Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Kiểm toán trách nhiệm kinh tế của cán bộ quản lý do Kiểm toán nhà nước Việt Nam thực hiện (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.38 KB, 7 trang )

1

2

CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

nghiên cứu và phỏng vấn bao gồm những cán bộ quản lý, những kiểm toán viên có thâm niên công tác từ 5 năm trở
lên, những cán bộ kiểm toán có hệ số lương khác nhau đang công tác tại KTNN.
Ngoài việc bổ sung cơ sở lý luận về KTTNKT, bài học kinh nghiệm về KTTNKT trên thế giới, Tác giả đánh
giá thực trạng công tác KTTNKT đối với cán bộ quản lý; xác định nguyên nhân và những nhân tố ảnh hưởng đến
sự phát triển KTTNKT tại KTNN để đưa ra các kiến nghị, giải pháp trong thời gian sắp tới.
Đối với việc xác định các nhân tố ảnh hưởng sự phát triển KTTNKT đối với cán bộ quản lý (nghiên cứu định
lượng). Tác giả sử dụng mô hình lý thuyết lý thuyết của Polltit & cộng sự (1999), sử dụng mô hình đầu vào - đầu ra
(mô hình logic) trong nghiên cứu và kết quả nghiên cứu các đề tài trong nước để thiết lập mô hình các nhân tố tác
động đến hoạt động KTTNKT đối với cán bộ quản lý trong các tổ chức sử dụng tài chính công, tài sản công ở Việt
Nam. Mô hình nghiên cứu đề xuất để xác định các nhân tố ảnh hưởng sự phát triển KTTNKT của cán bộ quản lý
là: Nhóm nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội; nhóm nhân tố khả năng của KTNN; nhóm nhân tố về các đối tượng,
khách thể được kiểm toán; nhóm nhân tố quan điểm xây dựng và phát triển kiểm toán.
6. Đóng góp của Đề tài
Thứ nhất, Phát triển, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về KTTNKT) của cán bộ quản lý; xác
định các nhân tố ảnh hưởng sự phát triển KTTNKT của cán bộ quản lý;
Thứ hai, Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về KTTNKT của cán bộ quản lý, đặc biệt tại KTNN Trung Quốc
để rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị tốt cho KTTNKT của cán bộ quản lý do KTNN Việt Nam thực hiện;
Thứ ba, Nghiên cứu thực trạng công tác KTTNKT của cán bộ quản lý do KTNN Việt Nam thực hiện trên
khía cạnh pháp lý, các quy định, hướng dẫn hiện hành cũng như thực tế công tác KTNNKT hiện nay; nghiên cứu,
khảo sát để xác định được các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến sự phát triển công tác KTTNKT của cán bộ quản lý.
Thứ tư, Đề xuất các giải pháp hoàn thiện công tác KTTNKT của cán bộ quản lý do KTNN thực hiện và đề
xuất hoàn thiện quy trình, hướng dẫn KTTNKT của cán bộ quản lý do KTNN Việt Nam thực hiện;
Thứ năm, Đề xuất một số kiến nghị với Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Tổng KTNN và các cơ
quan liên quan để triển khai và phát triển công tác KTTNKT của cán bộ quản lý do KTNN thực hiện.


7. Kết cấu của Luận án
Tên Luận án: “Kiểm toán trách nhiệm kinh tế của cán bộ quản lý do Kiểm toán Nhà nước Việt Nam thực
hiện”.
Sau phần giới thiệu, Bố cục Luận án gồm 05 chương:
Chương 1: Giới thiệu Đề tài nghiên cứu
Chương 2: Tổng quan tình hình nghiên cứu;
Chương 3: Những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm toán trách nhiệm kinh tế của cán bộ quản lý;
Chương 4: Thực trạng kiểm toán trách nhiệm kinh tế của cán bộ quản lý tại Kiểm toán Nhà nước hiện nay;
Chương 5: Hoàn thiện kiểm toán trách nhiệm kinh tế của cán bộ quản lý do KTNN Việt Nam thực hiện.

1. Tính cấp thiết của Đề tài
Từ khi có Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI), các cấp uỷ đảng, lãnh đạo các bộ, ban, ngành Trung ương đã
chỉ đạo, triển khai công tác đánh giá cán bộ, đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, công tác kiểm tra, đánh
giá cán bộ vẫn còn nhiều bất cập, chưa sát thực tế do công tác đánh giá của một số cấp ủy đảng còn nể nang vì là
người trong nội bộ đơn vị khó đánh giá. Công tác đánh giá cán bộ chỉ thực sự hiệu quả khi được thực hiện bởi một
cơ quan độc lập, có chuyên môn toàn diện do KTNN chủ trì.
Theo kinh nghiệm quốc tế, Kiểm toán trách nhiệm kinh tế (KTTNKT) đối với cán bộ lãnh đạo các cấp, các
DNNN là một biện pháp quan trọng để kiểm tra, đánh giá một cách xác đáng nhất trách nhiệm kinh tế người đứng
đầu đơn vị; đồng thời đây cũng là một biện pháp tốt để làm tốt công tác bảo vệ cán bộ. Qua nghiên cứu các vấn đề
lý luận, nhất là nghiên cứu về KTTNKT đối với cán bộ lãnh đạo ở Trung Quốc cũng như tình hình thực tiễn của
nước ta hiện nay trong công tác cán bộ và công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí cho
thấy kinh nghiệm của Trung Quốc có thể giúp chúng ta tiếp thu có chọn lọc để áp dụng phù hợp với thực tiễn và
yêu cầu của Việt Nam
Mặt khác công tác KTTNKT của cán bộ quản lý hiện nay chưa được KTNN quan tâm đúng mức, các nghiên
cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của KTTNKT của cán bộ quản lý còn chưa nhiều, đặc biệt trong
phạm vi KTNN.
Là môt kiểm toán viên nhà nước, bản thân Tác giả đã nhiều năm nghiên cứu thực hiện Đề tài: “Kiểm toán
trách nhiệm kinh tế của cán bộ quản lý do Kiểm toán Nhà nước Việt Nam thực hiện” với mục tiêu sử dụng những
kiến thức đã được nghiên cứu góp phần nâng cao vị thế, vai trò của KTNN, nâng cao tính minh bạch, hiệu quả
trong việc quản lý tài chính công, tài sản công.

2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát của Đề tài là phát triển lý luận về KTTNKT của các nhà quản lý, xác định các nhân tố
ảnh hưởng sự phát triển KTTNKT và đưa các giải pháp hoàn thiện công tác KTTNKT của cán bộ quản lý do
KTNN Việt Nam thực hiện. Các mục tiêu cụ thể gồm:
Thứ nhất, Phát triển, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về KTTNKT) của cán bộ quản lý; xác
định các nhân tố ảnh hưởng sự phát triển KTTNKT của cán bộ quản lý;
Thứ hai, Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về KTTNKT của cán bộ quản lý, đặc biệt tại KTNN Trung Quốc
để rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị tốt cho KTTNKT của cán bộ quản lý do KTNN Việt Nam thực hiện;
Thứ ba, Nghiên cứu thực trạng công tác KTTNKT của cán bộ quản lý do KTNN Việt Nam thực hiện trên
khía cạnh pháp lý, các quy định, hướng dẫn hiện hành cũng như thực tế công tác KTNNKT hiện nay; nghiên cứu,
khảo sát để xác định được các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến sự phát triển công tác KTTNKT của cán bộ quản lý.
Thứ tư, Đề xuất các giải pháp hoàn thiện công tác KTTNKT của cán bộ quản lý do KTNN thực hiện và đề
xuất hoàn thiện quy trình, hướng dẫn KTTNKT của cán bộ quản lý do KTNN Việt Nam thực hiện;
Thứ năm, Đề xuất một số kiến nghị với Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Tổng KTNN và các cơ
quan liên quan để triển khai và phát triển công tác KTTNKT của cán bộ quản lý do KTNN thực hiện.
3. Câu hỏi nghiên cứu
Thực trạng KTTNKT đối với cán bộ quản lý do Kiểm toán nhà nước Việt Nam thực hiện có gì hạn chế?
Nhân tố nào tác động tới KTTNKT đối với cán bộ quản lý kinh tế tại các tổ chức công do Kiểm toán Nhà
nước Việt Nam thực hiện?
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Đề tài là KTTNKT của cán bộ quản lý và các nhân tố ảnh hưởng sự phát triển
KTTNKT của cán bộ quản lý. Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trong các cuộc kiểm toán NS, tiền và tài sản nhà
nước của KTNN thực hiện trong giai đoạn 2011-2015. Do định nghĩa về cán bộ quản lý khá rộng nên Đề tài tập trung
vào các cán bộ quản lý chủ yếu bao gồm cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước và cán bộ lãnh đạo quản lý DNNN có liên
quan đến việc quản lý sử dụng tài chính công và tài sản công.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng để thực hiện luận án là Phương pháp nghiên cứu định lượng (để xác
định các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển KTTNKT của cán bộ quản lý) và định tính, để thực hiện phương pháp
này, tác giả tiến hành khảo sát ý kiến các cán bộ làm công tác kiểm toán tại KTNN, đầu tiên tác giả xây dựng Bảng
hỏi khảo sát sau đó sàng lọc ý kiến, từ đó thực hiện phân tích kết quả nghiên cứu thông qua phần mềm SPSS.

Lượng kiểm toán viên được lựa chọn là 300 người vì đây là công trình nghiên cứu cần có sự chính xác, với
cỡ mẫu 300 người là cỡ mẫu tối thiểu để đạt được độ chính xác của việc nghiên cứu, đối tượng được sử dụng trong


3

4

CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Phạm Tiến Dũng (2016) trên Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, số 477 - tháng 9/2016 (tr35 37) đã có bài viết nghiên cứu về KTTNKT của cán bộ quản lý, đưa ra khái niệm, đặc trưng của KTTNKT của cán
bộ quản lý;
Phạm Tiến Dũng (2016) trên Tạp chí Tài chính - tháng 9/2016 (tr23-25) đã có bài viết nghiên cứu đề xuất
các giải pháp hoàn thiện KTTNKT tại Việt Nam và đề xuất các giải pháp để triển khai KTTNKT của cán bộ quản
lý do KTNN Việt Nam thực hiện;
Phạm Tiến Dũng (2016) trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo và Tạp chí nghiên cứu Khoa học Kiểm toán
(tháng 10/2016) đã có bài viết về kinh nghiệm của Trung Quốc đối với KTTNKT với cán bộ quản lý;
Phạm Tiến Dũng, Nguyễn Thị Hạnh Duyên (2017) trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo (tháng 02/2017) đã có
bài viết về các nhân tố ảnh hưởng sự phát triển KTTNKT của cán bộ quản lý do KTNN Việt Nam thực hiện. Trong
bài viết đã chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của KTTNKT là đặc thù của các tổ chức công, năng lực
kiểm toán, khả năng KTTNKT của KTNN, yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội...;
Nguyễn Đình Hựu (2002) đã có bài viết nghiên cứu về vị trí, chức năng và phương thức hoạt động của Tòa
Kiểm toán Pháp trong đó đặc biệt nhất mạnh đến hình thức kiểm toán tài phán. Tòa Kiểm toán được thành lập dưới
hình thức một tòa án tư pháp, có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm kinh tế của các nhân viên kế toán công trong
trường hợp có vi phạm và có quy chế thẩm phán xét xử và có quyền tài phán.
Phạm Anh Tuấn (2014) trên Tạp chí Kiểm toán, Số Xuân - tháng 1/2014 (tr10 - 11) có để xuất tăng cường
chức năng khởi tố vụ án cho KTNN Việt Nam để tăng cường công tác phòng chống tham nhũng vì các hành vi
tham nhũng ngày càng phức tạp, tinh vi, thô bạo với quy mô lớn, liên quan nhiều cấp, nhiều ngành.
Bùi Thị Thúy (2014) tại Luận án tiến sĩ kinh tế với Đề tài: "Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới chất

lượng kiểm toán báo cáo tài chính các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam" đã hệ thống
hóa 16 nhân tố ảnh hưởng (các nhân tố này có thể kế thừa trong Luận án) tới chất lượng kiểm toán báo cáo tài
chính của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam hiện nay, được chia thành 3
nhóm, gồm: Nhóm nhân tố bên ngoài, nhóm nhân tố về kiểm toán viên và nhóm nhân tố công ty kiểm toán. Trong
số này, tác giả phát triển 12 tiêu chí đo lường 3 nhân tố thuộc nhóm Bên ngoài (Môi trường pháp lý, Doanh nghiệp
niêm yết và Kiểm soát bên ngoài và khác) phù hợp với tình hình thực tế tại Việt Nam.
Đặng Anh Tuấn (2015) tại Luận án tiến sĩ kinh tế đã có nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến kiểm toán
trong lĩnh vực công tại Việt Nam (các nhân tố này có thể kế thừa trong Luận án). Có thể nói, đây là một trong
những công trình đầu tiên trong nước có nghiên cứu định lượng về các nhân tố ảnh hưởng đến kiểm toán trong lĩnh
vực công tại Việt Nam do KTNN Việt Nam thực hiện. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 04 nhóm nhân tố ảnh hưởng
hoạt động kiểm toán trong lĩnh vực công là: (1) Nhân tố chính trị; (2) Nhân tố khả năng của KTNN; (3) Nhân tố kỹ
năng của KTV; (4) Nhân tố kinh tế. Trong đó quan trọng nhất là phát hiện việc phát triển công tác kiểm toán phụ
thuộc vào nhân tố nội tại (khả năng nội tại của KTNN, kỹ năng của KTV) hơn là các nhân tố bên ngoài (nhân tố
chinh trị, kinh tế). Mặt khác nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tại những nước đang phát triển, mức độ minh bạch và
trách nhiệm giải trình chưa cao thì nhu cầu về KTTNKT là rất cao do khả năng "cung" còn thấp, chưa đáp ứng nhu
cầu.
Nhìn chung các đề tài trong và ngoài nước mới chỉ bước đầu xây dựng cơ sở lý luận chung về KTTNKT; bước
đầu xây dựng khái niệm KTTNKT đối với cán bộ quản lý, đặc trưng, vai trò, lịch sử hình thành, phát triển của
KTTNKT; những bài học kinh nghiệm của các SAI trên thế giới đối với KTNN Việt Nam việc xây dựng, phát triển
KTTNKT đối với cán bộ quản lý. Chưa có công trình nào nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng sự phát triển của
KTTNKT đối với cán bộ quản lý hoặc thực trạng công tác KTTNKT, vai trò của KTTNKT đối với việc thực hiện kết
luận, kiến nghị kiểm toán và tái diễn các sai phạm. Các đề tài cũng chưa đưa ra các giải pháp cụ thể, đặc biệt chưa có
giải pháp đưa KTTNKT vào Nghị quyết của Trung ương Đảng; quy trình, hướng dẫn kiểm toán còn khá đơn giản và
chưa tính đến sử dụng lực lượng liên ngành của các cơ quan hành pháp, tư pháp…

2.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Tôn Hiểu Nham (2005) “Kiểm toán trách nhiệm kinh tế đối với cán bộ quản lý Nhà nước”, ông chỉ ra
KTTNKT của cán bộ quản lý tại các đơn vị Nhà nước là quan trọng vì tại các đơn vị công là những đơn vị sử dụng
NSNN nên việc xảy ra hiện tượng tiêu cực là dễ thấy. Do đó khi kiểm toán, KTNN phải kiểm toán TNKT đối với
cán bộ quản lý. Ông nêu ra rằng kiểm toán TNKT phải kiểm toán được tình trạng tham ô, lãng phí và tình trạng tha

hóa đạo đức của những cán bộ quản lý trong các tổ chức công.
Crawbath (2001), trong công trình nghiên cứu “Các nhân tố ảnh hưởng tới kiểm toán cán bộ quản lý” có nói
lên rằng kiểm toán cán bộ quản lý là một nhiệm vụ khó thực hiện với lý do các nhân tố ảnh hưởng tới kiểm toán
đặc biệt là trách nhiệm kinh tế của cán bộ quản lý như: Nhân tố kinh tế, xã hội, đối tượng kiểm toán làm cho kết
quả KTTNKT của cán bộ quản lý trở nên ít chính xác vì nó tác động lớn đến các cán bộ kiểm toán làm cho KTV dễ
nhận định sai.
Smarth Jhon (2000), “Kiểm toán trách nhiệm kinh tế của cán bộ quản lý trong cá tổ chức hành chính nhà
nước”, trong công trình nghiên cứu của mình tác giả chỉ ra rằng tại các nước xã hội chủ nghĩa, hiện tượng cán bộ
quản lý để xảy ra tình trạng thiếu trách nhiệm trong quản lý là xuất phát từ hiện tượng tư lợi cá nhân và lợi ích
riêng nên dễ xảy ra hiện tượng tiêu cực làm cho hậu quả là các tổ chức kém phát triển gây lãng phí và thất thoát cho
nhà nước làm ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của đất nước do đó phải tăng cường công tác thanh kiểm tra các đơn
vị khu vực công nhằm mục đích minh bạch tài chính, giảm thất thoát tiền, tài sản nhà nước.
Nath (2005) chỉ ra rằng, có 8 nhân tố được phân loại thành nhóm nhân tố kinh tế, chính trị và xã hội có ảnh
hưởng tới việc hình thành kiểm toán trong các tổ chức công gồm: Vai trò Tổng KTNN; yêu cầu từ các cấp chính
quyền; chính sách tài khóa; áp lực từ các nhóm lợi ích (chính trị gia, phương tiện truyền thông...); vai trò của các ủy
ban trong quốc hội; thay đổi luật và quy định; tác động của nghề nghiệp kế toán, kiểm toán; thay đổi cơ cấu tổ chức
của SAI. Trong số 8 nhân tố trên, có 3 nhân tố (gồm ủy ban kế toán công, quốc hội và phương tiện truyền thông)
đóng vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển Kiểm toán, các nhân tố này có ảnh hưởng làm tăng cầu về kiểm
toán.
Pollit và Cộng sự (1997, 1999) đưa ra quan điểm chức năng kiểm toán trong các tổ chức công không chỉ đơn
giản là áp dụng những kỹ thuật kiểm toán phù hợp mà còn bao hàm khía cạnh quản lý được áp dụng trong mô hình
quản trị công mới. Pollit cho rằng thay đổi trên phương diện kỹ thuật kiểm toán trong các tổ chức công quyết định
loại hình kiểm toán và tiến trình phát triển, nhưng những thay đổi kỹ thuật kiểm toán chỉ xuất hiện cùng với những
thay đổi trong cải cách quản trị công. Trên bằng chứng thực nghiệm khảo sát tại 05 quốc gia khác nhau bao gồm
Phần Lan, Pháp, Hà Lan, Thủy Điển và Anh (thông qua nghiên cứu tình huống), Pollitt & cộng sự (1999) đã đưa ra
mô hình đầu ra, đầu vào (mô hình logic) để thiết lập mô hình các nhân tố tác động đến hoạt động kiểm toán.
Pollit và Cộng sự (1997, 1999) nhấn mạnh đến các nhân tố ảnh hưởng đến chiến lược kiểm toán là: các
nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội; khả năng các SAI (trình độ, kỹ năng KTV và khả năng thực hiện nhiệm vụ của các
SAI); đặc điểm của đối tượng được kiểm toán; quan điểm xây dựng và phát triển kiểm toán của các SAI….
Nhìn chung các công trình nghiên cứu đã chỉ ra sự cần thiết phải thực hiện KTTNKT của cán bộ quản lý đối

với lĩnh vực công nhằm mục tiêu phòng chống tham nhũng, minh bạch tài chính công; các công trình đã tập trung
nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng công tác kiểm toán và đã chỉ ra được một số nhóm nhân tố ảnh hưởng công tác
kiểm toán: như yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội; yếu tố về đặc thù của đơn vị được kiểm toán; yếu tố về năng lực
của các SAI…
2.2. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam
Về KTTNKT đã có một số công trình khoa học được công bố như:
GS.TS Vương Đình Huệ (2003) đã đưa ra lý luận chung ban đầu về KTTNKT và có xây dựng sơ bộ quy
trình KTTNKT đối với cán bộ quản lý. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ đã đưa ra được cơ sở lý luận cùng mô
hình KTTNKT đối với cán bộ quản lý và có đưa ra lộ trình từ 2003 đến 2010 đưa hoạt động KTTNKT vào nền nếp.
Đây là Đề tài nghiên cứu khoa học đầu tiên về KTTNKT, đặt nền móng về khái niệm, đặc trưng, xây dựng cơ sở lý
luận, quy trình KTTNKT đối với cán bộ quản lý;.
Nguyên chủ tịch nước Trương Tấn Sang (2007), trên Tạp chí Kiểm toán (KTNN Việt Nam góp phần nâng
cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, Tạp chí Kiểm toán, Số 9 (82) - tháng 9/2007
(tr6 - 8)), đã có quan điểm cần phải KTTNKT đối với cán bộ được đề bạt, mãn nhiệm kỳ nhằm chống tham nhũng,
lãng phí NS, tài sản nhà nước. Có thể nói đây là tuyên bố bước đầu cho quyết tâm đặt nền móng KTTNKT của một
thành viên của Bộ Chính trị. Tiếp đến, ngày 18/07/2009, tại cuộc họp giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội và KTNN
bàn về Đề án Chiến lược Phát triển KTNN đến 2015 và tầm nhìn 2020 có đặt ra mục tiêu sẽ nghiên cứu ban hành
cơ sở pháp lý thực hiện KTTNKT trước khi bổ nhiệm và mãn nhiệm đối với cán bộ lãnh đạo.


5

6

CHƯƠNG 3
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KIỂM TOÁN TRÁCH NHIỆM KINH TẾ CỦA CÁN BỘ QUẢN

3.1. Cán bộ quản lý và trách nhiệm kinh tế của cán bộ quản lý
Định nghĩa về cán bộ quản lý rất rộng. Trong phạm vi của Đề tài thì khái niệm cán bộ quản lý chủ yếu bao
gồm cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước tại địa phương và cán bộ lãnh đạo quản lý DNNN có liên quan đến việc

quản lý sử dụng tài chính công và tài sản công.
Trách nhiệm kinh tế của cán bộ quản lý là trách nhiệm cá nhân cán bộ quản lý trong các cơ quan, tổ chức,
đơn vị. Để tăng cường trách nhiệm kinh tế phải xây dựng chế độ trách nhiệm kinh tế bao gồm các quy định xác
định rõ trách nhiệm kinh tế của từng cá nhân, tổ chức trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước.
3.2. Kiểm toán trách nhiệm kinh tế của cán bộ quản lý
3.2.1. Khái quát chung về kiểm toán trách nhiệm kinh tế đối với cán bộ quản lý
KTTNKT đối với cán bộ quản lý là hoạt động kiểm tra và đánh giá của cơ quan KTNN về trách nhiệm kinh
tế của cán bộ quản lý trong nhiệm kỳ công tác thông qua việc kiểm tra, đánh giá tính trung thực, hợp pháp và hiệu
quả trong quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công và các hoạt động kinh tế liên quan khác của địa phương,
đơn vị do họ lãnh đạo.
Một số đặc trưng của KTTNKT đối với cán bộ quản lý:
Thứ nhất, KTTNKT là một loại hình kiểm toán hỗn hợp, chủ yếu là kiểm toán tuân thủ có kết hợp với kiểm
toán hoạt động đối với các hoạt động kinh tế và quản lý tài chính công, tài sản công gắn với trách nhiệm quản lý,
điều hành của cán bộ lãnh đạo;
Thứ hai, KTTNKT là loại hình kiểm toán phức tạp, phải được thực hiện bởi các KTV có kinh nghiệm; phải
phối hợp nhiều cơ quan để thực hiện; có tính "nhạy cảm chính trị rất cao" nên tuyệt đối phải bảo mật thông tin
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Thứ ba, KTTNKT có thể coi là một dạng kiểm toán hỗn hợp, được thực hiện trong cùng một cuộc kiểm toán
các nội dung kiểm toán BCTC, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động nếu xét về nội dung kiểm toán.
Thứ tư, KTTNKT đối với cán bộ lãnh đạo có phạm vi chủ yếu chỉ liên quan đến lĩnh vực quản lý tài chính
công, tài sản công của đơn vị có liên quan đến trách nhiệm quản lý của người cán bộ lãnh đạo quản lý. Trách nhiệm
này được xác định trên cơ sở chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ có thẩm quyền, trong thời gian nhiệm kỳ
mà người cán bộ đó giữ chức vụ lãnh đạo đơn vị.
Thứ năm, cơ quan KTNN và KTV nhà nước là đơn vị thực hiện chính công việc này do đây là loại hình đặc
thù liên quan đến kiểm tra, đánh giá cán bộ của nhà nước nên chủ thể kiểm toán chỉ có thể là KTNN, không nên uỷ
thác cho KTV độc lập và KTV nội bộ của đơn vị.
Thứ sáu, Mục đích của KTTNKT đối với cán bộ lãnh đạo là thông qua xem xét, kiểm tra để đánh giá, quy
trách nhiệm kinh tế đối với cán bộ lãnh đạo quản lý. Do đó, loại hình kiểm toán này được coi như một hình thức
đặc biệt để các cơ quan chức năng có căn cứ đánh giá cán bộ lãnh đạo. Đồng thời, do mục đích đánh giá cán bộ nên
có sự khác biệt giữa chủ thể kiểm toán và người yêu cầu kiểm toán. Trong mọi trường hợp, chủ thể kiểm toán là

KTNN nhưng người yêu cầu, người “đặt hàng” là cơ quan có thẩm quyền trong quản lý và đánh giá cán bộ. Vì vậy,
trong quy trình kiểm toán phải có sự tham gia của nhiều bên và phải có cơ chế cụ thể trong việc phối hợp giữa
KTNN và các cơ quan có liên quan khác.
KTTNKT đối với cán bộ quản lý là một công cụ quan trọng, mang tính đột phá để ngăn ngừa, đấu tranh
chống tham nhũng; là loại hình kiểm toán mới mà KTNN phải triển khai thực hiện để nhằm mục tiêu minh bạch
hóa quá trình quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo đủ
năng lực, đủ tài, có đức và chắc chắn sẽ được Đảng, Nhà nước và đông đảo các tầng lớp nhân dân và quần chúng
đồng tình ủng hộ.
Đối tượng KTTNKT: Là kết quả thực hiện trách nhiệm kinh tế của cán bộ quản lý (gồm: Cán bộ lãnh đạo
quản lý tại các cơ quan đảng, chính quyền và đoàn thể của trung ương và các cấp địa phương (gọi chung là cán bộ
lãnh đạo các cơ quan nhà nước); cán bộ lãnh đạo quản lý tại các DNNN (doanh nghiệp do nhà nước chi phối)). Tuỳ
thuộc vào yêu cầu, điều kiện, năng lực của cơ quan KTNN, các nước có thể thực hiện kiểm toán toàn bộ các đối
tượng trên hoặc tiến hành kiểm toán thí điểm một số đối tượng cụ thể để nhân rộng khi có điều kiện.
Mục tiêu của KTTNKT đối với cán bộ quản lý: Mục tiêu của KTTNKT đối với cán bộ quản lý trong các tổ
chức công là để đánh giá toàn diện năng lực, phẩm chất, khả năng của cán bộ quản lý nhằm tránh hiện tương tham
ô, lãng phí gây thất thoát tài sản của Nhà nước, góp phần đẩy mạnh hiệu quả hoạt động của các tổ chức công hiện
nay.
Nội dung KTTNKT: (1) đối với cán bộ lãnh đạo các cơ quan quản lý hành chính nhà nước thì nội dung kiểm
toán gồm công tác quản lý tài chính công, tài sản công; (2) đối với cán bộ lãnh đạo DNNN thì nội dung kiểm toán

bao gồm: Tính trung thực, hợp pháp về tài sản, nguồn vốn; kết quả kinh doanh; Sự bảo toàn và gia tăng vốn chủ
của nhà nước ở doanh nghiệp; kết quả góp vốn liên doanh, liên kết; tình hình thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp
đối với NSNN; Tình hình chấp hành các luật, chính sách, chế độ quản lý kinh tế, tài chính, kế toán... ở doanh
nghiệp. Ngoài ra, trong điều kiện hiện nay, trong những trường hợp cần thiết, hoàn toàn có thể kết hợp kiểm toán
công tác cán bộ; kiểm toán cả bản kê khai tài sản của cán bộ lãnh đạo theo quy định (có thể đối chiếu xem xét và
yêu cầu giải trình việc chênh lệch hoặc tăng bất thưởng đối với các tải sản của cán bộ lãnh đạo quản lý hoặc tài sản
của vợ, chồng, con của các lãnh đạo quản lý với bản kê khai thu nhập, tài sản hàng năm của họ…).
Thời điểm kiểm toán trách nhiệm kinh tế là trước, sau nhiệm kỳ cán bộ hoặc theo yêu cầu đột xuất của các
cơ quan có thẩm kỳ.
KTTNKT là loại hình kiểm toán hỗn hợp bao gồm cả kiểm toán tuân thủ, kiểm toán tài chính và kiểm toán

hoạt động.
Quy trình KTTNKT đối với cán bộ quản lý được trình bày theo quy trình 2.1 dưới đây: Lập kế hoạch
KTTNKT; Thực hiện KTTNKT; Báo cáo KTTNKT đối với cán bộ quản lý; Sử dụng kết quả KTTNKT; Kiểm tra
việc thực hiện kết luận kiểm toán.
3.3. Bài học kinh nghiệm kiểm toán trách nhiệm kinh tế của cán bộ quản lý
3.3.1. Kinh nghiệm các kiểm toán nhà nước trên thế giới đối với đánh giá trách nhiệm kinh tế của cán bộ quản

Nguyễn Đình Hựu (2002) đã có bài viết nghiên cứu về vị trí, chức năng và phương thức hoạt động của Tòa
Kiểm toán Pháp trong đó đặc biệt nhất mạnh đến hình thức kiểm toán tài phán. Tòa Kiểm toán cũng có quyền kiểm
tra các tài khoản và công tác quản lý tài chính của các tổ chức nhà nước hoặc tư nhân nhận tài trợ từ NSNN và các
cơ quan khác chịu sự kiểm toán bắt buộc. Tòa Kiểm toán được thành lập dưới hình thức một tòa án tư pháp, có
thẩm quyền truy cứu trách nhiệm của các nhân viên kế toán công trong trường hợp có vi phạm và có quy chế thẩm
phán xét xử và có quyền tài phán. Nếu thấy những giải trình của nhân viên kế toán là thiếu căn cứ, Tòa Kiểm toán
buộc người đó phải bồi thường bằng tài sản riêng của họ đối với các sai phạm. Quyết định quy định trách nhiệm bồi
thường có hiệu lực thi hành đối với tài sản của nhân viên kế toán cũng như đối với tài sản của người bảo lãnh của
người đó.
KTNN Trung Quốc đã và đang phát triển rất mạnh loại hình KTTNKT của các nhà quản lý. Bên cạnh việc
công bố các kết quả kiểm toán thường niên, KTNN Trung Quốc thường nêu đích danh trên báo, đài… việc biển thủ
công quỹ của từng cá nhân, cơ quan chính phủ, đồng thời tiến hành bàn giao hồ sơ truy tố cho cơ quan tư pháp và
hồ sơ kỷ luật cho các cơ quan kỷ luật của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Loại hình kiểm toán này được Trung Quốc
triển khai từ những năm 1980, phát triển mạnh từ năm 1998 đến nay và rất phổ biến hiện nay. Không giống với các
đơn vị kiểm toán lấy "đơn vị" làm khách thể kiểm toán, khách thể KTTNKT chủ yếu là "con người". Thực tiễn cho
thấy sẽ tồn tại những khác biệt trên các lĩnh vực, mục tiêu, phạm vi, mô hình tổ chức quản lý, phương pháp, đánh
giá và kết quả vận dụng giữa KTTNKT và kiểm toán BCTC, kiểm toán tuân thủ hiện nay.
3.3.2. Bài học kinh nghiệm về kiểm toán trách nhiệm kinh tế của cán bộ quản lý do Kiểm toán Nhà nước thực
hiện cho Việt Nam
Thứ nhất, để triển khai loại hình này thì điều kiện đầu tiên là phải có sự đồng ý, quyết tâm của cơ quan
quyền lực cao nhất của nhà nước. Cụ thể là phải có sự quyết tâm chính trị và chủ trương của lãnh đạo đảng cầm
quyền và nhà nước.
Thứ hai, sự đồng bộ, phù hợp với các quy định luật pháp, chức năng và nhiệm vụ của KTNN

Thứ ba, KTTNKT phải được luật hóa trong Luật KTNN và phải được sự chỉ đạo, đồng ý của Ban chấp hành
Trung ương Đảng và Bộ Chính trị.
Thứ tư, các hướng dẫn được sử dụng trong KTTNKT: Để có thể thực hiện KTTNKT, cơ quan KTNN và
KTV nhà nước cần phải có các tiêu chuẩn, nguyên tắc cụ thể để sử dụng trong kiểm tra, nhận xét, đánh giá và kết
luận về từng nội dung kiểm toán.
Thứ năm, về quy trình kiểm toán: Ngoài các hướng dẫn và quy trình kiểm toán đã có sẵn, cơ quan KTNN
còn phải nghiên cứu, xây dựng và tổ chức thực hiện quy trình kiểm toán riêng, có tính đặc thù về KTTNKT để thực
hiện kiểm toán và kiểm soát chất lượng các đoàn kiểm toán, các KTV.
Thứ sáu, về cơ chế phối hợp trong KTTNKT: Không thể KTTNKT của cán bộ quản lý nếu thiếu sự phối hợp
của các cơ quan khác trong bộ máy quản lý nhà nước. Thứ bảy, về kinh phí KTTNKT: theo nguyên tắc độc lập,
cơ quan KTNN là một cơ quan của nhà nước, được nhà nước đảm bảo kinh phí và các nguồn lực cần thiết khác từ
NSNN cho tổ chức và hoạt động của KTNN.
3.4. Mô hình nghiên cứu xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển kiểm toán trách nhiệm kinh tế
Đối với việc xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển KTTNKT đối với cán bộ quản lý (nghiên cứu
định lương). Tác giả sử dụng mô hình lý thuyết lý thuyết của Polltit & cộng sự (1999), sử dụng mô hình đầu vào đầu ra (mô hình logic) trong nghiên cứu và kết quả nghiên cứu các đề tài trong nước để thiết lập mô hình các nhân


7

8

tố tác động đến hoạt động KTTNKT đối với cán bộ quản lý trong các tổ chức sử dụng tài chính công, tài sản công ở
Việt Nam. Mô hình nghiên cứu đề xuất để xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển KTTNKT của cán bộ
quản lý là:
Nhóm nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội gồm các nhân tố: Tham ô, lãng phí trong quản lý tại các tổ chức công;
thiếu quy định về trách nhiệm kinh tế của cán bộ quản lý trong các tổ chức công; kết quả KTTNKT của cán bộ
quản lý tại các đơn vị công còn hạn chế; yêu cầu triển khai KTTNKT của bán bộ quản lý để tránh thất thoát lãng
phí; yêu cầu từ quốc hội; vai trò của KTNN là phải thực hiện KTTNKT đối với cán bộ quản lý tại các tổ chức công;
Luật KTNN yêu cầu phải KTTNKT đối với cán bộ quản lý; sự giúp đỡ của các chuyên gia trong lĩnh vực KTTNKT
đối với cán bộ quản lý; yêu cầu từ sự minh bạch của công chúng đối với trách nhiệm kinh tế của cán bộ quản lý

trong tổ chức công.
Nhóm nhân tố khả năng của KTNN gồm: KTV có kiến thức đầy đủ về KTTNKT đối với cán bộ quản lý;
KTV có kiến thức chuyên sâu khi tham gia KTTNKT của cán bộ quản lý; trình độ và kinh nghiệm của KTV khi
tham gia KTTNKT cao; năng lực xây dựng nên các tiêu chí KTTNKT đối với cán bộ quản lý tại KTNN; khả năng
vận các phương pháp kiểm toán trong KTTNKT đối với cán bộ quản lý tại KTNN; các kỹ năng phân tích, tổng hợp
và viết báo cáo trong KTTNKT của KTV; có đầy đủ nguồn lực để KTTNKT đối với cán bộ quản lý trong các tổ
chức công hiện nay; có phương pháp triển khai KTTNKT của cán bộ quản lý trong các tổ chức công tốt; nội dung
KTTNKT đối với cán bộ quản lý tại KTNN đẩyđủ và phong phú.
Nhóm nhân tố về các đối tượng, đơn vị được kiểm toán gồm: Quy mô và phạm vi của các tổ chức công
thường rộng và khó kiểm soát; Loại hình hoạt động của các tổ chức công quá đa dạng; Các tổ chức công thường là
các tổ chức được ủng hộ của Nhà nước; cán bộ quản lý của các tổ chức công được KTTNKT thường là những
người có quan hê phức tạp và được ủng hộ của cơ quan chủ quản; tổ chức công có những quy định và thủ tục khá
đẩy đủ nên khó KTTNKT của cán bộ quản lý; tổ chức công hiểu biết đẩy đủ về trách nhiệm kinh tế của cán bộ
quản lý.
Nhóm nhân tố quan điểm xây dựng và phát triển kiểm toán gồm: KTNN phải triển khai KTTNKT đối với
cán bộ quản lý trong các tổ chức công một cách độc lập; KTNN có khả năng KTTNKT đối với cán bộ quản lý
trong các tổ chức công một cách độc lập; KTNN có khả năng hoàn thành nhiệm vụ KTTNKT đối với cán bộ quản


CHƯƠNG 4
THỰC TRẠNG KIỂM TOÁN TRÁCH NHIỆM KINH TẾ CỦA CÁN BỘ QUẢN LÝ DO KIỂM TOÁN
NHÀ NƯỚC THỰC HIỆN

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Trong Chương 3, Tác giả đã hệ thống hóa được các vấn đề lý luận cơ bản về KTTNKT; học tập kinh nghiệm
các SAI trên thế giới để triển khai KTTNKT đối với cán bộ quản lý. Chương 3 cũng đã hệ thống hóa lại các khái
niệm kiểm toán, các loại hình hình kiểm toán, cơ sở ra đời và phát triển của KTNN, chức năng, phạm vi, đối tượng,
nguyên tắc hoạt động của KTNN, các mô hình KTNN trên thế giới; khái niệm về cán bộ quản lý; các khái niệm về
KTTNKT, đặc trưng, vai trò, chủ thể, đối tượng, thời gian và quy trình KTTNKT đối với cán bộ quản lý; các bài
học kinh nghiệm của CNAO và các nước trên thế giới và điều kiện để thực hiện KTTNKT của cán bộ quản lý do

KTNN thực hiện; xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển KTTNKT của cán bộ quản lý.

4.1. Thực trạng kiểm toán trách nhiệm kinh tế đối với cán bộ quản lý do Kiểm toán Nhà nước thực hiện
Ngày 27/8/2007, tại buổi làm việc với Ban Cán sự đảng KTNN, đồng chí Trương Tấn Sang - Ủy viên Bộ
Chính trị, Thường trực Ban Bí thư đã đề nghị xây dựng đề án KTTNKT đối với cán bộ được đề bạt, mãn nhiệm
nhằm chống tham nhũng, lãng phí tài chính công, tài sản công.
Hệ thống các chỉ tiêu và tiêu chí để đánh giá trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo tại các cơ quan nhà nước và
các DNNN còn chưa rõ ràng, đầy đủ; Chế tài xử lý còn nhẹ, chưa có sức thuyết phục; Chưa có quy định cụ thể
kiểm toán đánh giá trách nhiệm kinh tế của cán bộ tại các cơ quan nhà nước và lãnh đạo DNNN; Chưa có quy trình
và đề cương hướng dẫn kiểm toán đối với kiểm toán đánh giá trách nhiệm kinh tế trong lĩnh vực NS, đầu tư,
DNNN, nhất là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước.
Hiện nay trong Quy trình kiểm toán chưa đề cập đến việc đánh giá trách nhiệm kinh tế qua kết quả kiểm
toán. Tuy nhiên KTNN đã ban hành Hướng dẫn Số 165/HD-KTNN ngày 8/03/2008 hướng dẫn kết luận về trách
nhiệm và kiến nghị xử lý vi phạm theo kết luận kiểm toán qua kết quả kiểm toán. Văn bản này hướng dẫn việc
kết luận về trách nhiệm và kiến nghị xử lý đối với người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị được giao quyền hạn và trách nhiệm trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước
hoặc của đơn vị được giao quản lý vốn, tài sản nhà nước có các sai phạm được phát hiện trong quá trình thực
hiện kiểm toán.
Giai đoạn 2011-2015, KTNN đã thực hiện 842 cuộc kiểm toán trên các lĩnh vực và kiến nghị xử lý tài chính
101.753,9 tỷ đồng (trong đó kiến nghị tăng thu: 22.223trđ; kiến nghị giảm chi: 22.856,4trđ; kiến nghị thu hồi các
khoản phải nộp, cho vay, tạm ứng, nợ đọng thuế tăng thêm…là: 56.674,5 tỷ đồng).
Ngày 8/03/2008, KTNN đã ban hành Hướng dẫn Số 165/HD-KTNN Hướng dẫn kết luận về trách nhiệm
và kiến nghị xử lý vi phạm theo kết luận kiểm toán qua kết quả kiểm toán. Tuy nhiên trong Báo cáo kiểm toán
năm 2011 và 2012 không đề cập đến xử lý trách nhiệm cá nhân của bất cứ ai.
Năm 2013, Báo cáo kiểm toán năm đã bắt đầu đề cập đến kiểm điểm trách nhiệm cá nhân và tập thể, trong
đó 74/152 cuộc kiểm toán có kiến nghị kiểm điểm trách nhiệm cá nhân. Tuy nhiên Báo cáo kiểm toán năm chưa có
kiến nghị người đứng đầu do chịu trách nhiệm liên đới với những tồn tại, sai sót của cấp dưới.
Giai đoạn 2014-2015, các cuộc kiểm toán có kiến nghị kiểm điểm trách nhiệm cá nhân cũng ngày càng giảm
dần. Việc nêu tên đích danh các cá nhân có sai phạm càng hạn chế.
4.2. Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển kiểm toán trách nhiệm kinh tế của cán bộ

kinh tế do Kiểm toán Nhà nước Việt Nam thực hiện
Qua nghiên cứu định lượng và kết quả khảo sát có mô hình hồi quy như sau:
F= β0 + β1F1 + β2F2 + β2 F3 + β3 F4 + β5 F5 + β6 F6 + β7 F7 + Ui
Nhân tố 1: Đặt tên cho nhân tố này là Năng lực của KTV và ký hiệu là F1.
Nhân tố 2: Đặt tên cho nhân tố này là Kinh tế, chính trị, xã hội và ký hiệu là F2.
Nhân tố 3: Đặt tên cho nhân tố này là Khả năng KTTNKT của cán bộ quản lý của KTNN và ký hiệu là F3.
Nhân tố 4: Đặt tên cho nhân tố này là Sự hiểu biết và quy chế của tổ chức công và ký hiệu là F4.
Nhân tố 5: Đặt tên cho nhân tố này là Vai trò của KTNN, Luật KTNN và sự giúp đỡ từ các chuyên gia, ký
hiệu F5.
Nhân tố 6: Đặt tên cho nhân tố này là Đặc thù của tổ chức công, ký hiệu là F6.
Nhân tố 7: Đặt tên cho nhân tố này là Yêu cầu từ sự minh bạch của công chúng, ký hiệu F7.
Gọi F là KTTNKT của cán bộ quản lý và là biến phụ thuộc. Các biến từ F1 đến F7 là các biết phụ thuộc.


9

10

Số liệu chạy hồi quy tuyến tính (qua khảo sát) cho kết quả như sau:

B

1

Standardized
Coefficients
Beta

Unstandardized Coefficients


Model
(Constant)
Năng lực của KTV (F1)
Kinh tế, chính trị, xã hội (F2)
Khả năng KTTNKT của cán bộ
quản lý của KTNN (F3)
Sự hiểu biết và quy chế của tổ
chức công (F4)
Vai trò của KTNN, Luật KTNN
và sự giúp đỡ từ các chuyên gia
(F5)
Đặc thù của tổ chức công (F6)
Yêu cầu tự sự minh bạch của công
chúng (F7)

6.39
.261
.135

Std. Error
.000
.031
.000

.173

t

Sig.


.261
.135

.000
5.108
2.631

.000
.000
.009

.041

.173

3.382

.001

.022

.033

.022

.427

.007

.145


.021

.145

2.841

.005

.283

.011

.283

5.525

.000

.130

.041

.130

2.532

.012

(Nguồn: Kết quả khảo sát)

Hệ số Sig của mô hình đều <0,05. Vậy mô hình có ý nghĩa thống kê.
Kết quả phân tích ANOVA như sau:
Model Summaryb
Model
1

R
.485a

R Square
.635

Adjusted R
Square
.617

Std. Error of the
Estimate
.88513186

Change Statistics
R Square
Change
.645

F Change
12.806

df1


df2
7

292

Sig. F
Change
.000

DurbinWatson
2.131

(Nguồn: Kết quả khảo sát)
Hệ số R Square (R2) của mô hình là 0,635>0,5. Do đó mô hình có ý nghĩa thống kê.
Từ kết quả này dựng được mô hình hồi quy tuyến tính về KTTNKT của cán bộ quản lý do KTNN thực hiện
như sau:
F = 6,39 +0,261F1 + 0,135F2 + 0,173F3 + 0,022F4 + 0,145F5 + 0,283F6 + 0,130F7 + Ui
Kết quả nghiên cứu cho thấy có 5 nhân tố tác động tác động mạnh nhất tới biến phụ thuộc là các nhân tố:
Năng lực kiểm toán (F1), Kinh tế, chính trị, xã hội (F2), Khả năng KTTNKT của cán bộ quản lý của KTNN (F3),
Vai trò của KTNN, Luật KTNN và tác động của chuyên gia (F5), Đặc thù của tổ chức công (F6).
Những nhân tố có hệ sô β lớn nhất sẽ tác động nhiều nhất tới việc KTTNKT của cán bộ quản lý.
Như vậy, để phát triển KTTNKT của cán bộ quản lý trong các tổ chức do KTNN thực hiện phải thực cải
thiện những nhân tố tác động mạnh nhất đến KTTNKT của cán bộ quản lý.
4.3. Đánh giá thực trạng kiểm toán trách nhiệm của cán bộ quản lý trong các tổ chức công do Kiểm toán
Nhà nước thực hiện
4.3.1. Đánh giá thực trạng việc kiểm toán trách nhiệm kinh tế người đứng đầu qua các buổi kết luận kiểm toán
Qua nghiên cứu các Biên bản họp thông qua Dự thảo Báo cáo kiểm toán với các đơn vị được kiểm toán tại
các đoàn kiểm toán giai đoạn 2011-2015 và qua trao đổi, phòng vấn các lãnh đạo các đoàn thuộc các cuộc kiểm
toán được kết quả sau:
Hầu hết các cuộc kiểm toán có kiến nghị kiểm điểm trách nhiệm kinh tế người đứng đầu thì nội dung chính

của các cuộc họp thông qua đều tập trung phân tích nguyên nhân và đề nghị KTNN bỏ không kiến nghị kiểm điểm
trách nhiệm ngưới đứng đầu và các cá nhân có liên quan;
Các cán bộ quản lý tại các đơn vị có sai phạm sẵn sàng nộp NSNN các khoản phải thu hồi, xuất toán. Tuy
nhiên đề nghị KTNN bỏ không kiến nghị kiểm điểm trách nhiệm cá nhân. Đặc biệt tại một số hội nghị lãnh đạo tỉnh
và lãnh đạo các DNNN còn nói thẳng sắp sửa bổ nhiệm, quy hoạch, nếu KTNN không bỏ kiến nghị này thì sẽ ảnh
hưởng rất lớn tới các cá nhân đó.
Ví dụ: Tại Hội nghị thông qua Dự thảo Báo cáo kiểm toán tại Tổng Công ty QLB Việt Nam ngày…/…/năm
2014, Chủ tịch Hội đồng thành viên có phát biểu: "Chúng tôi sẵn sàng nộp NSNN các khoản phải nộp NSNN theo
kết quả kiểm toán: 450 tỷ đồng. Tuy nhiên xin Đoàn KTNN bỏ không kiến nghị kiểm điểm trách nhiệm cá nhân sai

phạm này do nhận thức của cá nhân, chúng tôi không cố ý gây sai phạm. Mặt khác sau khi Cục thuế thanh tra
không phát hiện tồn tại này nên chúng tôi nghĩ mình làm đúng quy đinh".
4.3.2. Đánh giá thực trạng việc thực hiện kiến nghị kiểm toán và tái diễn các sai phạm sau kiểm toán
Theo số liệu nghiên cứu thì từ năm 2013 đến nay tình hình thực hiện kiến nghị kiểm toán ngày càng khó
khăn. Nguyên nhân chủ quan của việc chưa thực hiện kiến nghị kiểm toán là do: (1) Một số đơn vị chưa nghiêm
túc trong chỉ đạo thực hiện và thực hiện các kiến nghị của KTNN; (2) Các đơn vị đã báo cáo thực hiện song
chứng từ thực hiện kiến nghị kiểm toán chưa chặt chẽ, chưa đủ bằng chứng để KTNN xác nhận kết quả thực
hiện; (3) Một số kiến nghị còn chưa rõ ràng, chưa đảm bảo đầy đủ bằng chứng kiểm toán nên khó khăn cho đơn
vị được kiểm toán trong quá trình thực hiện.
Qua kết quả các buổi phỏng vấn với một số lãnh đạo các đoàn kiểm toán có thực hiện kiến nghị kiểm toán
cao và qua kết luận cuộc họp giao ban định kỳ hàng tháng (đặc biệt cuộc họp tháng 9/2015) của KTNN cho thấy
một trong những nguyên nhân các đơn vị thực hiện kiến nghị kiểm toán cao là do trong báo cáo KTNN kiến nghị
kiểm điểm trách nhiệm cá nhân của các cá nhân không thực hiện kiến nghị kiểm toán và có làm việc với lãnh đạo
cao nhất của tỉnh (hoặc bộ ngành phụ trách các DNNN) báo cáo tình hình thực hiện kiến nghị kiểm toán và đề nghị
người đứng đầu của địa phương, bộ ngành hoặc các DNNN chỉ đạo trực tiếp việc thực hiện kiến nghị kiểm toán.
4.4. Nguyên nhân của những hạn chế trong kiểm toán trách nhiệm cá nhân qua kết quả kiểm toán
Nhìn chung đối tượng kiểm toán của kiểm toán BCTC, tuân thủ và hoạt động hiện nay là việc quản lý, sử
dụng tài chính công và tài sản công, không phải là người đứng đầu (cán bộ quản lý có trách nhiệm kinh tế đối với
các hoạt động liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công và tài sản công). Do đó có một thực tế là dù
KTNN có tìm ra sai phạm, có đưa ra kiến nghị thì các đơn vị có sai phạm khắc phục hậu quả và thực hiện kiến nghị

kiểm toán là xong. Tại một số đơn vị, sau khi KTNN kết thúc công tác kiểm toán, các đơn vị đó vẫn tái diễn các sai
phạm (Ví dụ phổ biến là các kiến nghị kiểm toán về việc các huyện, các xã sử dụng sai nguồn kinh phí sử dụng đất
và nguồn kinh phí thực hiện cải cách tiền lương tại các tỉnh phía Bắc. Từ năm 2011 đến nay, KTNN luôn có phát
hiện tình trạng sử dụng sai nguồn kinh phí nhưng năm nào các địa phương cũng tái diễn tình trạng đó). Nguyên
nhân do chưa quy được trách nhiệm kinh tế đối với cá nhân cán bộ quản lý của đơn vị được kiểm toán.
Hiện nay chưa có chế tài đối với việc không thực hiện kiến nghị kiểm toán, do đó nếu các đơn vị không thực
hiện các kiến nghị kiểm toán thì cũng không ai phải chịu trách nhiệm. Do đó làm giảm hiệu lực, vai trò của KTNN.
Mặt khác với cơ chế tập thể lãnh đạo hiện nay, rất khó để quy trách nhiệm cá nhân đặc biệt các quyết sách đã được
thông qua cấp ủy hoặc HĐND các cấp (tại các DNNN, các quyết sách thường được thông qua hội đồng thành viên).
Các loại hình kiểm toán trên hiện nay do KTNN thực hiện chưa có tính thời sự cao vì thời gian kiểm toán đối
với các đơn vị thường là đã xảy ra (ít nhất là 01 năm); chưa có tính kịp thời hoặc chưa có nhiều kiến nghị cảnh báo
cho xã hội với các đối tượng để xảy ra sai phạm.
Mặt khác nếu chỉ thực hiện 03 loại hình kiểm toán toán trên tại một số đơn vị sẽ không phát hiện nhiều sai
sót nghiêm trọng, đặc biệt các cơ quan quản lý vĩ mô (Ví dụ: người đứng đầu cơ quan có quyền ban hành chính
sách, người đứng đầu cơ quan ban hành cơ chế định mức; người đứng đầu cơ quan phân bổ vốn đầu tư, người đứng
đầu cơ quan có quyền tuyển dụng, đề bạt, luân chuyển, bố trí cán bộ …). Loại hình KTTNKT có thể khắc phục
những hạn chế trên do đặc thù, phạm vi, nội dung kiểm toán linh hoạt và rộng hơn.
Qua trao đổi, phòng vấn 40/180 lãnh đạo các đoàn thuộc các cuộc kiểm toán được chọn mẫu thực hiện giai
đoạn 2011-2015 có kết quả như sau: (1) 28/40 lãnh đạo đoàn không kiến nghị kiểm điểm trách nhiệm cá nhân qua
phát hiện các sai phạm do cơ chế làm việc hiện nay khó quy trình nhiệm cá nhân (đặc biệt các sai phạm đã được tập
thể cấp ủy và HĐND các cấp phê chuẩn hoặc thông qua); (2) 12/40 lãnh đạo đoàn cho rằng kiểm điểm trách nhiệm
cá nhân là khó vì một số lãnh đạo các đơn vị có sai phạm đã nghỉ hưu hoặc đã chuyển công tác nên không biết kiến
nghị ai để xử lý trách nhiệm cá nhân; (3) 8/40 lãnh đạo đoàn cho biết nếu phải kiến nghị kiểm điểm trách nhiệm cá
nhân thì hơi nặng vì có quan hệ quen biết, nể nang; (4) 28/40 lãnh đạo đoàn cho biết không kiến nghị kiểm điểm vì
KTNN không có hướng dẫn mức độ sai phạm là bao nhiêu thì phải kiến nghị kiểm điểm trách nhiệm cá nhân; các
hành vi sai phạm nào thì phải kiểm điểm cá nhân để đảm nảo nguyên tắc thận trọng. Nếu có hướng dẫn và kiểm
soát thì các đoàn chắc chắn phải thực hiện kiểm điểm trách nhiệm cá nhân của các cá nhân có sai phạm; (5) 12/40
lãnh đạo đoàn cho biết không kiến nghị kiểm điểm trách nhiệm cá nhân vì qua nhiều cuộc họp xét duyệt không thấy
các vụ chức nặng của KTNN yêu cầu nên không kiến nghị; (6) 12/40 lãnh đạo đoàn có yêu cầu kiểm điểm nhưng
không nêu đích danh lãnh đạo đơn vị có sai phạm; (7) 9/40 lãnh đạo đoàn cho biết, sau khi yêu cầu đơn vị được

kiểm toán kiểm điểm trách nhiệm kinh tế người đứng đầu do để xảy ra sai phạm thì đơn vị không tái diễn các sai
phạm đó.
Như vậy, việc yêu cầu kiểm điểm trách nhiệm kinh tế đối với cán bộ quản lý là hoàn toàn có thể thực hiện
được. Tuy nhiên, KTNN phải có hướng dẫn cụ thể để các lãnh đạo đoàn có căn cứ để thực hiện. Mặt khác qua
phỏng vấn cho thấy yếu tố chủ quan như quen biết, nể nang là rất phổ biến và một số nguyên nhân khác quan khác
thì không thể kiến nghị kiểm điểm trách nhiệm cá nhân (ví dụ chuyển công tác, bỏ việc, ốm, mất tích…).


11
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Trong Chương 4, Tác giả đã mô tả, đánh giá thực trạng công tác KTTNKT đối với cán bộ quản lý hiện tại
của KTNN Việt Nam (tại cả khâu thực hiện kiểm toán và kiểm tra thực hiện kiến nghị kiểm toán); thực trạng về cơ
sở pháp lý (những điều kiện cần thiết để thực hiện KTTNKT của cán bộ quản lý), xác đinh nguyên nhân đối với
những tồn tại của công tác KTTNKT và tác động của KTTNKT tới công tác quản lý kinh tế hiện nay; xác định
được 05 nhân tố tác động mạnh nhất tới công tác KTTNKT của cán bộ quản lý. Như vậy để tăng cường và triển
khai công tác KTTNKT đối với cán bộ quản lý phải tập trung cải thiện những nhân tố tác động mạnh nhất đến công
tác KTTNKT như đã nêu trên.
Trên cơ sở thực trạng, Tác giả đề xuất giải pháp để hoàn thiện công tác KTTNKT của cán bộ quản lý do
KTNN thực hiện tại Chương 5.

12
CHƯƠNG 5
HOÀN THIỆN KIỂM TOÁN TRÁCH NHIỆM KINH TẾ CỦA CÁN BỘ QUẢN LÝ DO KIỂM TOÁN
NHÀ NƯỚC THỰC HIỆN
5.1. Quan điểm định hướng về kiểm toán trách nhiệm kinh tế của cán bộ quản lý do Kiểm toán Nhà nước
thực hiện
- Phát triển KTTNKT trở thành công cụ của Nhà Nước pháp quyền XHCN, nhà nước “Của dân, do dân và vì
dân”.
- Để KTTNKT thật sự là một công cụ kiểm tra, kiểm soát có hiệu quả, điều cơ bản nhất là phải đảm bảo
được tính độc lập trong hoạt động KTNN.

- Cần đảm bảo và tôn trọng tối đa tính độc lập của KTTNKT, đặc biệt là trong quyết định kế hoạch kiểm
toán và tiến hành các hoạt động kiểm toán.
5.2. Một số giải pháp hoàn thiện kiểm toán trách nhiệm kinh tế đối cán bộ quản lý do Kiểm toán Nhà nước
thực hiện
- Nâng cao chất lượng kiểm toán trách nhiệm kinh tế đối với cán bộ quản lý;
- Tăng cường khả năng triển khai kiểm toán trách nhiệm kinh tế đối với cán bộ quản lý trong các tổ chức
công;
- Tăng cường yêu cầu Kiểm toán trách nhiệm kinh tế đối với cán bộ quản lý trong các tổ chức công;
- Xây dựng chiến lược phát triển Kiểm toán trách nhiệm kinh tế đối với cán bộ quản lý trong các tổ chức
công
5.3. Các kiến nghị với Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan có liên quan
- Kiến nghị Bộ Chính trị nên ban hành chủ trương và nghị quyết cho phép thực hiện KTTNKT, trước mắt thí
điểm đến năm 2020 thực hiện Đề án KTTNKT cán bộ quản lý cán bộ quản lý do Trung ương quản lý, sau đó sẽ mở
rộng các chính quyền địa phương các cấp;
- Kiến nghị Quốc hội ban hành nghị quyết cho phép thực hiện KTTNKT do KTNN chủ trì thực hiện; Đưa
các kết quả KTTNKT đối với cán bộ quản lý vào các phiên họp để chất vấn Chính phủ và các thành viên Chính
phủ; Sửa đổi, bổ sung Luật KTNN, Luật Cán bộ, công chức theo hướng KTNN là cơ quan tham gia đánh giá công
chức hàng năm cùng với lãnh đạo các cơ quan hành chính, quản lý nhà nước…
- Kiến nghị Chính phủ yêu cầu các thành viên Chính phủ chấp hành và phối hợp tốt với KTNN thực hiện
KTTNKT do KTNN chủ trì thực hiện; Chỉ trình Quốc Hội phê chuẩn các chức danh chính phủ sau khi có báo cáo
kiểm toán đối với các cá nhân định bổ nhiệm; Yêu cầu KTNN thực hiện KTTNKT định kỳ hoặc đột xuất với các
thành viên chính phủ...
- Kiến nghị Tổng KTNN trình Đề án thí điểm KTTNKT đối với cán bộ lãnh đạo lên Bộ chính trị, Ban bí thư
Trung ương; Tiến hành soạn thảo và trình cấp có thẩm quyền ban hành khuôn khổ pháp lý cho hoạt động KTTNKT
đối với cán bộ quản lý; Tăng cường đánh giá trách nhiệm kinh tế qua kết quả kiểm toán hiện nay; Xây dựng KTNN
có trình độ chuyên nghiệp cao, hiện đại, có đủ năng lực thực hiện KTTNKT đối với cán bộ quản lý; Tăng cường
công khai, minh bạch kết quả kiểm toán; Quy định rõ giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán và về chế tài đối với các
hành vi vi phạm Luật KTNN; Xây dựng quy định về mối quan hệ giữa KTNN với cơ quan, tổ chức có liên quan
đến hoạt động kiểm toán; Xây dựng các quy định chuyên môn, nghiệp vụ; Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa
học kiểm toán về KTTNKT của cán bộ quản lý… /.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 5
Trong Chương này, trên cơ sở thực trạng đánh giá trách nhiệm kinh tế của cán bộ quản lý do KTNN Việt
Nam tại Chương 4 và cơ sở lý luận tại Chương 3, Tác giả đã đưa ra các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện công tác
KTTNKT của cán bộ quản lý do KTNN Việt Nam thực hiện. Với chức năng, đặc trưng và vai trò đặc thù,
KTTNKT đối với cán bộ quản lý là một biện pháp quan trọng, mang tính đột phá để ngăn ngừa, đấu tranh chống
tham nhũng; là loại hình kiểm toán mới mà KTNN phải triển khai thực hiện để nhằm mục tiêu minh bạch hóa quá
trình quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo đủ năng lực, đủ
tài, có đức và chắc chắn sẽ được Đảng, Nhà nước và đông đảo các tầng lớp nhân dân và quần chúng đồng tình ủng
hộ.

KẾT LUẬN
KTTNKT là loại hình kiểm toán đặc thù trong hoạt động kiểm toán của cơ quan KTNN. Trách nhiệm kinh tế
là chỉ nghĩa vụ và chức trách của một người lãnh đạo đơn vị được kiểm toán dựa trên chức vụ đặc biệt của mình để


13
thực hiện đúng việc quản lý và sử dụng tài chính công, tài sản công. KTTNKT là hoạt động của cơ quan KTNN
dựa vào quy định pháp luật tiến hành giám sát, đánh giá, thẩm định tình hình thực hiện trách nhiệm kinh tế của cán
bộ quản lý được giao phụ trách quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Như vậy, không giống với các loại
hình kiểm toán truyền thống lấy "đơn vị" làm đối tượng kiểm toán, đối tượng KTTNKT chủ yếu là "con người".
Với kinh nghiệm của KTNN Trung Quốc, qua nghiên cứu thực tế công tác đánh giá trách nhiệm kinh tế của cán bộ
quản lý và qua kết quả kiểm toán hàng năm hiện nay cho thấy KTTNKT của cán bộ quản lý là nhiệm vụ tất yếu của
KTNN Việt Nam trong công cuộc phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong thời gian sắp tới.
KTTNKT đối với cán bộ quản lý là một biện pháp quan trọng, mang tính đột phá để ngăn ngừa, đấu tranh
chống tham nhũng; là loại hình kiểm toán mới mà KTNN phải triển khai thực hiện để nhằm mục tiêu minh bạch
hóa quá trình quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo đủ
năng lực, đủ tài, có đức và chắc chắn sẽ được Đảng, Nhà nước và đông đảo các tầng lớp nhân dân và quần chúng
đồng tình ủng hộ.
Nghiên cứu việc KTTNKT của cán bộ quản lý do KTNN thực hiện, Đề tài đã đạt được mục tiêu nghiên cứu
và có đóng góp chính sau:

Thứ nhất, Phát triển, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về KTTNKT) của cán bộ quản lý; xác
định các nhân tố ảnh hưởng sự phát triển KTTNKT của cán bộ quản lý;
Thứ hai, Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về KTTNKT của cán bộ quản lý, đặc biệt tại KTNN Trung Quốc
để rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị tốt cho KTTNKT của cán bộ quản lý do KTNN Việt Nam thực hiện;
Thứ ba, Nghiên cứu thực trạng công tác KTTNKT của cán bộ quản lý do KTNN Việt Nam thực hiện trên
khía cạnh pháp lý, các quy định, hướng dẫn hiện hành cũng như thực tế công tác KTNNKT hiện nay; nghiên cứu,
khảo sát để xác định được các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến sự phát triển công tác KTTNKT của cán bộ quản lý.
Thứ tư, Đề xuất các giải pháp hoàn thiện công tác KTTNKT của cán bộ quản lý do KTNN thực hiện và đề
xuất hoàn thiện quy trình, hướng dẫn KTTNKT của cán bộ quản lý do KTNN Việt Nam thực hiện;
Thứ năm, Đề xuất một số kiến nghị với Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Tổng KTNN và các cơ
quan liên quan để triển khai và phát triển công tác KTTNKT của cán bộ quản lý do KTNN thực hiện.



×