Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tiểu luận Lí luận PL về QCN thúc đẩy Q.con người Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.15 KB, 12 trang )

Đề số 05: Phân tích các ưu tiên phát triển trong cơ chế thực hiện và thúc đẩy
quyền con người ở Việt Nam. Từ giải pháp thực hiện chiến lược cải cách tư
pháp, theo anh/chị, cần tập trung vào nội dung gì để bảo vệ quyền con người
một cách hiệu quả nhất? Tại sao?

Lời mở đầu
Quyền con người là một trong những vấn đề ngày càng được quan tâm trên
toàn thế giới. Tại Việt Nam, từ khi Cách mạng tháng tám năm 1945 thành công đến
nay, trải qua năm bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992, 2013, quyền con người
ngày càng được khẳng định, được nhà nước bảo đảm, bảo vệ thực hiện và phát triển
trên cơ sở bảo đảm và thực hiện các quyền công dân. Nhà nước Việt Nam nhận
thấy sứ mệnh quan trọng của việc thực hiện và thúc đẩy quyền con người nên đã có
những ưu tiên phát triển, dành “ánh nhìn” sâu sắc cho vấn đề này với hàng loạt các
chiến lược cải cách về tư pháp, cải cách về hành chính, chiến lược phát triển kinh
tế… mà trong đó, điển hình là chiến lược cải cách tư pháp- một trong những chiến
lược quan trọng trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
tại Việt Nam với nhiều nội dung trọng tâm được nhắc tới nhằm mục đích bảo vệ
quyền con người một cách hiệu quả nhất.

1


I.

Một số vấn đề chung về cơ chế thực hiện và thúc đẩy quyền con

người ở Việt Nam:
1. Giải thích từ ngữ:
Trước tiên, người viết muốn làm rõ một số khái niệm, từ ngữ để hiểu được rõ
ràng bản chất của vấn đề.
“Cơ chế”, từ các từ điển nói chung, có thể hiểu “cơ chế” là cách thức sắp xếp, tổ


chức để làm đường hướng, cơ sở theo đó mà thực hiện.
“Thực hiện” là làm cho trở thành sự thật bằng những việc làm hoặc hành động cụ
thể.
“Thúc đẩy” nghĩa là kích thích, tạo điều kiện, động lực cho hoạt động, phát triển
mạnh mẽ hơn theo định hướng tốt.
“Quyền con người” ở Việt Nam có thể hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn
có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa
thuận pháp lí quốc tế.
“Quyền công dân” là quyền con người trong một xã hội cụ thể, trong một chế độ
chính trị xã hội nhất định với một nền pháp luật cụ thể do nhà nước thừa nhận, đó
là những lợi ích pháp lí được nhà nước thừa nhận và bảo vệ cho những người có
quốc tịch của nước đó.
2. Khái quát về quyền con người ở Việt nam và những ưu tiên trong cơ chế
thực hiện và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam:
Nhà nước Việt Nam đã tích cực tham gia các tổ chức quốc tế về quyền con
người, tích cực nội luật hóa luật quốc tế về quyền con người sao cho phù hợp với
tình hình, hoàn cảnh Việt Nam. Trong đó có quyền dân sự và chính trị; quyền kinh
tế, xã hội và văn hóa và quyền của một số nhóm người dễ bị tổn thương.

2


Các ưu tiên phát triển trong cơ chế thực hiện và thúc đẩy quyền con người ở
Việt Nam được dựa trên cơ chế đảm bảo thực hiện quyền con người và dựa trên
những thách thức, khó khăn trong việc thực hiện cơ chế đảm bảo quyền con người
ở Việt Nam. Các ưu tiên phát triển trong cơ chế thực hiện và thúc đẩy quyền con
người ở Việt Nam sẽ được trình bày cụ thể ở phần sau.
II.

Phân tích các ưu tiên phát triển trong cơ chế thực hiện và thúc đẩy


quyền con người ở Việt Nam:
1. Vấn đề tăng trưởng kinh tế phải đi liền với công bằng, bình đẳng, phát
triển kinh tế phải gắn chặt với tiến bộ xã hội và phát triển quyền con
người.
Với dấu mốc đổi mới kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ năm
1986, nền kinh tế nước ta đã có bước thay đổi đáng kể về nông nghiệp, công
nghiệp, dịch vụ, thương mại…Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những hạn chế do nền
kinh tế thị trường để lại: tỉ lệ hộ nghèo vẫn còn cao, kinh tế chủ yếu được ưu tiên
cho nhóm đối tượng dễ bị tổn thương mà chưa đồng đều, chất lượng và năng xuất
sản xuất còn thấp, gia tăng khoảng cách thu nhập, tỉ lệ người giàu tăng cao ngày
một giàu, nhưng vẫn tồn tại tỉ lệ không nhỏ người nghèo vẫn ngày một nghèo, sự
phát triển kinh tế chênh lệch giữa các vùng miền, tiềm ẩn những bất bình đẳng lớn
trong xã hội, các vấn đề về quyền con người bộc lộ những tranh chấp gay gắt như
quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất; mặt khác tình hình tăng trưởng kinh tế
trong nước với biểu đồ hình sin và mức lạm phát còn cao, biến động kinh tế với
khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động không nhỏ tới tình
hình kinh tế xã hội Việt Nam… khiến chưa thể đảm bảo phát triển quyền con người
tại Việt Nam được.
Như vậy, việc tăng trưởng kinh tế cần đảm bảo công bằng, bình đẳng thì mới
tiến bộ xã hội, đảm bảo quyền con người được. Để làm được điều đó, cần cải thiện
các điều kiện nguồn lực xã hội, coi trọng con người là nhân tố chính quyết định sự
3


phát triển của một xã hội, trong đó có quá trình tạo ra của cải vật chất, cụ thể là vai
trò lãnh đạo của Đảng, các chính sách cụ thể của nhà nước; kinh tế không được bó
hẹp mà cần phát triển theo hướng đa dạng về nhu cầu, lợi ích quyền con người, tiếp
cận các cơ hội thuận lợi để Việt Nam phát triển nhanh, bền vững ổn định; tăng
cường hợp tác có hiệu quả về song phương, đa phương, đặc biệt chú trọng hợp tác

phát triển kinh tế. Trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011)đã
nêu ra ba nhiệm vụ cần thực hiện đồng bộ: nâng cao năng lực khoa học công nghệ;
đổi mới cơ chế quản lí, đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ, từ
đó, có thể thấy việc chú trọng phát triển khoa học công nghệ, áp dụng thành tựu
khoa học công nghệ vào sản xuất, kinh doanh đóng vai trò then chốt trong sự
nghiệp phát triển kinh tế xã hội; chú trọng phát triển kinh tế đồng bộ, rút ngắn
khoảng cách giàu nghèo, kêu gọi mọi người tăng gia sản xuất, lao động cải thiện
cuộc sống, hướng tới xóa đói giảm nghèo, đạt được mục tiêu “dân giàu”.
2. Vấn đề giải quyết việc làm, lao động cần tiếp tục là một định hướng ưu
tiên của quốc gia, có ý nghĩa trong chiến lược phát triển con người.
Điều 35 Hiến pháp 2013 quy định: “ Công dân có quyền làm việc, lựa chọn
nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc. Người làm công ăn lương được bảo đảm các
điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi.
Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ
tuổi lao động tối thiểu”. Như vậy, vấn đề về việc làm và lao động được nhận định là
một trong các quyền cơ bản của con người, công dân, mà nhà nước đóng vai trò lớn
trong việc đảm bảo quyền đó. Để đạt được mục tiêu đảm bảo về việc làm và lao
động, Việt Nam vẫn luôn tiếp tục thực hiện các chính sách, cải thiện chính sách về
các dự án cho vay vốn, hỗ trợ người dân làm việc, đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài, khuyến khích doanh nghiệp hoạt động để hỗ trợ giải quyết thị trường
lao động; cần có cơ cấu rõ ràng giữa lao động chân tay và lao động tri thức, lao
động có trình độ và không có trình độ vừa để đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế vừa
4


tôn trọng và bảo vệ quyền con người, tránh xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của
người lao động. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết việc làm, lao động cần thực sự
lưu tâm tới vấn đề môi trường, không chỉ là môi trường sống mà còn là môi trường
lao động, môi trường cạnh tranh lành mạnh tích cực, lên án mạnh mẽ những hành
vi xâm hại đến môi trường cảnh quan, những hành vi bóc lột lao động, không đảm

bảo cho người lao động được bảo hộ lao động trong những công việc nguy hại tính
mạng, sức khỏe.
3. Các chính sách cải cách pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp
cần tiếp tục được đẩy mạnh, hướng tới xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa.
Từ sau đổi mới tới nay, hàng loạt các chính sách cải cách được đề ra và thực
hiện, có thể kể tới: Quyết định 136/2001/QĐ-TTg, Nghị quyết 30c/NQ-CP, Nghị
quyết 48-NQ/TW-2005, Nghị quyết 49-NQ/TW-2005… Những chính sách này
nhằm phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với nhà nước, giúp nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lí nhà nước, góp phần xây dựng bộ máy nhà nước trong
sạch, vì dân , đẩy lùi nạn quan liêu tham nhũng, lãng phí tồn tại bấy lâu, phát huy
cao độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Việc phân định rõ ràng, rạch ròi chức năng, nhiệm
vụ quyền hạn giữa các nhánh quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp,
nhưng vẫn đảm bảo theo quy tắc Hiến định tại khoản 3 điều 2 Hiến pháp 2013: “
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Thống nhất là thống nhất quyền lực thuộc về nhân dân, do chính nhân dân kiểm tra
giám sát thực hiện hoạt động của bộ máy nhà nước, chống hách dịch, cửa quyền,
lạm quyền, “cán bộ phải là đầy tớ của nhân dân”, không được “đè đầu cưỡi cổ”
nhân dân, có phục vụ nhân dân tốt, đảm bảo quyền con người, quyền công dân thì
nhân dân mới tin tưởng trao quyền lực, ủng hộ chính quyền, Đảng, Nhà nước.
5


4. Vấn đề cần xây dựng chiến lược hoàn thiện hệ thống pháp luật, thực
hiện nhiệm vụ xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất,
khả thi, công khai hướng tới bảo đảm quyền con người.
Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quyền con người chỉ được đảm
bảo khi có hệ thống pháp luật tối ưu nhất. Trong thời kì quá độ xã hội chủ nghĩa, hệ
thống pháp luật Việt Nam còn tồn tại nhiều hạn chế trong việc lập pháp, xây dựng

pháp luật còn chồng chéo, triển khai thực thi pháp luật trên thực tế còn chưa hiệu
quả, hệ thống văn bản pháp luật ban hành chưa có tính hợp lí…Mục đích của ưu
tiên xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm củng cố cơ sở pháp lí về trách
nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm, thực hiện quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; hoàn thiện pháp luật về quyền giám sát
của các cơ quan dân cử, quyền kiểm tra giám sát trực tiếp của nhân dân đối với
hoạt động của bộ máy nhà nước; có hệ hệ thống pháp luật thống nhất đồng bộ, khả
thi, trên hết, việc kiện toàn hệ thống pháp luật nhằm mục đích bảo đảm quyền con
người. Có như vậy mới đảm bảo đúng nghĩa là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa.
5. Vấn đề cần ưu tiên phát triển các chính sách chăm sóc sức khỏe nhân
dân, đảm bảo chất lượng quyền sống của con người, nâng cao thể chất
và sức khỏe nhân dân.
Tại điều 38 Hiến pháp 2013 đã quy định: “Mọi người có quyền được bảo vệ,
chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ
thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh. Nghiêm cấm các
hành vi đe dọa cuộc sống, sức khỏe của người khác và cộng đồng”. Vấn đề sức
khỏe của nhân dân là việc đáng được quan tâm, có đảm bảo sức khỏe mới đảm bảo
được quyền sống của con người. Việt Nam đã chủ động phòng chống các bệnh dịch
nguy hiểm như H5N1, H7N9, EBOLA, HIV/AIDS, các bệnh khác lây truyền qua
đường tình dục…Vai trò của Bộ y tế được đề cao trong nhiều thập kỉ trở lại đây với
6


hàng loạt các chính sách tiêm phòng cho trẻ nhỏ, chính sách cải cách thủ tục bệnh
viện, lập các đường dây nóng để liên lạc thông báo khi phát hiện những hành vi đòi
hối lộ, đút lót của cán bộ ngành y, các chương trình tập huấn, nâng cao đạo đức
nghề y được diễn ra thường xuyên, các chính sách chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ
mang thai, trẻ nhỏ, người già cũng được ưu tiên hơn cả trong những năm gần đây.
Đối với những khu vực vùng cao, vùng có khó khăn, nhà nước đã mạnh mẽ tuyên

truyền, phổ biến pháp luật về việc đảm bảo chăm sóc sức khỏe cho người dân của
chính quyền địa phương, bằng việc hỗ trợ hàng loạt các nguồn ngân sách, nâng cao
dân trí, coi trọng và ưu tiên phát triển cho đồng bào vùng cao, vùng có khó khăn.
Cùng với đó là sự phối hợp với các Bộ trong vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, về
kế hoạch hóa gia đình, về nguồn nước sinh hoạt để đảm bảo về sức khỏe cho nhân
dân, nâng cao thể lực tầm vóc của người Việt Nam trong những thập kỉ tiếp theo.
6. Vấn đề cần phát triển mạng lướt an sinh xã hội, hạn chế và triệt tiêu
những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, đảo bảo phát triển
ổn định đời sống dân cư.
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), an sinh xã hội là sự bảo vệ về xã hội đối
với các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng nhằm
chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc bị giảm đột ngột
nguồn thu nhập vì ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi
già và chết. đồng thời bảo đảm các chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình có con
nhỏ. Cấu trúc an sinh xã hội bao gồm: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; bảo trợ xã
hội, cứu trợ xã hội; trợ cấp gia đình; các quỹ tiết kiệm xã hội; các dịch vụ xã hội
khác được tài trợ bằng nguồn vốn công cộng. Điều 34 Hiến pháp 2013 có quy định:
“Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội”, có thể nói đây là một quy định
tất yêu, bởi an sinh xã hội như một nguồn duy trì thu nhập do Nhà nước quản lí
nhằm tránh cho mọi người rơi vào tình trạng nghèo khó. Nhà nước Việt Nam đã
7


đảm bảo việc thực hiện quyền trên thông qua việc cụ thể hóa trong các luật: Bộ luật
lao động, luật bảo hiểm xã hội, Luật người khuyết tật…
7. Vấn đề cần ưu tiên phát triển giáo dục, coi trọng giáo dục là quốc sách
hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo đội ngũ nguồn lực có chất
lượng.
Trong giáo dục, Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020, “đến năm 2020, nền
giáo dục nước ta đổi mới căn bản và toàn diện theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa,

xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế; chất lượng giáo dục được nâng cao
một cách toàn diện: giáo dục đạo đức, kĩ năng sống, năng lực sáng tạo, năng lực
thực hành, ngoại ngữ và tin học; đáp ứng như cầu nhân lực chất lượng cao cho đất
nước”.
Như vậy, giáo dục là quá trình dạy, rèn luyện và học tập, để từ đó nâng cao tri
thức khoa học và kĩ năng nghề nghiệp. Điều 39 Hiến pháp 2013 quy định: “Công
dân có quyền và nghĩa vụ học tập”. Có thể thấy, giáo dục được coi là quốc sách
hàng đầu, quy định trách nhiệm của nhà nước trong việc ưu tiên đầu tư, thu hút các
nguồn đầu tư cho giáo dục. Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991 quy định:
“Giáo dục Tiểu học ở Việt Nam là phổ cập, bắt buộc và miễn phí”; Luật giáo dục
2005 tại điều 10 và điều 11 có nói: “ Mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn
giáo, tín ngưỡng, giới tính, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế đều
bình đẳng về cơ hội học tập”, “Cùng với giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ
sở là cấp học phổ cập, nhà nước quyết định kế hoạch phổ cập giáo dục, bảo đảm
các điều kiện để thực hiện phổ cập giáo dục trong cả nước”. Ngoài ra, Nhà nước
còn cần ưu tiên chăm lo phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bảo dân
tộc thiểu số, vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, tạo điều kiện để người khuyết tật,
người nghèo được học văn hóa, học nghề.

8


8. Cần nghiên cứu, tìm hiểu kĩ lưỡng để quyết định thành lập Cơ quan
nhân quyền tại Việt Nam.
Vấn đề thành lập Cơ quan nhân quyền tại Việt Nam có thể nói là khá mới mẻ,
nhưng không phải là không cần thiết. Với những hạn chế tồn đọng trong các ngành,
lĩnh vực, trong tổ chức bộ máy nhà nước, việc phân chia quyền lực nhà nước,
những hạn chế khách quan tồn tại trong thời kì quá độ…ai dám đảm bảo quyền con
người ở Việt Nam không thể bị xâm hại? Pháp luật đang hoàn thiện, tổ chức bộ
máy nhà nước còn nhiều hạn chế, đặc biệt là khối các cơ quan tư pháp: cơ quan

điều tra, viện kiểm sát, tòa án…nhân dân trên hết phải biết được các quyền của
mình, phải đứng ra tự bảo vệ quyền và lợi ích hợi pháp của mình trước khi trông
chờ vào Nhà nước bảo vệ. Nếu như Cơ quan nhân quyền được thành lập tại Việt
Nam, cần coi đây là một tổ chức hoạt động độc lập, không phụ thuộc vào ý chí của
cơ quan tổ chức nào, có cơ chế thực hiện đảm bảo quyền con người riêng mà mọi
cá nhân tổ chức, phải tuân theo. Đảng, Nhà nước cần xem xét thành lập thử cơ quan
nhân quyền ở cấp địa phương, để rút kinh nghiệm, ghi nhận những tích cực và khắc
phục những hạn chế. Tiến tới cần thành lập rộng mô hình cơ quan nhân quyền trên
cả nước, mà trong đó khối các cơ quan tư pháp đóng vai trò hỗ trợ tích cực và đắc
lực cho hoạt động của cơ quan nhân quyền.
III.

Nội dung cần tập trung trong thực hiện chiến lược cải cách tư pháp
để bảo vệ quyền con người tại Việt Nam một cách hiệu quả nhất:

Thứ nhất, theo Hiến pháp 2013, tại điều 102: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét
xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Như
vậy, Tòa án đóng vai trò trung tâm trong nhánh quyền tư pháp, điều này đã được
Nghị quyết 49 đề cập và cụ thể hóa trong Hiến pháp 2013. Trong hoạt động xét xử,
tại khoản 2 điều 103 Hiến pháp 2013 đã quy định về tính độc lập, tuy nhiên, xét
thấy trên thực tế, việc xét xử của Tòa án vẫn bị chi phối bởi nhiều yếu tố: năng lực
người xét xử, dư luận, nhiều chủ thể khác, các vấn đề khách quan khác…khiến cho
9


việc xét xử nhiều khi chưa công bằng. Thêm nữa, các giai đoạn khởi tố, điều tra,
truy tố của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhiều khi đã vi phạm pháp luật, nên dù
chỉ đảm bảo xét xử độc lập cũng chưa chắc tránh được oan sai, bỏ lọt tội phạm.
Vậy nên, cần tăng cường hơn nữa tính độc lập của Tòa án, không chỉ là độc lập khi
xét xử mà còn trong các giai đoạn khác của quá trình tố tụng.

Thứ hai, Chính phủ là cơ quan giữ quyền hành pháp và quản lí hành chính nhà
nước, mục tiêu đầu tiên là giữ gìn an ninh, trật tự xã hội, phòng và chống tội phạm,
giúp quản lí tốt hơn, nhưng Chính phủ lại không có quyền công tố buộc tội mà
“thực hành quyền công tố” lại thuộc về Viện kiểm sát, do đó khó có thể đảm bảo
nhiệm vụ quản lí nhà nước, bảo vệ quyền con người được. Vậy nên, nên chuyển
Viện kiểm sát thành Viện công tố là cơ quan thực hiện chức năng hành pháp trong
Chính phủ, tăng cường mạnh công tác điều tra, chỉ đạo điều tra và quyền công tố.
Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp trong sạch, vững
mạnh. Thông qua việc đổi mới nội dung và phương pháp đào tạo cử nhân luật, cán
bộ tư pháp, trọng tâm là đào tạo con người có kiến thức pháp luật, có kĩ năng nghề
nghiệp, có phẩm chất, đạo đức trong sạch, dũng cảm đấu tranh bảo vệ công lí; xây
dựng cơ chế thi cử tuyển chọn người tâm huyết, đủ đức đủ tài vào làm việc ở các
quan tư pháp. Về bổ trợ cho ngành tư pháp, cần chú trọng đầu tư về cơ sở vật chất,
có chế độ chính sách tiền lương, khen thưởng với cán bộ tư pháp hợp lí.
Thứ tư, hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân đối với cơ quan tư pháp. Thông qua cơ chế nâng cao chất
lượng và trả lời chất vấn đối với hoạt động của cơ quan tư pháp tại các kì họp Quốc
hội, Hội đồng nhân dân, đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật để
nhân dân biết, hiểu, phát hiện những hạn chế, khuyết điểm trong hoạt động của cơ
quan tư pháp.

10


Kết luận
Những ưu tiên trong cơ chế thực hiện và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam
trên hết nhằm mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mà đầu
tiên là đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”. Có đảm bảo thực hiện được những ưu tiên trên mới bảo đảm thực hiện, bảo
vệ tốt quyền con người ở Việt Nam. Để đạt được những điều trên, cần sự cố gắng,

nỗ lực của Đảng, Nhà nước trong việc đề ra các chủ trương chính sách, triển khai
thực hiện trong đời sống xã hội, có thể nhắc tới vai trò tiêu biểu của khối các cơ
quan tư pháp; sự tin tưởng của nhân dân vào chính quyền, ý thức của nhân dân
trong việc thực hiện chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước. Với Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020, Bộ Chính Trị đã đề ra những nhiệm vụ, phương
hướng thực hiện để thay đổi nền tư pháp trong nước, hướng tới bảo vệ triệt để
quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam, song cần chú trọng những vấn đề
trọng tâm mang tính chiến lược lâu dài và hơn hết là quyết tâm thực hiện.

11


Tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình Lí luận và pháp luật về Quyền con người, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2011.
2. Hiến pháp 2013.
3. Nghị quyết số 49-NQ/TW (02/06/2005)- Nghị quyết của Bộ chính trị về
4.

Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
/>
5.

trong.aspx
/>
12




×