Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.7 KB, 25 trang )

Tiểu luận KTCT GVHD: §ç ThÞ Kim
Hoa
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG
I. Khái niệm và mục tiêu của chính sách tiền tệ
1. Khái niệm
Chính sách tiền tệ do Ngân hàng Nhà nước điều hành, là một trong những
bộ phận quan trọng nhất của hệ thống các chính sách kinh tế tài chính vĩ mô của
chính phủ, trong đó NHTW thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm
soát, chi phối dòng chu chuyển tiền và điều tiết khối lượng tiền cung ứng cho
nền kinh tế, nhằm đạt được những mục tiêu về ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm
phát, tạo việc làm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong từng thời kỳ nhât định.
Chính sách tiền tệ thường có sự đan xen phức tạp với các chính sách kinh
tế vĩ mô khác, vì vậy, sử dụng hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ đồng
nghĩa với việc tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh tế mà thực chất là hoàn thiện
môi trường kinh tế thị trường. Nếu các chính sách kinh tế vĩ mô khác được thực
hiện có hiệu quả thì nó sẽ thúc đẩy nền kinh tế hoạt động theo chiều hướng tăng
trưởng và ổn định lâu dài.
2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ là nhiệm vụ trung tâm của
NHTW nhằm hướng các tổ chức tín dụng thực hiện những mục tiêu kinh tế vĩ
mô của đất nước nhưng đồng thời vẫn đảm bảo tính tự chủ trong hoạt động kinh
doanh của các tổ chức tín dụng đó.
Chính sách tiền tệ có cùng mục tiêu giống như các công cụ chính sách
kinh tế vĩ mô khác: Ổn định giá cả, kiểm soát lạm phát, cân bằng cán cân thanh
toán, tạo việc làm và thúc đẩy tăng trưởng.
2.1. Ổn định giá cả, ổn định tiền tệ và kiểm soát lạm phát
Học Viên: NguyÔn ThÞ Kim Dung
Tiểu luận KTCT GVHD: §ç ThÞ Kim
Hoa
Thuật ngữ lạm phát thường được hiểu là sự gia tăng mức giá chung (liên


tục), và do vậy làm giảm giá trị của đồng tiền. Có nhiều dạng lạm phát, xét theo
nguyên nhân trực tiếp: lạm phát cầu kéo, lạm phát tài chính, lạm phát tín dụng,
lạm phát cung, lạm phát chi phí đẩy, lạm phát lợi nhuận, và lạm phát nhập khẩu.
Nếu lạm phát cao sẽ tác động tiêu cực đến nền kinh tế nên các chính sách được
thực thi luôn cố gắng tìm cách kiểm soát mức lạm phát.
Có thể nói ổn định giá trị đồng tiền có tầm quan trọng đặc biệt trong việc
định hướng phát triển kinh tế của một quốc gia vì nó làm tăng khả năng dự đoán
những biến động của môi trường kinh tế vĩ mô. Do đó, ổn định giá trị tiền tệ - ổn
định sức mua của đồng tiền, bao gồm sức mua đối nội và sức mua đối ngoại là
mục tiêu hàng đầu và dài hạn của đất nuớc nhằm tạo một môi trường đầu tư ổn
định, an toàn, mức lạm phát thấp để thu hút sự đầu tư của các doanh nghiệp, góp
phần sử dụng cũng như phân bổ nguồn lực, tài nguyên sao cho hiệu quả nhất.
2.2. Tạo việc làm, giảm thất nghiệp
Ở đây khi nhắc tới thất nghiệp là chủ yếu đề cập tới thất nghiệp không tự
nguyện. Điều này xảy ra khi có những lao động (tiềm năng) sẵn sàng chấp nhận
được làm việc với mức lương bằng hoặc thấp hơn một chút so với mức lương
hiện tại (mức lương thực tế) (Keynes, 1936), nhưng cầu về lao động thì lại
không đủ cho tất cả đều có việc làm: Cung về lao động do đó bị “giới hạn”.
Mục tiêu của chính sách tiền tệ là tạo việc làm cho người lao động, giảm
tỷ lệ thất nghiệp của xã hội. Thông qua các công cụ tác động tới nền kinh tế
nhằm thu hút, mở rộng đầu tư, mở rộng hoạt động kinh doanh, chính sách tiền tệ
góp phần tạo nhiều việc làm hơn. Tuy nhiên một thực tế đặt ra là mỗi nước đều
có một tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Muốn tỷ lệ này ở mức thấp nhất có thể, nền
kinh tế phải chống suy thoái, nhất là suy thoái định kỳ, đạt tới mức tăng trưởng
ổn định.
2.3. Tăng trưởng kinh tế
Học Viên: NguyÔn ThÞ Kim Dung
Tiểu luận KTCT GVHD: §ç ThÞ Kim
Hoa
Tăng trưởng là sự gia tăng thu nhập và của cải của đất nước. Một nền kinh

tế với mức tăng trưởng nhanh và ổn định là mục tiêu hàng đầu của bất kỳ quốc
gia nào. Đó là nền tảng, là cơ sở cho sự phát triển, vì tăng trưởng kinh tế sẽ đảm
bảo các chính sách xã hội được thực thi một cách có hiệu quả, là căn cứ ổn định
tiền tệ trong nước, nâng cao khả năng cân bằng cán cân thanh toán quốc tế và
khẳng định vị trí của quốc gia trên trường quốc tế.
Chính sách tiền tệ hướng vào ba mục tiêu trên, tuy nhiên giữa ba mục tiêu
này lại tồn tại mối quan hệ vừa bổ sung, vừa mâu thuẫn. Cụ thể, bằng cách duy
trì tính cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ quốc gia, việc theo đuổi sự ổn định
giá cả (tức là bao gồm cả lạm phát) cũng có xu hướng đảm bảo cân bằng cán cân
thanh toán và sự ổn định tỷ giá. Tương tự, một mức độ ổn định giá cả có thể
định hình việc tiết kiệm tài chính, thúc đẩy tăng trưởng dài hạn nếu như nó đang
bị chậm lại do mức tiết kiệm thấp. Nhưng trong ngắn hạn, theo đuổi một mục
tiêu có thể phải hy sinh một mục tiêu khác, hoặc khiến cho việc đạt mục tiêu
khác trở nên khó khăn hơn. Trường hợp rõ ràng nhất về sự thay thế là ổn định
giá và cân bằng cán cân thanh toán toán với việc làm, muốn kiềm chế lạm phát
phải chấp nhận nạn thất nghiệp tăng lên… Tính thay thế này xảy ra đối với tất cả
các công cụ, tuy nhiên chúng được thể hiện rõ ràng nhất đối với chính sách tiền
tệ. Nói chung, tính thay thế có nghĩa là phải lựa chọn, theo trật tự ưu tiên mục
tiêu nào tuỳ từng thời kỳ phát triển kinh tế của đất nước.
II. Các công cụ của chính sách tiền
Để điều hành chính sách tiền tệ, NHTW phải hình thành và sử dụng hệ
thống công cụ của nó. Đặc điểm của các công cụ chính sách tiền tệ là tạo cho
NHTW khả năng tác động có hiệu lực đến các tổ chức tín dụng phải tự điều
chỉnh hoạt động của mình theo hướng chỉ đạo của NHTW nhưng vẫn đảm bảo
quyền tự chủ trong kinh doanh cũng như sự bình đẳng trong môi trường cạnh
tranh giữa các ngân hàng.
Học Viên: NguyÔn ThÞ Kim Dung
Tiểu luận KTCT GVHD: §ç ThÞ Kim
Hoa
1. Công cụ tái cấp vốn

Một vấn đề cần quan tâm là dự trữ của các ngân hàng có thể không đủ đáp
ứng số tiền được kỳ vọng rút ra. Các ngân hàng có thể tránh rơi vào tình trạng
mất khả năng thanh toán nếu như đơn vị phát hành cung cấp tiền thêm cho các
ngân hàng thông qua công cụ tái cấp vốn. NHTW thực hiện vai trò người cho
vay cuối cùng. Các chức năng của NHTW cũng bao gồm cả việc ra quy định cho
hệ thống ngân hàng và giám sát các ngân hàng để đảm bảo họ tuân thủ quy tắc
quản lý tốt và do vậy đảm bảo tính ổn định của hệ thống tài chính.
Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của NHTW đối với các Ngân hàng
thương mại. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho Ngân hàng thương mại, NHTW đã
tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho Ngân hàng thương mại nâng
cao khả năng thanh toán của họ.
Trong vai trò ngân hàng của ngân hàng, NHTW tạo ra cơ sở tiền tệ thông
qua việc tái cấp vốn, tức là cấp vốn cho hệ thống tín dụng bằng cách chiết khấu
lại các tín phiếu hoặc thanh toán trước chứng khoán. NHTW có thể quy định
việc tiếp cận tín dụng bằng cách thay đổi các điều khoản cung cấp tín dụng, chủ
yếu bằng cách thay đổi lãi suất cho vay tối thiểu (lãi suất chiết khấu chính thức)
và tỷ lệ chi trước tối đa.
Tuy nhiên, việc tồn tại một người cho vay cuối cùng có thể dẫn tới vấn đề
rủi ro đạo đức bởi vì các ngân hàng khi cảm thấy mình được bảo vệ (bảo hiểm)
từ NHTW có thể sẽ tham gia vào các giao dịch rủi ro cao hơn. Việc quy định và
giám sát của NHTW có thể giúp làm giảm nguy cơ này, đó là quy định các ngân
hàng phải duy trì mức dự trữ tối thiểu. Vai trò của NHTW trong việc kiểm soát
cơ sở tiền tệ được thấy rõ nhất trong những thời kỳ thị trường sôi động, khi các
ngân hàng buộc phải sử dụng nguồn tín dụng của NHTW.
2. Công cụ tỉ lệ dự trữ bắt buộc
Là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện cần vô hiệu hóa trên tổng số tiền gửi
huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán (cho vay) của các Ngân hàng
Học Viên: NguyÔn ThÞ Kim Dung
Tiểu luận KTCT GVHD: §ç ThÞ Kim
Hoa

thương mại. Dự trữ bắt buộc chính là khoản tiền mà các ngân hàng thương mại
khi nhận tiền gửi cần phải trích lại một lượng, gửi lại ở NHTW để thực hiện
chính sách tiền tệ quốc gia. Phần tiền này dùng vào hai việc:
+ Đảm bảo thanh toán trong trường hợp khẩn cấp
+ Điều tiết lượng tiền mặt trong lưu thông, còn gọi là điều tiết quá trình tạo
ra tiền.
Đối với chức năng đảm bảo thanh toán trong trường hợp khẩn cấp thì dự
trữ bắt buộc cộng với bảo hiểm tiền gửi trở thành các công cụ bảo vệ tài sản của
người gửi tiền, do họ là số đông dân cư xã hội vì khả năng gây bất ổn với số
đông dân cư có thể làm bất ổn cả xã hội và làm giảm mức thu nhập toàn xã hội.
Chức năng này vì thế được quan tâm.
Với chức năng điều tiết lượng tiền trong lưu thông: Do đồng tiền gửi vào
có thể được cho vay ra, tạo ra luồng tiền mới, và rồi lại quay vòng gửi vào, dự
trữ bắt buộc có khả năng điều tiết số tiền quay vòng trong lưu thông này để
NHTW thực hiện một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất là ổn định tiền tệ
và chống lạm phát. Ở các nước nói chung, dự trữ bắt buộc chỉ được quy định đối
với tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi nhắn hạn.
Thông qua việc thay đổi tỉ lệ dự trữ bắt buộc, NHTW tác động tới mức
cung tiền cho toàn bộ nền kinh tế. Nếu NHTW tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc thì khả
năng tín dụng của Ngân hàng Thương mại (NHTM) sẽ giảm xuống, làm giảm
mức cung tiền. Ngược lại nếu muốn nới lỏng điều kiện tín dụng và tăng lợi
nhuận của ngân hàng, NHTW có thể giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc. Việc mở rộng
hay thu hẹp khả năng cung tiền cho nền kinh tế quốc dân sẽ thúc đẩy hay hạn
chế đầu tư và tiêu dùng, làm thay đổi tổng cầu, gây ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu
cực đến nền kinh tế.
Đây là công cụ có tác động mạnh mẽ đến lượng tiền cung ứng, tác động
đến các ngân hàng như nhau, giúp NHTW thực hiện chính sách thắt chặt hay mở
rộng một cách nhanh chóng, linh hoạt. Chỉ cần những thay đổi nhỏ về tỉ lệ dự
Học Viên: NguyÔn ThÞ Kim Dung
Tiểu luận KTCT GVHD: §ç ThÞ Kim

Hoa
trữ bắt buộc sẽ gây ra những sự thay đổi lớn đối với lượng tiền cung ứng, do đó
công cụ này kém linh hoạt, chi phí cho sự điều chỉnh lại tốn kém. Hơn nữa, việc
tăng dự trữ bắt buộc có thể gây ảnh hưởng xấu đến khả năng thanh toán của các
NHTM, gây ra tình trạng không ổn định cho các ngân hàng. Chính vì thế, công
cụ dự trữ bắt buộc thường không được khuyến khích và ít được sử dụng.
3. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
Là hoạt động NHTW mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường
tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự
trữ của các Ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín
dụng của các Ngân hàng thương mại, dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền
tệ cung ứng. Cụ thể: Khi NHTW bán các giấy tờ có giá cho các NHTM, NHTW
thu hồi một phần tiền từ lưu thông làm giảm lượng tiền cung ứng, dẫn đến khả
năng cho vay của các NHTM giảm, và giá trị tín dụng tăng lên. Ngược lại bằng
việc mua các giấy tờ có giá, NHTW làm tăng khả năng dự trữ, khả năng cho vay
của các NHTM, làm tăng khả năng tạo tiền của hệ thống ngân hàng và do đó
lượng tiền cung ứng sẽ tăng lên.
Nghiệp vụ thị trường mở có thể được tiến hành một cách nhanh chóng,
đơn giản, không gây chậm trễ về mặt hành chính và ít tốn kém về mặt chi phí.
Tuy nhiên khi NHTW mua bán chứng khoán trên thị trường vẫn phụ thuộc vào
người mua bán (các NHTM), hơn nữa công cụ này chỉ áp dụng hiệu quả cho
những nước có thị trường tài chính tương đối phát triển, tiền trong lưu thông
phần lớn nằm trong tài khoản của ngân hàng.
4. Công cụ lãi suất tín dụng
Đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi
vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền
trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất. Nó là 1 công
cụ rất hữu hiệu. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ
Học Viên: NguyÔn ThÞ Kim Dung
Tiểu luận KTCT GVHD: §ç ThÞ Kim

Hoa
trương chính sách và giải pháp cụ thể của NHTW nhằm điều tiết lãi suất trên thị
trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định.
4.1. Lãi suất tiền gửi và cho vay
NHTW có thể quy định khung lãi suất tiền gửi và cho vay trên thị trường
thông qua cơ chế điều chỉnh cung cầu tiền tệ. Nếu lãi suất tiền gửi cao, khối
lượng tiền gửi sẽ tăng, và ngược lại. Do đó khi muốn kích thích các nhà đầu tư
vay vốn, NHTW sẽ giảm mức lãi suất cho vay, khi cần hạn chế NHTW sẽ ấn
định một mức lãi suất cao. Khi công cụ này được sử dụng có thể giúp ngân hàng
lựa chọn những dự án kinh tế tối ưu để cho vay, nhưng lại làm cho các NHTM
mất tính chủ động, xử lý linh hoạt trong kinh doanh. Thậm chí dẫn đến tình
trạng ứ đọng vốn ở ngân hàng nhưng lại thiếu vốn đầu tư phát triển sản xuất.
Đối với những nước hoạt động theo cơ chế thị trường, nơi mà lãi suất rất nhạy
cảm với đầu tư và phải được vận động theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường
thường ít sử dụng biện pháp này.
4.2. Lãi suất chiết khấu
Đây là hình thức NHTW cho các NHTM vay dưới hình thức tái chiết
khấu tức là NHTW tái cấp vốn cho các NHTM kèm theo các quy định và điều
kiện cho vay. Các NHTM đi vay nhằm bù đắp hoặc bổ sung nhu cầu vốn khả
dụng để đáp ứng cho nền kinh tế, giup shệ thống ngân hàng hoạt động bình
thường tránh nguy cơ phá sản.
Khi NHTW thay đổi hạn mức chiết khấu, tái chiết khấu sẽ tác động đến
lãi suất huy động vốn và cho vay của các NHTM cũng như khả năng đi vay của
các NHTM tại NHTW, gây ảnh hưởng đến việc tăng hay giảm lượng tiền cung
ứng cho nền kinh tế. Cụ thể: Khi NHTW tăng lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu
sẽ dẫn đến lãi suất cho vay của các NHTM tăng, làm giảm nhu cầu tín dụng của
nền kinh tế, làm giảm lượng tiền cung ưng trong lưu thông và ngược lại.
Thông qua việc sử dụng công cụ này, NHTW đóng vai trò là người cho
vay cuối cùng. Đây là công cụ có tính linh hoạt, mang lại hiệu quả, đảm bảo sự
Học Viên: NguyÔn ThÞ Kim Dung

Tiểu luận KTCT GVHD: §ç ThÞ Kim
Hoa
cạnh tranh bình đẳng và chủ động giữa các ngân hàng. NHTW có thể điều chỉnh
cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế, gây tác động đến lãi suất thị trường liên ngân
hàng theo ý NHTW. Tuy nhiên điều này chỉ mang lại hiệu quả khi lãi suất lãi
suất tái chiết khấu phù hợp với lãi suất thị trường, phụ thuộc vào vốn của
NHTW và NHTM.
5. Công cụ hạn mức tín dụng
Là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của NHTW để
khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín
dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp
hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. NHTW xác định hạn mức tín dụng căn cứ
vào các chỉ tiêu như tốc độ tăng trưởng kinh tế, biến động về giá cả, tỉ lệ thất
nghiệp…
Biện pháp này rất phù hợp trong nền kinh tế có lạm phát. Trong nền kinh
tế thị trường khi mà cung cầu tín dụng biến đổi không ngừng, hạn mức tín dụng
chỉ được áp dụng một cách hạn chế vì nó triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các
ngân hàng, nó có thể làm sai lệch cơ cấu đầu tư trong nền kinh tế bởi với hạn
mức tín dụng được NHTW quy định thì các NHTM sẽ tập trung vào các dự án
đầu tư lớn, dễ thu đựơc lợi nhuận và gây ra khó khăn cho các doanh nghiệp nhỏ.
6. Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ.
Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiện quan hệ cung cầu
ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác
động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước.
Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập
khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút
vốn dầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của
chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy
Học Viên: NguyÔn ThÞ Kim Dung

Tiểu luận KTCT GVHD: §ç ThÞ Kim
Hoa
nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ
giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ.
Học Viên: NguyÔn ThÞ Kim Dung
Tiểu luận KTCT GVHD: §ç ThÞ Kim
Hoa
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN
TỆ CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY
Nền kinh tế nước ta mới chuyển từ cơ chế kế hoạch tập trung bao cấp
sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tuy thời gian chưa nhiều,
nhưng đủ để phát hiện và khảo sát tính chu kỳ của nền kinh tế và những biểu
hiện của nó đã xuất hiện tương đối rõ. Kể từ năm 1986 đến nay, tăng trưởng
kinh tế đã trải qua 4 giai đoạn thăng trầm: năm 1986 – 1991 chỉ tăng trưởng
4,7%/ năm; năm 1992 – 1997 tăng trưởng tới 8,7%/ năm mà đỉnh cao là năm
1995 với GDP tăng 9,5%; năm 1998 – 2001 lại hạ xuống còn khoảng 6%/ năm ,
năm 2002 – 2005 phục hồi với trên 7,6%/ năm, và năm 2007 đạt mức 8,4%/
năm. Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang phát triển tương đối nhanh, các
nhà kinh tế cho rằng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có thể đạt gần 10% trong
5 năm tới.
Kinh nghiệm quốc tế cũng cho thấy, có nhiều nước dựa vào mô hình tăng
nhanh đầu tư, dù phải chấp nhận gánh nặng nợ nước ngoài ngày càng gia tăng,
nghĩa là tăng trưởng cao bằng mọi giá. Kết quả là tốc độ tăng trưởng kinh tế xấp
xỉ 2 con số, đồng thời lạm phát cũng gia tăng, nền kinh tế phát triển quá “nóng”,
các nhân tố khủng hoảng kinh tế - tài chính xuất hiện và ngày càng chín muồi
dẫn tới khủng hoảng không thể tránh khỏi. Tuy vậy, một số nhà kinh tế vẫn ủng
hộ quan điểm chấp nhận khủng hoảng (khủng hoảng lạm phát cao, khủng hoảng
nợ, khủng hoảng thâm hụt ngân sách nhà nước) và coi đó như một nhân tố thúc
đẩy cải tổ cơ cấu nhanh hơn, có hiệu quả hơn và do đó tiếp tục đạt tốc độ tăng

trưởng cao hơn. Tóm lại, đây là mô hình tăng trưởng nhanh “lồi lõm” nhưng xu
hướng chung vẫn đưa nền kinh tế đạt trình độ cao hơn.
Học Viên: NguyÔn ThÞ Kim Dung

×