Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Thực hiện quyền làm chủ của nhân dân tại Quận Gò Vấp hiện nay – Thực trạng và giải pháp (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (899.64 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN THỊ PHƢƠNG MAI

THỰC HIỆN QUYỀN LÀM CHỦ CỦA
NHÂN DÂN TẠI QUẬN GÒ VẤP HIỆN NAY
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN THỊ PHƢƠNG MAI

THỰC HIỆN QUYỀN LÀM CHỦ CỦA
NHÂN DÂN TẠI QUẬN GÒ VẤP HIỆN NAY
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG D N


HOA HỌC:

TS. NGUYỄN THỊ THANH THỦY

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi được thực
hiện dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy.
Nội dung luận văn có sự kế thừa các công trình nghiên cứu đi trước với
những trích dẫn và sử dụng tài liệu trong giới hạn cho phép.
Các kết quả luận văn chưa được công bố trong các công trình nào khác.
Các số liệu, tài liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, khách quan và có
nguồn gốc rõ ràng.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của luận văn.
Hà Nội, ngày 07 tháng 11 năm 2017
Tác giả luận văn

Phan Thị Phƣơng Mai


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN
QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN ...................................................... 10
1.1 Cơ sở lý luận về quyền làm chủ của nhân dân.................................... 10
1.2 Một số nội dung về thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta
hiện nay ..................................................................................................... 19
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN LÀM CHỦ

CỦA NHÂN DÂN TẠI QUẬN GÒ VẤP HIỆN NAY ............................... 32
2.1 Đặc điểm về kinh tế, văn hóa – xã hội của Quận Gò Vấp, Thành phố
Hồ Chí Minh ............................................................................................. 32
2.2 Một số kết quả và hạn chế trong việc thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân tại Quận Gò Vấp ........................................................................ 35
2.3 Nguyên nhân của kết quả đạt được và nguyên nhân của hạn chế ...... 54
2.4 Bài học kinh nghiệm ........................................................................... 55
Chƣơng 3: MỘT SỐ ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG
CAO QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN TẠI QUẬN GÒ VẤP HIỆN
NAY ................................................................................................................ 58
3.1 Một số định hướng phát huy quyền làm chủ của nhân dân hiện nay . 58
3.2 Một số giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo thực hiện và nâng cao quyền
làm chủ của nhân dân tại Quận Gò Vấp ................................................... 64
KẾT LUẬN .................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 74


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức phải hoàn thành tốt chức
trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân. Có
cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp và
quyền làm chủ thông qua các cơ quan đại diện của mình…” [25, tr. 47 – 48].
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1946 đã
đề cập đến 2 quyền cơ bản mang tính nguyên tắc của người dân là: tại Điều 6
quy định “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện:

chính trị, kinh tế, văn hóa” và Điều 7 quy định “Tất cả công dân Việt Nam
đều bình đẳng trước pháp luật…”. Đề cao vai trò của nhân dân lao động đã
trở thành những người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân
mình. Gần 70 năm sau bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 mà quyền công dân
được ghi đậm, tại điều 14, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: "Ở nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ,
bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật". Điều này khẳng định quyền làm chủ
thực sự của nhân dân ở tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và được pháp
luật bảo vệ.
Thực hiện dân chủ với nghĩa quyền lực thuộc về nhân dân là khát vọng
to lớn của nhân dân ta. Để đảm bảo quyền làm chủ của người dân, Đảng và
Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản thực hiện dân chủ: Ch thị số 30 CT/TW ngày 18 tháng 02 năm 1998 của Bộ Chính trị về “Xây dựng và thực

1


hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”; Nghị định số 71/1998/NĐ – CP, ngày 08
tháng 09 năm 1998 về việc “Ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt
động của cơ quan”… đã đi vào thực tiễn. Tuy nhiên, sau nhiều năm triển
khai, tình hình thực hiện quyền làm chủ của nhân dân vẫn còn nhiều vấn đề
đáng quan tâm: một số nơi việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở chưa đạt yêu cầu, quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm; một số cán
bộ có trách nhiệm không muốn triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở,
hoặc triển khai một cách hình thức, chiếu lệ, nhiều người chưa nhận thức đầy
đủ quyền làm chủ của nhân dân. Do đó, tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà
cho nhân dân vẫn còn xảy ra; một bộ phận nhân dân mới ch thấy quyền lợi
nhiều hơn nghĩa vụ, vì vậy, hiện tượng lợi dụng dân chủ, dân chủ quá trớn
đang là nguy cơ đe dọa mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền với nhân dân,
gây không ít khó khăn cho việc phát triển kinh tế, ổn định xã hội...

Bản thân là một cán bộ đang công tác trong cơ quan Nhà nước với vai
trò và nhiệm vụ, tôi nhận thức rõ về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc thực
hiện và phát huy quyền làm chủ của người dân, ở nơi nào quyền làm chủ của
người dân được thực hiện hiệu quả thì ở nơi đó phát huy được sức mạnh và trí
tuệ của người dân để cùng với chính quyền thực hiện các nhiệm vụ phát triển
kinh tế - văn hóa – xã hội, tạo được niềm tin của người dân đối với cơ quan
nhà nước. Tuy nhiên, việc đảm bảo quyền làm chủ của người dân có nơi vẫn
còn những bất cập liên quan đến sự lãnh đạo, ch đạo và quản lý của cơ quan
Nhà nước các cấp; đến trình độ và nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức
về dân chủ, thực hiện dân chủ và những bất cập liên quan đến nhận thức của
người dân về các quyền của mình.
Xuất phát từ những lý do trên tôi đã chọn đề tài “Thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân tại Quận Gò Vấp hiện nay – Thực trạng và giải pháp” làm
đề tài cho luận văn thạc sĩ, không ch có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý

2


nghĩa thực tiễn. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt quyền làm
chủ của nhân dân tại quận Gò Vấp hiện nay.
2. T nh h nh nghiên c u đề tài
Nghiên cứu về thực hiện quyền làm chủ của nhân dân đã có nhiều bài
viết, đề tài khoa học nghiên cứu những công trình ở cả góc độ lí luận và thực
tiễn về thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở các địa phương trong cả
nước. Trong thời gian vừa qua, có các công trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
2.1. Một số nghiên cứu mang tính lý luận về phát huy quyền làm chủ
của nhân dân
PGS.TS Nguyễn Cúc: "Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình
hình hiện nay. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn", Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2002. Tác giả đã tập trung làm sáng tỏ một số khía cạnh chủ yếu về lý

luận và thực tiễn của việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong tình hình
hiện nay ở nước ta. Đây là kết quả nghiên cứu từ đề tài khoa học cấp Nhà
nước, trong đó tác giả đã tiến hành khảo sát để thấy được thực tiễn thực hiện
dân chủ cơ sở ở nước ta qua đó thấy được trong quá trình thực hiện dân chủ
cơ sở việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân từ thực tiễn đất nước đặt ra
trong bối cảnh hiện nay. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp trong thực
hiện dân chủ cơ sở hiện nay.
Trần Thị Băng Thanh (2002), Vai trò của Nhà nước đối với việc thực
hiện quyền dân chủ của nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ bảo
vệ tại Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả đã tiếp cận vấn đề
dân chủ với tư cách là một chế độ chính trị, một hình thái Nhà nước và khẳng
định: Với bản chất cách mạng và ưu việt của mình, Nhà nước xã hội chủ
nghĩa ngày càng thể hiện rõ vai trò của mình là phương tiện để đảm bảo thực
hiện dân chủ, thực hiện các quyền dân chủ của nhân dân, đem lại và tạo cho
họ khả năng thực tế để thực hiện các quyền dân chủ của mình và hưởng thụ

3


thành quả dân chủ. Tác giả nhấn mạnh vai trò của Nhà nước Việt Nam đối với
việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân trong lịch sử và nhất là trong sự
nghiệp đổi mới ở nước ta, trên cơ sở đó tác giả đề xuất một số giải pháp chủ
yếu nhằm phát huy vai trò của Nhà nước đối với quá trình thực hiện dân chủ
của nhân dân trong lịch sử đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
TS. Đoàn Minh Huấn "Dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và quá trình
mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta", Tạp chí Lý luận chính trị, số
8/2004. Tác giả làm rõ vai trò, đặc trưng của dân chủ đại diện và dân chủ trực
tiếp, qua đó khẳng định: trong giai đoạn hiện nay, muốn mở rộng dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta cần phát huy đúng ưu thế của mỗi hình thức dân chủ,
đồng thời cần có sự kết hợp chặt chẽ dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.

Tác giả Đỗ Mười với cuốn cách “Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa xây
dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân trong sạch vững mạnh”(Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998). Tác giả nói về vị trí, vai trò và bản chất của
Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và cho rằng việc phát huy dân chủ xã
hội chủ nghĩa là một yêu cầu khách quan và tất yếu để xây dựng hoàn thiện
Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Tác giả Phạm Gia Khiêm với bài viết “Thực hiện dân chủ gắn với việc
xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở” (Tạp chí Cộng Sản, số 09/2004) đã ch
ra rằng, thực hiện dân chủ ở cơ sở gắn bó chặt chẽ với hệ thống chính trị ở cơ
sở, có tác động tích cực tới công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền
và các đoàn thể nhân dân; hệ thống chính trị ở cơ sở đã có những quyết sách
phù hợp, nhất là việc ban hành các ch thị và các quy chế thực hiện dân chủ ở
các loại hình cơ sở.
Tác giả Hoàng Chí Bảo với bài viết “Dân chủ, đoàn kết và đồng thuận
xã hội trong phát triển biền vững” (Tạp chí Triết học số 7/2008) đã ch ra vai
trò của kinh tế trong quá trình thực thi dân chủ cũng như các mặt của đời sống

4


xã hội. Theo tác giả, việc đồng thuận trong xã hội là cơ sở cho tính chặt chẽ
trong sự liên minh, liên kết giữa các tổ chức xã hội, đồng thời là điều kiện cho
quá trình thực hiện dân chủ xã hội. Tuy nhiên, tác giả chưa ch ra cách thức,
biện pháp để tạo nên sự đồng thuận xã hội.
Tác giả Trịnh Ngọc Anh với bài viết “Phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh” (Tạp chí Cộng sản số
11/2013) đã ch ra tầm quan trọng của thực hiện quyền làm chủ của nhân dân,
mà đặc biệt là thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Từ đó tác giả cũng đề ra một số giải pháp nhằm
thực hiện hiệu quả quy chế dân chủ ở cơ sở.

TS. Dương Văn Duyên với bài viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ chế
thực hiện dân chủ” (Tạp chí Triết học số 1(140)/2003) đã nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò và sức mạnh to lớn của nhân dân đối với
sự nghiệp cách mạng.
GS. Lưu Văn Sùng qua bài viết “Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm quyền làm chủ của nhân dân” (Tạp chí cộng sản, số 15/1997) đã ch ra
những vấn đề trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện đất
nước còn nhiều khó khăn, phức tạp và nhiều mâu thuẫn và ch ra mở rộng dân
chủ xã hội chủ nghĩa trước hết là việc bảo đảm quyền làm chủ của người dân
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội. Trong đó, tác giả nhấn mạnh đến
quyền làm chủ và đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân về chính trị.
Lê Khả Phiêu với bài viết “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây
dựng và thực hiện thiết chế dân chủ ở cơ sở” (Tạp chí cộng sản, số 3/1998)
đã nghiên cứu về vấn đề mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân của Đảng ta. Qua bài viết, tác giả khẳng định muốn
phát huy quyền làm chủ của nhân dân phải thực hiện cả dân chủ đại diện và
dân chủ trực tiếp. Muốn vậy, phải xây dựng được các thiết chế dân chủ ở cơ

5


sở phù hợp với từng đối tượng, phải xác định rõ những việc dân cần phải
được thông tin, những việc dân cần phải biết. Có như vậy mới có thể phát huy
được dân chủ, đảm bảo thực hiện tốt quyền làm chủ của nhân dân.
2.2. Một số nghiên cứu về quyền làm chủ của nhân dân từ góc độ thực
tiễn các địa phương
Tác giả Vũ Gia Hiền trong cuốn “Phát huy dân chủ ở xã, phường” (Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004) đã nghiên cứu, điều tra, khảo sát
sau thời gian triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, đánh giá
tổng quát những việc làm được, rút ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất

những giải pháp để tiếp tục thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở hữu hiệu.
TS. Nguyễn Văn Sáu – GS. Hồ Văn Thông với cuốn “Thực hiện quy chế
dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay” (Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2003) đã tiến hành khảo sát, nghiên cứu ở nhiều địa phương
trên cả nước, có tham khảo kinh nghiệm ở một số nước từ đó tác giả ch ra
cách nhìn, giải pháp trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở và xây dựng chính
quyền cấp xã trên một số lĩnh vực như quản lý xã hội, hoạt động kinh tế, thực
hiện chương trình xóa đói giảm nghèo…
Hồ Thị Tú (2006), Các Đảng bộ phường ở Quận Thanh Xuân, thành phố
Hà Nội lãnh đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay,
Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành xây dựng Đảng. Tác giả đã làm rõ nội dung,
phương thức, đề xuất các giải pháp chủ yếu để tăng cường sự lãnh đạo của
các Đảng bộ phường ở quận Thanh Xuân thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Tác giả khẳng định: Thực hiện dân chủ cơ sở là con đường ngắn nhất, hiệu
quả nhất để mọi công dân được hưởng quyền tự do dân chủ một cách trực tiếp
và rộng rãi, đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân và góp phần làm phong
phú hơn hình thức thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân.

6


Luận văn của Thạc sĩ Thân Trọng Minh về “Đảng bộ Quận Gò Vấp lãnh
đạo thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở giai đoạn hiện nay”, Học viện chính
trị, 2014 nghiên cứu về việc thực hiện quy chế dân chủ ở Quận Gò Vấp từ
năm 2006 đến 2014, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao việc thực hiện
quy chế dân chủ cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn “Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc thực hiện
pháp luật về dân chủ ở cơ sở từ thực tiễn Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí
Minh” của Thạc sĩ Vũ Anh Tài, Học viện Khoa học Xã hội, 2016 đã phân tích
những vấn đề lý luận và thực tiễn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thực

hiện pháp luật dân chủ cơ sở, qua đó tác giả đề xuất các giải pháp nhằm nâng
cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thực hiện quy chế dân chủ
cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và giám sát chính quyền địa
phương trong thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở tại Quận Gò Vấp Thành
phố Hồ Chí Minh.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu và bài viết của các tác giả nêu
trên đã làm rõ cơ sở lý luận về quyền làm chủ của nhân dân từ các khía cạnh
khác nhau, ý nghĩa của việc bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân ở Việt Nam
hiện nay, đồng thời phân tích những thuận lợi, khó khăn, kết quả thực hiện và
đề ra một số giải pháp nhằm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong giai
đoạn hiện nay. Tuy nhiên, nghiên cứu về thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân tại Quận Gò Vấp, thực trạng và giải pháp vẫn còn là khoảng trống cần
tiếp tục nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên c u
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền làm chủ của nhân dân,
thực trạng việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân tại Quận Gò Vấp,
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, luận văn tập trung làm rõ vấn đề quyền

7


làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội. Từ đó
đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân tại quận Gò Vấp hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ cơ bản sau:
Thứ nhất, phân tích cơ sở lý luận về quyền làm chủ của nhân dân ở nước
ta hiện nay.
Thứ hai, phân tích thực trạng với những thành tựu, hạn chế của việc thực

hiện quyền làm chủ của nhân dân tại Quận Gò Vấp trong thời gian qua.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả của việc thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân tại Quận Gò Vấp hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên c u
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu việc thực quyền làm chủ của nhân dân tại
quận Gò Vấp hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Xuất phát từ tình hình thực tế thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân tại Quận Gò Vấp và các tài liệu mà tác giả có thể tiếp cận được,
đề tài tập trung nghiên cứu việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân tại
Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Về thời gian: Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, các số liệu, tư liệu,
khảo sát chủ yếu từ năm 1975 đến năm 2016.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên c u
5.1. Phương pháp luận
Cơ sở lý luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy
vật lịch sử và lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân.

8


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sử dụng những phương pháp cơ
bản như: quy nạp và diễn dịch, phân tích, tổng hợp, lịch sử - logic và các
phương pháp chung của khoa học xã hội. Để có những tư liệu cụ thể, tác giả
đã tiến hành khảo sát xã hội học ở một số địa phương.
6.


ngh a l luận và th c tiễn của luận văn

Luận văn góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân tại Quận Gò Vấp, đề xuất được các giải
pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng thực hiện quyền làm chủ của nhân dân
hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng
dạy chuyên đề; đồng thời cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ
quan chức năng trong việc tiếp tục đẩy mạnh và hoàn thiện việc thực hiện dân
chủ ở cơ sở trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân.
Chương 2: Thực trạng thực hiện quyền làm chủ của nhân dân tại quận
Gò Vấp hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp cơ bản nâng cao quyền làm chủ của nhân
dân tại quận Gò Vấp hiện nay.

9


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN
QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN
1.1. Cơ sở lý luận về quyền làm chủ của nhân dân
1.1.1. Khái niệm quyền làm chủ của nhân dân
Trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, vấn đề đấu tranh để
đảm bảo quyền làm chủ của con người, được phát triển trong suốt chiều dài

lịch sử, trong quá trình đấu tranh giai cấp, tùy từng giai đoạn mà thể hiện ở
các mức độ khác nhau.
Thời kỳ công xã nguyên thủy với nền văn minh mông muội và điều kiện
sống phụ thuộc chủ yếu vào giới tự nhiên, con người tổ chức lại thành từng
cộng đồng để tạo ra sức mạnh chống lại thiên tai, thú dữ… Lúc này sức mạnh
của cá nhân là sức mạnh của cộng đồng và sức mạnh của cộng đồng là sức
mạnh của cá nhân. Trong cộng đồng đó, từng cá nhân có quyền bầu ra người
xứng đáng làm thủ lĩnh của mình và phế bỏ nếu người thủ lĩnh không còn
xứng đáng, mọi người đều có quyền bình đẳng.
Cách tổ chức xã hội của công xã nguyên thuỷ cho thấy, hình thức dân
chủ đầu tiên của xã hội loài người thể hiện sự bình đẳng, vai trò vị trí của con
người trong công xã có quyền lực và chính quyền của nhân dân, nhân dân là
chủ thể của quyền lực trong cộng đồng.
Dân chủ bao hàm nội dung rộng lớn, được hiểu theo các khía cạnh khác
nhau như dân chủ được hiểu là một chế độ chính trị (như dân chủ chủ nô, dân
chủ tư sản, dân chủ vô sản - dân chủ xã hội chủ nghĩa); dân chủ được hiểu
như một giá trị nhân văn; phản ánh trạng thái và mức độ giải phóng con
người, nó thể hiện ở quyền lợi và nghĩa vụ của mọi công dân, được quy định

10


bằng pháp luật và thể hiện trong cuộc sống... Nhưng vấn đề cốt lõi nhất của
dân chủ vẫn là quyền làm chủ của nhân dân đối với quyền lực nhà nước.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự ra đời của chế độ tư hữu
và phân chia giai cấp trong xã hội, nền “dân chủ nguyên thủy” tan rã thay
bằng nền “dân chủ chủ nô”. Trong nền dân chủ chủ nô, quyền lực nhà nước
thuộc về giai cấp chủ nô, lúc này, giai cấp chủ nô thực hiện quyền lực của
mình đối với nô lệ và quyền lực của giai cấp chủ nô được thể chế hóa bằng
pháp luật và được duy trì, bảo vệ, thực hiện bởi nhà nước chủ nô.

Khi nền dân chủ tư sản ra đời dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất, giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị xã hội về kinh tế, chính
trị, xã hội. Dân chủ tư sản được xem là một bước tiến lớn trong lịch sử phát
triển của dân chủ khi mà nó quy định quyền phổ thông đầu phiếu, quyền ứng
cử và bầu cử, quyền bất khả xâm phạm thân thể và nhà ở, quyền tự do ngôn
luận, tự do tín ngưỡng… Tuy nhiên, dân chủ tư sản bộc lộ những hạn chế và
được giai cấp tư sản xem như một công cụ, hình thức thống trị xã hội. Trên cơ
sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản, khi mà phương thức sản xuất dựa trên quan
hệ bóc lột, áp bức, giai cấp tư sản nắm quyền lực chính trị thì lúc này dân chủ
tư sản thực chất là bảo vệ cho thiểu số. Theo Lênin “chế độ dân chủ tư sản,
tuy là một tiến bộ lịch sử vĩ đại so với thời trung cổ, song trước sau nó vẫn là
và dưới chế độ tư bản nó không thể không là một chế độ dân chủ chật hẹp, bị
cắt xén, giả hiệu, giả dối, một thiên đường của bọn giàu có, một cái cạm bẫy
và một cái mồi giả dối, đối với người bị bóc lột, đối với người nghèo” [35, tr.
305].
Khi giai cấp công nhân thông qua chính Đảng của mình lãnh đạo toàn
thể nhân dân lao động đứng lên đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ
quyền cai trị của giai cấp tư sản và tự mình trở thành giai cấp cầm quyền và
xây dựng nền dân chủ vô sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa thì giai cấp công nhân

11


mới thực sự trở thành người làm chủ xã hội, làm chủ vận mệnh của mình. Ch
có xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa thì mọi đặc quyền, đặc lợi mới bị xóa
bỏ và quyền lực thực sự vào tay đại đa số nhân dân lao động.
Ở dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân không ngừng
được mở rộng ở tất cả các lĩnh vực hoạt động của nhà nước, của xã hội. Mục
đích cao nhất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là xây dựng một xã hội không
còn sự phân chia giai cấp, không có áp bức bóc lột, không phân biệt nam nữ,

chủng tộc, tôn giáo… Dân chủ xã hội chủ nghĩa ghi nhận toàn bộ những
quyền tự do cá nhân, tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn
giáo, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân, chăm lo hạnh phúc, sự
phát triển tự do của mỗi người. Ở đó, quyền lực thật sự thuộc về nhân dân,
mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, đều có quyền và nghĩa vụ tham
gia vào công việc của nhà nước.
Như vậy, quyền làm chủ của nhân dân là tất cả quyền lực nhà nước đều
thuộc về nhân dân, thể hiện trên 3 mặt chủ yếu: chính trị - kinh tế - xã hội.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về quyền làm chủ của nhân
Tư tưởng lấy dân làm gốc đã được ông cha ta đúc kết qua hàng ngàn
năm dựng nước và giữ nước. Như Trần Hưng Đạo với triết lý “Khoan thư sức
dân làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước” hay như Nguyễn Trãi
cũng từng nói “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”.
Kế thừa và phát triển tư tưởng về dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân
của Mác – Lênin, quan điểm lấy dân làm gốc của ông cha, Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định dân chủ là “dân là chủ” và “dân làm chủ”, là quyền lực
thuộc về nhân dân, nhân dân tự tổ chức và thực hiện quyền lực của mình
thông qua nhà nước. Trong nhà nước đó, nhân dân là người làm chủ, còn cán
bộ, công chức là đầy tớ, là công bộc phục vụ và bảo vệ nhân dân; nước lấy

12


dân làm gốc, địa vị cao nhất là nhân dân, mọi quyền hành và lực lượng đều ở
dân. Dân ở đây theo Hồ Chí Minh là đông đảo quần chúng lao động bị áp bức,
bóc lột, là toàn thể nhân dân Việt Nam.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân là chủ tức là khẳng định vị trí của dân
trong mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, trong quan hệ đó, dân có mọi
quyền hạn đối với nhà nước và xã hội. Người dân được hưởng lợi ích và mọi

lợi ích đều là của dân, ý của dân là ý chí tối thượng mà xã hội và nhà nước
phải tuân theo. Dân làm chủ tức là người dân thực hiện quyền làm chủ của
mình bằng cách tham gia vào các hoạt động của nhà nước, thực hiện trách
nhiệm của mình đối với nhà nước, “đã là người chủ của nước nhà thì phải phụ
trách đối với Tổ quốc” [44, tr. 259]. Người dân thực hiện quyền làm chủ của
mình bằng cách trao một phần quyền lực của mình cho một bộ phận thực thi
để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ quyền lợi của người dân bằng cách
bầu ra Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Đồng thời người dân sử dụng
phần quyền lực còn lại của mình để giám sát , kiểm tra những người đại diện
cho ý chí, quyền lực của mình và hoạt động của nhà nước.
Dân là chủ và dân làm chủ theo Hồ Chí Minh có thể hiểu là:
“ NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” [44, tr. 232].
Dân chủ là quyền thiêng liêng của nhân dân và không ai được quyền
xâm phạm, Đảng và Nhà nước phải có trách nhiệm trong việc phát huy quyền

13


làm chủ của nhân dân, phải đảm bảo các điều kiện để nhân dân thực hiện đầy
đủ quyền làm chủ của mình. Dân chủ là lợi ích thiết thực của nhân dân, là cái
thúc đẩy nhân dân hành động vì đất nước, vì dân tộc và trở thành một trong
những sách lược thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, là giải pháp hữu hiệu tạo
nên sự nhất trí đồng lòng trong nhân dân. Người khẳng định “có phát huy dân

chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa
cách mạng tiến lên” [46, tr. 376].
Theo Hồ Chí Minh, vấn đề cốt lõi của việc thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân thể hiện ở bốn mặt: bảo đảm dân quyền, cải thiện dân sinh, nâng cao
dân trí và nắm vững dân tâm. Chăm lo dân quyền là bảo đảm quyền làm chủ
về mọi mặt của nhân dân, coi trọng quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Ngay từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, Người nhấn mạnh
“Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ” [ 39, tr. 515],
mọi quyền hành và lực lượng đều là của dân, mọi công việc đều do dân. Theo
Người, dân chủ có nghĩa là phải làm sao để nhân dân có quyền làm chủ, có
điều kiện làm chủ và nhân dân phải biết sử dụng quyền làm chủ của mình. Để
thực hiện được điều đó, trước hết Đảng và Nhà nước phải tạo điều kiện để
nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng việc đề ra các chủ trương,
chính sách, pháp luật; đồng thời mọi người dân phải tự mình phấn đấu, thực
hành dân chủ. Ch có như vậy, quyền làm chủ của nhân dân mới thực sự được
thực hiện.
Tại Điều 1, Hiến pháp 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp ch đạo
biên soạn đã đặt nền móng cho nền dân chủ công hòa quy định rõ “Nước Việt
Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền hành trong nước là của
nhân dân Việt Nam, không phân biệt giống nòi, trai gái, giàu nghèo, giai cấp,
tôn giáo”.

14


Theo Hồ Chí Minh, muốn đảm bảo thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân, trước hết phải xây dựng nhà nước của dân, ở Nhà nước đó, mọi quyền
hành trong nước đều là của dân, những vấn đề quan trọng liên quan đến vận
mệnh của đất nước đều do nhân dân quyết định. Bộ máy hành chính nhà nước

từ trung ương đến cơ sở đều do nhân dân bầu ra một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp và nhà nước lấy phục vụ nhân dân, đem lại lợi ích cho nhân dân, không
ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân làm tiêu chí để tổ chức và
hoạt động. Nhà nước của dân là nhà nước phải làm cho dân có ăn, dân có
mặc, dân có chỗ ở, dân được học hành, được tự do đi lại, được chăm sóc sức
khỏe và mọi cán bộ, công chức đều là người đầy tớ trung thành của nhân dân,
vì nhân dân mà phục vụ.
Cải thiện dân sinh là quan tâm đến việc cải thiện, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, người dân ch biết đến tự
do dân chủ khi mà người dân được ăn no, mặc ấm và trách nhiệm của Nhà
nước là phải làm sao để dân có ăn, có mặc, dân được học hành, được chăm
sóc sức khỏe…. Người xem đây là việc cần làm ngay và làm thường xuyên.
Nâng cao dân trí là một trong những thước đo quyền làm chủ của nhân
dân, ch khi nào dân trí được mở rộng và nâng cao thì xã hội mới phát triển.
Ch khi nào người dân Việt Nam hiểu biết hết về quyền lợi của mình, nghĩa
vụ của mình và có kiến thức để tham gia vào các công việc của Nhà nước thì
lúc đó mới giữ vững được nền độc lập, xã hội mới phát triển, dân chủ mới
được thực hành rộng rãi. Chăm lo cho dân trí được Hồ Chí Minh xem là một
việc làm cấp bách và lâu dài.
Nắm vững dân tâm có nghĩa là hiểu rõ tâm tư, tình cảm và nguyện vọng
của nhân dân từ đó huy động được sức mạnh to lớn của nhân dân. Hồ Chí
Minh khẳng định: “Làm việc gì cũng phải có quần chúng. Không có quần
chúng thì không thể làm được… Việc gì có quần chúng tham gia bàn bạc, khó

15


mấy cũng trở nên dễ dàng và làm được tốt… Dễ mười lần không dân cũng
chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong” [43, tr. 212]. Vì vậy, việc nào dù khó
khăn đến đâu, nếu được nhân dân ủng hộ thì đều sẽ thành công; còn nếu dân

không đồng lòng, không ủng hộ thì làm việc gì cũng không thể xong.
Vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin và thực hiện tư tưởng Hồ Chí
Minh, từ khi ra đời cho đến nay, quan điểm xuyên suốt trong quá trình lãnh
đạo cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam là luôn đề cao vai trò của người
dân và quyền làm chủ của nhân dân, luôn khẳng định cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng nhân dân và mục tiêu cao cả, động lực to lớn của cách mạng
là độc lập, dân chủ, dân quyền cho toàn thể nhân dân lao động Việt Nam.
Sau khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thành công, Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Đảng ta đã sớm xác định chế độ ta là: Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Tại Đại hội lần thứ IV của
Đảng (1976) đã đề ra nhiệm vụ có tính cương lĩnh là xây dựng quyền làm chủ
tập thể của nhân dân lao động, sao cho nhân dân thực sự trở thành người làm
chủ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…
Đến Đại hội VI năm 1986, trước tình hình đất nước đang đứng trước
nguy cơ khủng hoảng toàn diện, đòi hỏi Đảng ta phải đổi mới toàn diện, xác
định đúng mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng, đề ra những chủ trương, chính
sách đúng đắn để đưa đất nước thoát khỏi khó khăn, đem lại cuộc sống ấm no,
hạnh phúc cho người dân và từng bước xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Tại Đại hội này, Đảng đã đề ra phương châm “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra”, đây được xem là mốc đánh dấu việc đưa sự nghiệp xây
dựng dân chủ ở cách mạng nước ta vào chiều sâu. Thực hiện dân chủ hóa mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được
xác định là mục tiêu và động lực của Đổi mới.

16


Đại hội VII của Đảng diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước có
nhiều diễn biến và biến động phức tạp, đặc biệt là với sự sụp đổ của Chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, Đảng ta vẫn kiên định đi theo con đường

chủ nghĩa xã hội và tiếp tục xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trên cơ sở
đổi mới phương thức hoạt động của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân
dân. Tại Đại hội này, Đảng ta đã đề ra thêm mục tiêu công bằng xã hội và ch
rõ dân chủ gắn liền với công bằng xã hội phải được thực hiện trong thực tế
cuộc sống và trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Trong đó, không ch có
công bằng về phân phối lợi ích mà còn là công bằng về cơ hội phát triển cho
tất cả mọi người.
Đại hội VIII, Đảng ta khẳng định “Xây dựng nền Dân chủ xã hội chủ
nghĩa là nội dung cơ bản đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta. Phải có cơ chế
và cách làm cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước
[19, tr. 44].
Đến Đại hội IX, Đại hội tổng kết 15 năm đổi mới, mục tiêu dân chủ
được Đảng đặt ra trong hệ mục tiêu của đổi mới: dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Việc đưa dân chủ vào mục tiêu đổi mới là một
bước ngoặc trong nhận thức lý luận của Đảng và trong ý thức xã hội nói
chung của nhân dân.
Cũng tại Nghị quyết trung ương 5 khóa IX về đổi mới và nâng cao chất
lượng hệ thống chính trị ở cơ sở đã nêu rõ, thực hiện dân chủ cơ sở, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở là một đảm bảo quan trọng để xác lập ổn
định chính trị và phát triển bền vững. Nghị quyết còn nhấn mạnh, để phát huy
quyền làm chủ của nhân dân thì phải đảm bảo thực hiện dân sinh, nâng cao
dân trí, thực hiện dân quyền, làm cho dân chủ thực sự là của quý nhất trên đời
của nhân dân.

17


Trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã thể hiện điểm mới trong nhận
thức lý luận của Đảng về dân chủ và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở

Việt Nam. Thể hiện ở việc nhấn mạnh đến vị trí, vai trò của dân chủ trong xây
dựng xã hội xã hội chủ nghĩa đó là xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Điểm mới quan trọng trong nhận thức về dân
chủ của Đảng tại Đại hội XI so với các Đại hội trước đó, là việc đưa cụm từ
dân chủ lên trước cụm từ công bằng. Điều này cho thấy Đảng ta đã nhận thức
và xác định rõ vị trí, vai trò của dân chủ và thực hành dân chủ trong quá trình
xây dựng và phát triển đất nước.
Đến Đại hội XII, dân chủ và thực hành dân chủ đã có bước phát triển
mới, quyền làm chủ của nhân dân được đảm bảo thực hiện bằng nhiều hình
thức với mục tiêu là đảm bảo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc
về nhân dân. Việc thực hành dân chủ và không ngừng mở rộng quyền làm chủ
của nhân dân phải bằng những bước đi phù hợp với từng điều kiện cụ thể của
đất nước. Việc thực hành dân chủ được Đại hội XII đề ra đã đem lại những
bước tiến mới trong phát triển xã hội đồng thời chống lại những quan điểm sai
trái, thù địch cho rằng Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền.
Đại hội XII xác định “Hoàn thiện, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa,
quyền làm chủ của nhân dân; không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh khối
đại đoàn kết toàn dân tộc; tăng cường sự đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới
nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân” [28, tr. 79].
Có thể nhận thấy nếu như dân chủ được thực hiện từ Trung ương đến địa
phương, thì dân chủ ở cơ sở giống như là gốc của hệ thống đó. Có làm tốt dân
chủ cơ sở thì nền dân chủ của đất nước mới bền vững và phát triển lên cao
được. Trên cơ sở quan điểm “lấy dân làm gốc” và phương châm “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” từ Đại hội VI, Đại hội của Đổi mới cho đến

18


Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ

nghĩa là nội dung cơ bản đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta. Phải có cơ chế
và cách làm cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước.
Tư tưởng quan trọng này được thể hiện cụ thể hoá trong Ch thị 30/CT-TW
ngày 18/2/1998 về Xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Quy chế
dân chủ cơ sở là một bước cụ thể hóa quan điểm của Đảng ta về bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân. Quy chế dân chủ cơ sở đã trao cho nhân dân
một công cụ có tính pháp lý để người dân thực hiện và bảo vệ quyền làm chủ
của mình. Thực hiện tốt chế độ dân chủ đại diện kết hợp với dân chủ trực tiếp
ở cơ sở, gắn chặt quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở với chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước; công khai hóa những điều dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra. Đó chính là yếu tố quan trọng nhất trong phát huy quyền
làm chủ của nhân dân hiện nay.
1.2. Một số nội dung về th c hiện quyền làm chủ của nhân dân ở
nƣớc ta hiện nay
1.2.1. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân
Nhà nước pháp quyền là quy phạm pháp luật nhằm thực thi chủ quyền
của nhân dân trong khuôn khổ tổ chức nhà nước. Tất cả quyền lực đều nằm
trong tay nhà nước, nhưng được đặt trên cơ sở và thực thi theo những quy
phạm pháp lý đã được ghi thành luật và được nhân dân thừa nhận. Trong nhà
nước pháp quyền từ các hình thức, con đường (phương tiện) và cơ chế hoạt
động của nhà nước đến giới hạn tự do của công dân, đảm bảo bằng pháp luật,
đều được xác định một cách rõ ràng và chuẩn xác. Điều này có nghĩa nhà
nước được gắn kết bởi pháp luật, có toàn quyền thiết lập và tiếp nhận luật này
hay luật khác, song bản thân nhà nước có trách nhiệm hoạt động trong khuôn

19



khổ pháp luật ấy. Nói cách khác, nhà nước khi ban hành luật phải tôn trọng
luật đó chừng nào nó còn tồn tại và phổ biến, mặc dù nhà nước có toàn quyền
xem xét lại, hoặc thậm chí loại bỏ nó. Hơn nữa nhà nước thuộc về thẩm quyền
của tòa án của mình và có thể bị đưa ra xét xử. Chính điều này trong chừng
mực nào đó đảm bảo tính chất pháp quyền của nhà nước.
Về phương diện lý luận, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu
nhà nước. Nhà nước pháp quyền là giá trị phổ biến, là biểu hiện của một
trình độ phát triển dân chủ. Nhà nước pháp quyền được nhìn nhận như một
cách thức tổ chức nền dân chủ, cách thức tổ chức nhà nước và xã hội trên nền
tảng dân chủ. Điều này có nghĩa là, nhà nước pháp quyền gắn liền với một
nền dân chủ. Tuy không phải là một kiểu nhà nước được xác định theo lý luận
về hình thái kinh tế – xã hội, nhưng nhà nước pháp quyền không thể xuất hiện
trong một xã hội phi dân chủ.
Trải qua bao biến đổi của lịch sử, tại hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khóa VII (1994) của Đảng, lần đầu tiên khái niệm “nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” được đưa vào văn kiện.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân. Đảng và nhà nước ta luôn đấu tranh giành quyền làm chủ và đảm
bảo quyền làm chủ của nhân dân là mục đích và động lực của cách mạng Việt
Nam. Đảng và nhà nước phải có trách nhiệm đảm bảo cho nhân dân thực hiện
quyền làm chủ của mình trên tất cả các mặt của đời sống xã hội.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhằm mục đích duy
trì bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân của nhà nước ta, phát huy
dân chủ xã hội chủ nghĩa và làm cho nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được tổ chức và hoạt động dựa trên cơ
sở Hiến pháp và pháp luật, thể hiện địa vị tối cao của Hiến pháp và Pháp luật,
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là thống nhất và có sự phân công,

20



phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
đó, Nhà nước đó do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo và mọi quyền lực nhà
nước đầu thuộc về nhân dân một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các
cơ quan nhà nước do mình trực tiếp bầu ra.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân trở thành nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và nhà nước ta. Từ Hội nghị Đại
biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994), Đảng ta đã chính thức
nêu vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân, vì dân.
Trải qua các Hội nghị và các kỳ Đại hội, nhất là Đại hội VIII (1996) đến nay,
nhận thức của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ngày càng
cụ thể và có bước tiến quan trọng.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011): một trong 8 phương hướng cơ bản của
việc đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa là xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Đại hội Đảng lần thứ XI khẳng định: “Đẩy mạnh cải cách lập pháp, hành
pháp và tư pháp, đổi mới tư duy và quy trình xây dựng pháp luật; nâng cao
chất lượng hệ thống pháp luật. Tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, thực hiện nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp” [25, tr. 141-142].
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự phát triển. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở
mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và
phải được thể chế hoá bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm. Nhà nước tôn

21



×