá trình vận
dụng sáng tạo, phát triển bổ sung và hoàn thiện chủ nghĩa xã hội khoa học. Điều
này có thể minh chứng qua các hội nghị quốc tế các đảng cộng sản và công nhân
quốc tế, các diễn đàn và hội nghị khoa học, lý luận chính trị, các cuộc viếng thăm


trao đổi song phương và đa phương, nhất là các kỳ đại hội của các đảng cộng sản
và công nhân quốc tế ở các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây, các
nước đang tiến hành lựa chọn con đường phát triển xã hội chủ nghĩa hiện nay.
- Sự thắng lợi, phát triển rực rỡ và sau đó là sụp đổ của chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô có thể được coi là minh chứng cho sự thành công và
thất bại của vận dụng, áp dụng các nguyên lý, quy luật của chủ nghĩa xã hội khoa
học vào thực tiễn. Chừng nào và ở đâu, đảng cộng sản nhận thức đúng, sáng tạo
hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà trong đó cách mạng đang vận động, để đề ra các chủ
trương chiến lược và sách lược đúng đắn vì mục tiêu xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội, chừng đó và ở đó, cách mạng phát triển và thu được những thắng lợi.
Trong trường hợp ngược lại, cách mạng sẽ lâm vào thoái trào và bị thất bại. Vấn đề
đặt ra đối với chủ nghĩa xã hội khoa học là từ trong những thành công và thất bại
của chủ nghĩa xã hội hiện thực trong thập kỷ cuối thế kỷ XX, cần nghiêm túc phân
tích, khái quát và rút ra các vấn đề lý luận, những bài học kinh nghiệm, từ đó có
những phương thức, biện pháp chủ trương chiến lược và sách lược hợp lý trong
hoàn cảnh mới, tiếp tục bổ sung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa học,
tiếp tục thực hiện thắng lợi trên thực tế chế độ xã hội mới: xã hội xã hội chủ nghĩa
và cộng sản chủ nghĩa.
Thứ năm, là sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ trong thời kì
hiện đại dựa trên những nền tảng cơ bản trong thời kì cận đại của lịch sử thế
giới.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ mở đầu bằng việc phát minh và sử
dụng máy hơi nước vào sản xuất ở nước Anh vào cuối thế kỉ XVIII. Một loạt các

nước châu Âu tiến hàng công nghiệp hóa làm thay đổi cách thức sản xuất từ lao
động tay chân sang sử dụng máy móc và từng bước hoàn thành một cơ cấu công
nghiệp hoàn chỉnh, từ sản xuất quy mô nhỏ sang sản xuất quy mô lớn với sự ra đời
của các nhà máy và khu công nghiệp, khiến cho loài người trong vòng chưa đầy
một trăm năm, có thể sáng tạo nên một lực lượng vật chất to lớn hơn và đồ sộ hơn
tất cae các thế kỉ trước cộng lại, thao đánh giá của Các - Mác và Ănghen trong
“Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”. Chính những thành tựu kinh tế và kỹ thuật ấy đã
khẳng định ưu thế của tư bản đối với chế độ phong kiến, đã tạo ra một bước ngoặt
cơ bản “từ làn sóng văn minh nông nghiệp đến làn sóng văn minh công nghiệp”.
Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật lần hai nổ ra. Do sự đòi hỏi của:
- Con người tồn tại và phát triển nên phải tìm cách giải quyết các vấn đề: dân số
bùng nổ, tài nguyên ngày càng cạn kiệt, môi trường ô nhiễm bằng những phát minh
khoa học – kỹ thuật (công cụ mới, năng lượng mới, vật liệu mới…).


- Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ là điều kiện để khoa học – kỹ thuật phát
triển nhằm sáng chế ra nhưng vũ khí, phương tiện thông tin …
- Từ yêu cầu cuộc sống con người cụ thể là yêu cầu của kỹ thuật và của sản
xuất.
- Thêm vào đó, là do những thành tựu khoa học - kỹ thuật cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX đã tạo tiền đề và thúc đẩy sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học – kỹ
thuật lần hai.
Sự ra đời của lí thuyết nguyên tử hiện đại mà trung tâm chú ý của các nhà khoa
học là nguyên tử và cấu trúc bên trong của nó (hật nhân). Những thí nghiệm bán
nguyên tử củ nhà bác học người Anh – E.Rơ đơ pho tiến hành năm 1911 với kết quả là
nguyên tử không pahir đặc mà rất rỗng, đặt nền tảng cho những nghiên cứu sau đó.
Dựa trên thí nghiệm đó, học trò của ông Nixon Bo đề xướng học thuyết. Mẫu hành
tinh về cấu tạo nguyên tử.
Cùng với lý thuyết nguyên tử hiện đại là sự ra đời của thuyết tương đối hiện đại
của nhà bác học Đức – Anbe Anhxtanh. Có thể nói rằng, hầu hết các phát minh lớn về

vật lý của thế kỷ XX đều có liên quan đến tên tuổi của Anhxtanh, từ năng lượng
nguyên tử cho đến la de, bán dẫn.
Khác với cuộc cách mạng công nghiệp ( cách mạng công nghiệp lần thứ nhất)
với nội dụng là cơ khí hóa, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật ngày nay ( cách mạng
kỹ thuật lần hai) có nội dung phong phú và phạm vi rộng lớn hơn nhiều. Nó diễn ra
trong lĩnh vực khoa học cơ bản gồm toán học, vật lý học, hóa học, sinh vật học. Ngoài
khoa học cơ bản, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đã và đang nghiên cứu, phát minh
ra nhiều ngành khoa học mới, như khoa học vũ trụ hay khoa học du hành vũ trụ,
những ngành mới về nguyên tắc của khoa học tự nhiên gắn với kĩ thuật mới, như điều
khiển học...
Có thể nói, nội dụng chủ yếu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật là tự động
hóa cao độ bằng cách sử dụng máy tính điện tử, hiện đại hóa kỹ thuật và sản xuất trên
cơ sở phát minh khoa học mới nhất, những vật liệu mới, những công cụ lao động sản
xuất mới, tấn công vào lòng các đại dương, đi sâu vào lòng đất, nghiên cứu bí mật củ
sự sống, thám hiểm thế giới vô cùng nhỏ của hạt nhân nguyên tử, đồng thời đi sau vào
vũ trụ bao la.
Khác với cuộc Cách mạng khoa học kĩ thuật lần thứ nhất, cuộc Cách mạng
khoa học kỹ thuật lần thứ hai được gọi là cách mạng khoa học – kỹ thuật bởi mọi phát
minh về kĩ thuật đều bắt nguồn từ nghiên cứu khoa học.
Nhìn lại, các phát minh kỹ thuật của cuộc cách mạng lần trước như máy hơi
nước, máy phát điện, nhà máy điện, ... chủ yếu bắt nguồn từ những cải tiến kỹ thuật,
và những người phát minh không phải là nhà khoa học mà đều là người lao động trực
tiếp. Người thợ máy Giêm Oát phát minh ra may hơi nước chính là bắt đầu từ việc cải
tiến máy hơi nước đầu tiên của Niucơmen. Nói một cách khác, các phát minh kĩ thuật


ở thế kỉ XVIII –XIX có liên quan đến thế giới vĩ mô, tức là thế giới ta có thể nhìn
thấy, sờ mó được hàng ngày, như cái búa, cái đe, cái bàn,... còn khoa học của thế kỉ
XX đi sâu vào thê giới vi mô, thế giơi vô cùng nhỏ bé của nguyên tử, thế giới mà mắt
thường không thể nhìn thấy được, tay không sờ mó được, chỉ có thể phát hiện bằng

máy móc điện tử, màn huỳnh quanh, phim ảnh,...
Như vậy, so với các phát minh kỹ thuật của cuộc Cách mạng kĩ thuật lần thứ
nhất , thì những phát minh của Cách mạng kĩ thuật lần hai có nguồn gốc sâu xa hơn
nhiều. Những phát minh về kĩ thuật bắt nguồn từ nghiên cứu khoa học, khoa học gắn
với kỹ thuật, khoa học đi trước mở đường cho kỹ thuật.

Sự kế thừa và phát triển của khoa học – công nghệ của thời kì trước. Đạt
được những thành tựu quan trọng trong kinh tế, quân sự... tác động sâu sắc đến các
mối quan hệ quốc tế, đến mọi mặt đời sống của con người và đưa lịch sử nhân loại
đến một nền văn minh mới, nền văn minh thứ ba, sau nền văn minh nông nghiệp,
nền văn minh công nghiệp mà thường được gọi là nền văn minh hậu công nghiệp
hay nền văn minh trí tuệ.
Có thể kể đến tác động khác như, làm thay đổi cơ bản các yếu tố của sản
xuất, tạo ra bước nhảy vọt chưa từng thấy của lực lượng sản xuất và năng suất lao
động, sản xuất ra khối lượng hàng hóa đồ sộ, tiện nghi, hiện đại. Vì vậy, đời sống
con người không ngừng được cải thiện, mức sống ngày càng được nâng cao. Đưa
tới những thay đổi lớn lao về cơ cấu dân cư với xu hướng dân số lao động trong
nông nghiệp giảm đi,dân số trong các ngành dịch vụ tăng lên. Làm cho sự giao lưu
kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật ngày càng được quốc tế hóa cao. Một thị
trường thế giới đang hình thành, bao gồm tất cả các nước có chế độ xã hội khác
nhau, vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau, cùng chung sống hòa bình.



×