Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Phân tích và đánh giá môi trường kinh doanh quốc tế tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.9 KB, 18 trang )

PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ MÔI TRƯỜNG KINH DOANH QUỐC TẾ
TẠI VIỆT NAM
Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế kéo theo hoạt động kinh doanh quốc tế là
một tất yếu khách quan hiện nay. Hoạt động trong một môi trường kinh doanh quốc tế
mang đến cho các doanh nghiệp rất nhiều cơ hội như: Phát triển thị trường sản phẩm
vượt qua biên giới nội địa, tiếp cận với thị trường quốc tế rộng lớn, thậm chí những thị
trường dễ tính, thuận lợi hơn thị trường nội địa; tiếp cận được với những nguồn nguyên
liệu ổn định, giá rẻ hơn; tiếp cận nguồn nhân lực, lao động dồi dào, giá rẻ ở các nước
đang và kém phát triển; giúp kéo dài chu kỳ sống các sản phẩn, giảm chi phí đầu tư về
nghiên cứu, công nghệ, máy móc thiết bị mới, chi phí đào tạo nhân viên...; phân tán rủi
ro tình hình kinh tế - chính trị bất ổn; qua việc đầu tư quốc tế giúp doanh nghiệp tìm
kiếm được nhiều lợi nhuận hơn, nâng cao uy tín trên thị trường quốc tế... tất cả các nội
dung trên nhằm mục đích tối ưu hóa nhất tài chính doanh nghiệp. Đây chính là những
lý do thôi thúc các doanh nghiệp tham gia vào các hoạt động kinh doanh quốc tế.
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên thì kinh doanh quốc tế cũng chứa đựng nhiều
khó khăn, rủi ro, và những yếu tố mạo hiểm ở thị trường quốc tế như: rủi ro chính trị do
những bất ổn chính trị đem lại; thể chế pháp lý khác biệt với nước sở tại và sự thay đổi
chính sách của nhà nước về môi trường kinh doanh; sự khác biệt về văn hóa, thị hiếu
của khách hàng tại nước đầu tư; các chính sách tiền tệ, tỷ giá ... Tất cả các yếu tố trên
đòi hỏi doanh nghiệp kinh doanh quốc tế phải hết sức cẩn trọng trong quản lý. Họ phải
tìm hiểu, nắm bắt, đánh giá được thị hiếu của khách hàng, khuôn khổ pháp lý và thể
chế, những đặc điểm về văn hóa, xu hướng kinh tế vĩ mô, hệ thống tài chính, tiền tệ và
những rủi ro về chính trị của nước họ đến kinh doanh trước khi quyết định đầu tư, kinh
doanh vào nước đó. Vì vậy, sự tiếp cận thị trường đa quốc gia và cơ sở hạ tầng tài chính
quốc tế mang lại những cơ hội lựa chọn chiến lược cạnh tranh mới nhưng các doanh
nghiệp cũng đồng thời phải đối mặt với sự phức tạp và đa dạng ngày càng gia tăng.
Trong khuôn khổ bài này, chúng tôi đề cập đến môi trường kinh doanh đối với các
doanh nghiệp quốc tế tại Việt Nam, giúp các doanh nghiệp quốc tế hiểu biết cụ thể về
môi trường kinh doanh tại Việt Nam đề từ đó có quyết định dúng đắn khi đầu tư, kinh
doanh vào Việt Nam.
1




Phân tích môi trường kinh doanh quốc tế tại việt Nam:
Để giúp các doanh nghiệp quốc tế có cái nhìn nhận, đánh giá đầy đủ, khách quan
về môi trường kinh doanh quốc tế tại Việt Nam từ đó có quyết định kinh doanh đúng
đắn, ta cần đánh giá đúng, đủ các điểm mạnh, yếu và thuận lợi, khó khăn khi thực hiện
kinh doanh quốc tế vào Việt Nam:
I. Điểm mạnh môi trường kinh doanh Việt Nam:
1. Dân số đông thị trường lớn, tiềm năng: Việt Nam là nước có tỷ lệ dân số khá
lớn, tốc độ dân số phát triển khá nhanh. Hiện dân số Việt Nam vào khoảng gần 100
triệu dân, đây là thị trường lớn, tiềm năng do kinh tế Việt Nam đang phát triển nhanh
với tốc độ GDP nhiều năm tăng trưởng 8-9%/năm, kể cả vào những năm kinh tế thế
giới rơi vào khủng hoảng thì tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam vẫn khả quan đạt 57%/năm. Thu nhập người dân không ngừng nâng cao, sức mua không ngừng cải thiện.
2. Tỷ lệ dân số trẻ trong độ tuổi lao động cao: Việt Nam là nước có tốc độ tăng
trưởng dân số nhanh, tỷ lệ lao động trong độ tuổi lao động trên

%. Hàng năm, Việt

Nam có hàng chục nghìn lao động là thanh niên học xong các trường nghề, cao đẳng,
đại học tham gia vào thị trường lao động, tạo nên nguồn lực lao động dồi dào, giúp cho
các nhà đầu tư nước ngoài dễ tìm kiếm được lao động phụ vụ cho việc đầu tư của mình.
3. Lao động Việt Nam có nhận thức nhanh, làm việc sáng tạo, cần cù, chịu khó,
say mê với những công nghệ mới. Đây là truyền thống là nét đẹp văn hóa của người
Việt Nam và cũng là lợi thế của lao động Việt Nam.
4. Việt Nam là nước nông nghiệp, trải qua hàng chục năm chiến tranh, thực hiện
cơ chế kinh tế bao cấp, với trên 70% dân số làm nông nghiệp, kinh tế còn nghèo nàn,
lạc hậu, mới chuyển sang kinh tế thị trường, mới tham gia tiến trình hội nhập kinh tế
thế gới, có nguồn lực lao động dồi dào, giá rẻ. Mức lương tối thiểu chung của Nhà
nước hiện tại 1.050.000 đồng/tháng, mức lương tối thiểu khu vực cao nhất chỉ
2.000.000 đồng/tháng. Đặc điểm lao động Việt Nam hiện nay là một lợi thế cạnh tranh,

tạo nên sức hấp dẫn nhất định đối với các nhà đầu tư nước ngoài khi tìm kiếm khu vực
đầu tư có chi phí lao động thấp, giảm giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh trạnh và tối ưu
hóa lợi nhuận đầu tư tài chính quốc tế của mình.
2


5. Chính trị khá ổn định: Việt Nam là một nước có chế độ chính trị ổn định. Trải
qua mấy chục năm do Đảng cộng sản độc tôn lãnh đạo đất nước, thể chế không bị thay
đổi, xã hội ít khi có bất ổn về chính trị, bạo loạn, đấu tranh sắc tộc, tôn giáo, khủng bố
gây bất ổn định về mặt xã hội. Chính trị, xã hội ổn định đã tạo niềm tin, tạo sự ổn định
cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp quốc tế nói riêng ở Việt Nam yên
tâm làm ăn, hạn chế rủi do về bất ổn xã hội đem lại.
6. Là nước còn nghèo, mới tham gia hội nhập kinh tế thế giới: Nhiều lĩnh vực tiềm
năng còn trống chưa được khai thác. Đây chính là những miếng đất trống, màu mỡ cho
các nhà đầu tư quốc tế vào đầu tư, kinh doanh, đem lại lợi nhuận cao như các lĩnh vực:
Viễn thông, ngân hàng, khách sạn, du lịch, giải trí,
7. Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm kéo theo nhu cầu tiêu thụ vật tư, hàng hóa,
dịch vụ phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội: Với tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm
khá cao, đòi hỏi một nguồn lực rất lớn để cung cấp cho sự phát triển kinh tế. Nhìn lại
các năm qua, khu vực nhà nước đã đầu nhiều công trình hạ tầng có sở lớn như đường
giao thông quốc lộ 1, 2, 5...., mở rộng khôi phục lại các sân bay Tân Sơn nhất, nội Bài,
Đà Nẵng, Cần Thơ...., các bến cảng... hàng loạt các công trình thủy điện lớn, xây dựng
nhiều khu đô thị mới hiện đại; cùng với đó nhu cầu đầu tư mới, mở rộng các nhà máy,
xí nghiệp, các trung tâm thương mại... phục vụ sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp rất lớn. Tất cả các yếu tố này tạo nên một thị trường tiêu thụ sản phẩm, hàng
hóa, dịch vụ tô lớn.
8. Các nhà đầu tư quốc tế khi đầu tư vào thị trường Việt Nam họ có lợi thế hơn
hẳn so với các doanh nghiệp trong nước về mọi mặt: Vốn lớn hơn, công nghệ hiện đại
tiên tiến hơn, trình độ quản lý tiên tiến hơn,...đây là những yếu tố tạo nên sự thành công
khi đầu tư vào thị trường Việt Nam.

II. Điểm yếu:
Việt Nam là nước nghèo, mới tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế thê giới,
mặc dù nhà nước đã có rất nhiều nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh, hạ tầng cơ sở,
nền kinh tế có tốc độ phát triển kinh tế hàng năm khá cao, đã đạt được những thành tựu
nhất định. Tuy nhiên, Việt Nam chỉ là nước mới thoát nghèo, môi trường kinh doanh
còn nhiều hạn chế, cụ thể:
3


1. Cơ sở hạ tầng thấp, hạn chế: Mặc dù những năm qua Việt Nam đã có nhiều cố
gắng, cải thiện đáng kêt cơ sở hạ tầng, cải tại, nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới nhiều
đường xá, cầu cống, sân bay, bến cảng ví dụ: Cải tạo mở rộng toàn tuyến đường quốc lộ
1 từ Lạng Sơn đến tận Cà Mau, đường 5 Hà Nội – Hải Phòng, đường quốc 2 Hà Nội –
Lào Cai, Hà Giang; đường 18, mở mới đường Hồ Chí Minh, đường Hà Nội đi Điện
Biên,....; mở rộng sân bay Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Cần thơ, Đà Nẵng,...; các bến cảng
Hải Phòng, Sài Gòn, Đà Nẵng,....Tuy nhiên so với yêu cầu thì hậ tầng giao thông của
Việt Nam vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng của sự phát triển kinh
tế nói chung và của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nói riêng. Nhiều vùng, khu
vực giao thông chưa thuận tiện, các khu vực trung tâm lớn của cacr nước như Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh thường bị quá tải, ách tắc giao thông, hệ thống hạ tầng vận tải
đường sắt còn quá lạc hậu, chưa có đường sắt lớn, cao tốc,.... Hạ tầng cơ sở lạc hậu là
một yếu tố quan trọng làm giảm tính hiệu quả của các nhà đầu tư quốc tế, tạo nên sự
quan ngại khi hõem xét đầu tư vào Việt Nam.
2. Khuôn khổ pháp lý: Trong những năm qua, Nhà nước Việt Nam có rất nhiều nỗ
lực tạo khuôn khổ pháp lý ngày càng thuận lợi cho các nhà đầu tư quốc tế vào Việt
Nam, từ việc ban hành Luật đầu tư ngước ngoài, tiến tới hợp nhất các luật doanh
nghiệp với Luật doanh nghiệp nhà nước tạo nên sự bình đẳng, sân chơi chung cho các
doanh nghiệp mà không phân biệt các loại hình doanh nghiệp. Hệ thống chính sách
thuế được cải tiến theo xu hướng chung các nước phát triển, chúng ta từ bỏ thuế doanh
thu chuyển sang thuế Giá trị gia tăng, đổi mới các chính sách thuế xuất nhập khẩu, thuế

tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp, ban hành mới và thường xuyên đổi mới
chính sách thuế thu nhập cá nhân....Hệ thống pháp luật Việt Nam đã được hoàn thiện
hơn, tiên tiến hơn so với trước. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến
quản lý doanh nghiệp nói chung và quản lý các doanh nghiệp quốc tế đàu tư vào Việt
Nam nói riêng còn nhiều bất cập, có rất nhiều Luật chi phối, thiếu đồng bộ, chồng chéo,
nhiều nội dung không rõ dàng, chính sách thiếu nhất quán, môi trường kinh doanh chưa
thật minh bạch, đã khiến doanh nghiệp khó tính toán chiến lược lâu dài, tạo nên rào cản
không nhỏ đối với các doanh nghiệp đầu tư quốc tế vào Việt Nam.

4


3. Thủ tục hành chính: Việt Nam là một nước mang tính nặng thủ tục hành chính,
với câu cửa miệng khi giao dịch là “có dấu đỏ không?”. Để giải quyết một thủ tục, có
khi doanh nghiệp phải qua rất nhiều cơ quan, nhiều cấp, nhiều cửa với rất nhiều thủ tục,
giấy tờ. Theo báo cáo môi trường kinh doanh năm 2013 của Việt Nam 2013 do Ngân
hàng Thế giới và Công ty Tài chính Quốc tế (IFC) công bố sáng 23-10 tại Hà Nội thì
tiêu chí Cấp phép xây dựng của Việt Nam được xếp thứ 28 thế giới, với 11 thủ tục, 110
ngày và chi phí chỉ khoảng 67% thu nhập bình quân đầu người (1.260 đô la Mỹ).Về
tiêu chí Nộp thuế, Việt Nam xếp hạng 138, với số lần doanh nghiệp đóng thuế trong
năm là 38, thời gian đóng thuế mỗi năm là 872 giờ.
Thủ tục hành chính phức tạp, qua nhiều khâu, nhiều cấp, nhiều cửa, tốn rất nhiều
công sức, thời gian của doanh nghiệp, thậm chí làm mất cơ hội kinh doanh của doanh
nghiệp. Đây thực sự là một rào cản không nhỏ khi các doanh nghiệp quốc tế xem xét có
quyết định đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam hay không.
4. Nạn tham nhũng tràn lan, trở thành quốc nạn:
Báo cáo Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) được công
bố ngày 3/5/2012 tại Hà Nội cho thấy tình trạng tham nhũng trong lĩnh vực hành chính
công tiếp tục là một vấn đề đáng báo động. Bản báo cáo này do Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Trung tâm Nghiên cứu Phát triển và Hỗ trợ Cộng đồng (CECODES), Ban Dân

nguyện thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc
(UNDP) phối hợp thực hiện, trên cơ sở tổng kết dữ liệu từ phần trả lời phỏng vấn của
13.642 người dân trên cả nước.
Kết quả khảo sát cho thấy tham nhũng là vấn đề nổi cộm ở các ngành và lĩnh vực
PAPI đo lường. Cụ thể, về việc đưa hối lộ trong khu vực công, kết quả khảo sát cho
thấy, khi được hỏi về một số hành vi tham nhũng cụ thể trong khu vực công, nhiều
người cho rằng có tình trạng nhận hối lộ trong dịch vụ y tế công (31%), xin việc vào
làm trong khu vực nhà nước (29%), xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (21%),
để giáo viên quan tâm hơn tới học sinh ở trường (17%) và trong xin cấp giấy phép xây
dựng (16%). Ngoài ra, 13% người dân cho rằng cán bộ chính quyền dùng tiền công quỹ
vào mục đích riêng.

5


Đây là những phát hiện được tổng hợp ở cấp quốc gia. Những phát hiện này
không thay đổi nhiều khi lấy kết quả khảo sát ở 5 thành phố trực thuộc trung ương để
phân tích so sánh với 57 tỉnh còn lại. Điều này phần nào phản ánh mức độ phổ biến của
tham nhũng và hối lộ ở khắp các tỉnh, thành phố.
Về vấn đề kiểm soát tham nhũng trong chính quyền địa phương, số người dân cho
rằng chính quyền tỉnh/thành phố nghiêm túc trong xử lý các vụ việc tham nhũng là khá
thấp. Trên toàn quốc, chỉ có 22,95% số người được hỏi cho rằng chính quyền tỉnh/thành
phố của họ đã nghiêm túc trong xử lý các vụ việc tham nhũng đã được phát hiện. Tỉ lệ
này ở Hà Nội là cao nhất (50,66%), ở Bạc Liêu là thấp nhất (5,39%).
Bà Pratibha Mehta, Điều phối viên thường trú của Liên Hợp quốc tại Việt Nam
nói PAPI là "một công cụ khách quan và sắc bén để theo dõi việc thực hiện hành chính
công và cung cấp dịch vụ công.”
“Chỉ số PAPI giúp các nhà hoạch định chính sách Việt Nam cũng như cộng đồng
phát triển quốc tế hiểu được tâm tư, nguyện vọng, trải nghiệm của người dân, từ đó rút
bài học cụ thể nhằm giảm bớt tham nhũng, cải thiện hiệu quả và hiệu lực của công tác

quản trị công, nâng cao mức độ hài lòng của người dân đối với bộ máy hành chính
công”.
Theo Báo cáo Môi trường kinh doanh 2013 do Ngân hàng Thế giới và Công ty Tài
chính Quốc tế (IFC) công bố sáng 23-10-2012 tại Hà Nội thì về tiêu chí nộp thuế, Việt
Nam xếp hạng 138, với số lần doanh nghiệp đóng thuế trong năm là 38, thời gian đóng
thuế mỗi năm là 872 giờ, và tổng thuế suất lên tới 34,5% lợi nhuận so với thuế suất
thuế thu nhập doanh nghiệp theo luật định 25% đã nói lên tình trạng tham nhũng ở Việt
Nam.
5. Các chính sách tiền tệ, tài chính
+ Chính sách tiền tệ:
Chính sách tiền tệ của Việt Nam thời gian quan thường xuyên thay đổi, thiếu sự
ổn định, tạo nên sự bất ổn, lạm phát cao. Theo Forbes, tốc độ lạm phát vào hàng cao
nhất ở châu Á của Việt Nam khiến chi phí sản xuất leo thang và làm suy giảm lợi nhuận
của các công ty. Từ năm 2008 tới nay, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam đã vượt
mức 20% trong nhiều tháng do nhập khẩu vượt xuất khẩu và sự mất giá liên tục của
6


VND. Thực tế này khiến các công ty sản xuất hàng để bán tại chỗ gặp khó, đồng thời
việc tiếp cận với ngoại tệ cũng trở nên khó khăn hơn.
Để đối phó với lạm phát tăng cao, Việt Nam thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt,
tăng dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng, giảm tỷ lệ cho tăng trưởng tín dụng, tạo nên
khan hiếm nguồn tiền, các doanh nghiệp khó tiếp cận với nguồn vốn tín dụng, phải vay
vốn với lãi suất khoảng 14-16%/năm với kỳ hạn ngắn và khoảng 14,5-17%/năm với kỳ
hạn trung, dài hạn, thậm chí có lúc lãi vay lên đến 23%/năm. Do thực hiện chính sách
tiền tệ thắt chặt, nên các ngân hàng bị Các doanh nghiệp vay vốn nợ đọng, mất khả
năng thanh toán. Tổng nợ sấu của các ngân hàng tại Việt Nam hiện nay vào khoảng trên
200.000 tỷ đổng. Nhiều chuyên gia kinh tế gọi đây là một chính là cục máu đông làm
tắc nghẽn mạch máu nền kinh tế.
Theo Báo cáo Môi trường kinh doanh 2013 do Ngân hàng Thế giới và Công ty Tài

chính Quốc tế (IFC) công bố sáng 23-10-2012 tại Hà Nội thì về tiêu chí Vay vốn tín
dụng của Việt Nam được xếp hạng 40 thế giới.
Nguy cơ rủi ro tỷ giá đối với cá nhà đầu tư quốc tế vào Việt Nam là vấn đề rất lớn,
do kinh tế Việt Nam yếu, lạm phát tăng cao, kinh tế phụ thuộc khá lớn vào xuất, nhập
khẩu. Đồng Việt Nam thường xuyên bị mất giá so với đồng USD, EURO...Ví dụ theo
Ngân hàng Nhà nước nước Việt Nam công bố tỷ giao dịch liên ngân hàng giữa Đồng
Việt Nam với đồng USD thời điểm 01/01/2007 là: 16,061 đồng/USD, thời điểm
30/11/2012 là: 20,870 đồng/USD (nguồn Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố), như
vậy chênh lệch tỷ giá thời điểm 30/11/2012 so với 01/01/2007 là 1,299 lần (tăng gần
30%).
+ Thị trường tài chính chưa phát triển: Thể chế pháp lý các hoạt động tài chính
còn thiếu, chưa đồng bộ, nhiều hình thức hoạt động tài chính ở các nước phát triển đã
có hàng trăm năm nhưng chưa xuất hiện hoặc chưa được áp dụng phổ cập thông dụng
tại thị trường tài chính Việt Nam. Nhiều hình thức hoạt động tiền tệ, tài chính quốc tế
phổ biến, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp huy động vốn, bảo hiểm rủi ro... nhưng ở
Việt Nam chưa có như các hợp đồng phái sinh về tiền tệ(Hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng
tương lai, quyền chọn về tiền tệ, các công cụ bảo hiểm chống rủi ro về tỷ giá,...).

7


Thị trường tiền tệ, tài chính bất ổn, chưa đồng bộ đã tạo nên rào cản không nhỏ
cho các nhà đầu tư quốc tế khi xem xét, quyết định đầu tư, kinh doanh vào thị Trường
Việt Nam.
6. Một số chính sách thuế còn chưa tạo điều kiện cho kinh doanh quốc tế ở Việt
Nam: Chính sách thuế đã có những đổi mới, theo chiều hướng tích cực xong tiến trình
còn chậm, chưa đáp ứng được mong mỏi của các doanh nghiệp nói chung và doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài nói riêngThuế xuất thuế TNDN cao; thuế chuyển lợi nhuận ra
nước ngoài. Thuế thu nhập doanh nghiệp đã được điều chỉnh giảm từ 32% xuống 28%
và nay là 25%. Tuy nhiên so với các nước khác thì thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt

Nam vẫn vào loại cao, cụ thể: Thái Lan đang thuế thu nhập doanh nghiệp 30% đã giảm
mạnh xuống còn 23%. Nhật Bản, Hàn Quốc hay Đài Loan... thuế thu nhập áp cho
doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện chỉ 17%. Khi nhà nước đánh thuế thu nhập doanh nghiệp
cao, điều đó có nghiac phần lợi nhuận doanh nghiệp được hưởng bị giảm đi, điều này
cũng tạo nên rào cản các nhà đầu tư quốc tế vào Việt Nam.
7. Cán cân thương mại và những tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu:
+ Cán cân thương mại Việt Nam trong những năm qua luôn mất cân đối theo
hướng nhập siêu (giá trị thương mại nhập khẩu lớn hơn giá trị thương mại xuất khẩu),
số liệu cán cân vãng lai của Việt Nam giai đoạn 1997 -2008 như sau:
Biểu đồ:
Các cấu phần trong Cán cân vãng lai của Việt Nam giai đoạn 1997 -2008

Nguồn: Tổng hợp từ CEIC Database
8


Nhìn từ biểu đồ 1 cho thấy, trạng thái cán cân vãng lai của Việt Nam chịu tác động
chủ yếu từ trạng thái cán cân thương mại do các giao dịch về hàng hóa chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng thu và chi của tài khoản vãng lai (chiếm khoảng 70% - 85%). Trong khi
đó, cán cân chuyển giao vốn vãng lai ròng (bao gồm viện trợ và kiều hối) có tác động
tích cực đến cán cân vãng lai. Trong những năm gần đây, diễn biến xuất nhập khẩu của
Việt Nam chịu tác động quá nhanh và mạnh mẽ từ việc gia nhập WTO. Mặc dù kim
ngạch xuất khẩu có mức tăng trưởng khá nhanh nhưng vẫn không bì kịp với tốc độ tăng
trưởng nhập khẩu khi rào cản thuế quan dần dần được xóa bỏ, đã làm hàng hóa nước
ngoài tràn vào Việt Nam trong khi để tăng tốc độ xuất khẩu không phải là việc đơn giản
mà đòi hỏi phải có thời gian lâu dài. Sự gia tăng nhập khẩu tác nhân của nhiều nguyên
nhân khác, như nhu cầu của kinh tế,... Chính hoàn cảnh này đã đẩy cán cân thương mại
Việt Nam vào tình thế ngày càng thâm hụt, lên tới 13,67% so với GDP vào năm 2008.
Thêm vào đó, theo các chuyên gia kinh tế, nguồn gốc sâu xa của tình trạng trên đó
chính là năng lực xuất khẩu của hàng hóa Việt Nam khi chưa thực sự tham gia vào

chuỗi cung ứng của khu vực cũng như trên thế giới. Giá trị gia tăng trong nhóm hàng
xuất khẩu thấp và chỉ tập trung vào một số mặt hàng chủ lực chính nên rất dễ bị tổn
thương khi có các cú “shock” từ bên ngoài. Trong khi đó, nhu cầu nhập khẩu để chế
biến hàng xuất khẩu, phục vụ xây dựng cơ sở hạ tầng,... trong những năm qua tăng
nhanh đáng kể.
Cán cân thương mại mất cân bằng, gây nên sự thiết hụt về ngoại tệ phục vụ cho
nhập khẩu, dự trữ ngoại tệ đảm bảo nền kinh phế phát triển ổn định.
+ Tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu đến nền kinh tế Việt Nam: Khủng
hoảng kinh tế thế giưới có những ảnh hưởng không tốt đên nền kinh tế Việt nam như: .
Xuất khẩu khó khăn kéo GDP sụt 1,7%; Lãi suất cao, doanh nghiệp thiệt nặng; dòng
vốn FDI suy giảm; Giá vàng bùng nổ hút vốn đầu tư vào vàng; Bảo hiểu rủi ro tín dụng
(CDS) xu hướng tăng lên và Tăng rủi ro hối đoái và biến động tỷ giá.
- Về lao động:
+ Trình độ kỹ thuật thấp, đội ngũ lao động có trình độ quản lý cao, kỹ thuật lành
nghề ít

9


+ Kỷ luật lao động thấp, theo thói quyen của người châu Á, nền văn hóa lúa nước
- sản xuất nông nghiệp.
+ Đình công: Trong mấy năm vừa qua ngày càng có nhiều cuộc đình công của
người lao động đòi tăng lương. Báo chí trong nước cho biết, năm 2011 đã có 978 cuộc
đình công, so với mức 541 cuộc vào năm 2007. Các cuộc đình công đòi tăng lương làm
đình trệ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tăng chi phí tăng tiền công,
tiền lương, giảm lợi nhuận của nhà đầu tư.
- Sức mua hàng hóa, dịch vụ hạn chế do phần lớn người dân Việt nam có mức thu
nhập thấp, thị hiếu những người có thu nhập cao tích hàng nhập khẩu có chất lượng
cao, có thương hiệu nổi tiếng.
III. Thuận lợi:

Việt Nam đang kêu gọi đầu tư nước ngoài nên thực hiện chính sách thu hút, tạo
điều kiện thuận lợi nhất cho nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, như:
- Hoàn thiện các khung pháp lý về đầu tư nước ngoài để nhà đầu tư dễn dàng thực
hiện đầu tư vào Việt Nam, tạo cơ chế bình đẳng với các doanh nghiệp Việt Nam...
- Xây dựng hàng loạt các khu công nghiệp, khu chế xuất thu hut đầu tư nước
ngoài
- Thực hiện chính sách thuế thu hút đầu tư nước ngoài:
+ Miễn, giảm tiền thuê đất khi đầu tư vào những vùng khó khăn, những nơi doanh
nghiệp Việt Nam không hoặc ít tham gia đầu tư.
+ Tạo hàng rào thuế bảo hộ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam: Thuế suất thuế nhập
khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt cao đối các hàng hóa, sản phẩm nhập khẩu mà trong nước
sản xuất được; không đánh thuế hoặc dánh thuế thấp thuế nhập khẩu, thuế tiệu thụ đặc
biệt đối với linh kiện, phụ tùng nhập khẩu phục cho việc lắp giấp, sản xuất tại Việt
Nam.
+ Khuyến khích xuất khẩu sản phẩm sản xuất ở Việt Nam ra các nước khác thông
qua chính sách ưu đãi thuế: Thực hiện thuế suất thuế giá trị gia tăng đầu ra mức 0%,
các doanh nghiệp được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào trong khi không phải chịu
thuế giá trị gia tăng đầu ra, qua đó gián tiếp giảm chi phí cho doanh nghiệp, tăng sức
cạnh tranh về giá của hàng hóa sản xuất tại Việt nam khi xuất khẩu sang các nước khác.
10


- Việt Nam mới tham gia thực hiện tiến trình hội nhập quốc tế, còn nhiều lĩnh vực
sản xuất kinh doanh tiềm năng tốt nhưng chưa có nhà đầu tư hoặc còn ít nhà đầu tư
tham gia.
- Việt Nam là đất nước có nhiều nguồn nguyên tự nhiên liệu dồi dào phục vụ cho
nhu cầu sản xuất kinh doanh tại chỗ của các doanh nghiệp như các loại khoáng sản, các
sản phẩm nông nghiệp, ngư nghiệp....
- Một số yếu tố đầu cơ bản vào phục vụ sản xuất kinh doanh nghiệp còn được nhà
nước bảo hộ, bao cấp một phần thông qua việc định giá bán: Như điện, nước, hoặc

chưa phải đóng phí như sử dụng hạ tầng giao thông có nguồn vốn đầu tư từ Ngân sách
Nhà nước.... giúp nhà đầu tư tiết kiệm được chi phí, tăng lợi nhuận.
- Môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện toàn diện trên các mặt: Khuôn
khổ pháp lý, cải cách thủ tục hành chính, tuyên chiến nạn tham nhũng,
IV. Khó khăn:
- Việt Nam là nước có nền văn hóa lâu đời, với 54 dân tộc khác nhâu; mỗi miền,
vùng, mỗi dân tộc có tập quán, nét văn hóa riêng. Do vậy việc tiếp cận, tìm hiểu đầy đủ
về văn hóa, tập quán của các dân tộc, các vùng miền để có chính sách sản xuất kinh
doanh phù hợp là việc không dễ.
- Thể chế pháp lý của Việt Nam chưa đồng bộ, chưa chặt chẽ, đôi khi là kẽ hở cho
công chức hành sách doanh nghiệp.
- Thủ tục hành chính còn phức tạp, nhiều khâu, nhiều bước, mang tính thủ tục cao,
tốn nhiều thời gian, làm tăng chi phí, nhiều khi làm mất cơ hội kinh doanh của doanh
nghiệp
- Rào cản về ngôn ngữ: Cả về đội ngũ công chức Việt Nam và người lao động Việt
Nam có trình độ ngoại ngữ còn rất hạn chế. Phần lớn lao động là công nhân không biết
tiếng Anh (ngoại ngữ phổ cập nhất) hoặc biết rất ít, không đủ trình độ giao tiếp; phần
lớn công chức biết ngoại ngữ nhưng chưa đủ trình độ tiếng anh để nghiên cứu, trao đổi
công việc...
V. Các rủit ro kinh doanh quốc tế tại Việt Nam
Cũng như đầu tư kinh doanh quốc tế vào các nước khác, khi đầu tư kinh doanh
vào Việt Nam các nhà đầu tư nước ngoài cũng gặp một số nguy cơ rủi ro sau:
11


1. Rủi ro về tỷ giá: Như đã phân tích ở trên, từ năm 2007 đến 30/11/2002, tỷ giá
giữa đồng Việt Nam và USD đang tăng thêm 30% do vậy đây là một trong những rủi ro
lớn khi đầu tư vào Việt Nam.
2. Rủi ro về thay đổi chính sách vì những quyết định chính trị của đảng và nhà
nước. Đầu tư là một tiến trình dài hạn được chuẩn bị cho nhiều năm sau này nên thay

đổi về chiến lược và chính sách có thể gây ra nhiều vấn đề bất ngờ, nay là đúng mai là
sai. Đặc biệt với Việt Nam là nước đang trong quá trình đổi mới, chuyển từ cơ chế quản
lý hành chính, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, đang trong tiến trình hội nhập quốc
tế nên các cơ chế chính sách thường xuyên thay đổi, nhiều bộ luật ban hành có thể nói
là chưa kịp ráo mực đã thay đổi, nhất là các chính sách thuế giá trị gia tăng, thuế xuất
nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp có liên quan trực tiếp, chi
phối rất lớn đến doanh nghiệp. Các chính sách thuế này có thể làm thay đổi dự án của
doanh nghiệp ban đầu là lãi trở thành lỗ, hoặc thậm chí bị phá sản (Ví dụ các doanh
nghiệp đầu tư sản xuất ô tô tại Việt nam sẽ gặp khó khăn khi nhà nước Việt Nam cho
phép nhập xe ô tô cũ, hạ thuế suất thuế nhập khẩu đối với xe nhập; hoặc tăng thuế trước
bạ, lệ phí đăng ký xe, lệ phí giao thông, gửi xe, buộc người mua xe phải có chỗ gửi xe
trước khi mua...). Hoặc chính sách thay đổi tiền lương tối thiểu cho người lao động
nhưng không có dự báo, kế hoạch trước, gây khó khăn cho doanh nghiệp.
3. Rủi ro về pháp lý: Môi trường đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam vẫn còn sự
mập mờ trong định nghĩa đúng và sai, hợp pháp và phi pháp, được suy diễn khá tùy
tiện. Vì vậy mà một chuyện bê bối vĩ đại như Vinashin vẫn xảy ra, trong khi một
nghiệp vụ sa thải hay thanh toán nợ nần lại có thể bị chuyển qua hình sự mà cơ chế
trọng tài lại không có thẩm quyền hòa giải. Trong một cơ sở liên doanh với doanh
nghiệp nhà nước chẳng hạn, nhà đầu tư không được bảo vệ và thực tế vẫn bị quyền phủ
quyết của đối tác Việt Nam, nhờ luật lệ suy diễn theo kiểu Việt Nam. Tranh chấp về lao
động cũng vậy.
4. Rủi ro về kinh tế vĩ mô, tạo nên bất ổn của nền kinh tế, lạm phát gia tăng, nhà
nước đi vay quá nhiều, ngân sách vì nhà nước bị bội chi, đồng tiền mất giá làm chi phí
của doanh nghiệp tăng cao, doanh nghiệp khó tiếp cận các nguồn vốn tài trợ tín dụng...
12


5. Rủi ro về diện văn hóa. Từ quan hệ chính trị tới việc đề cử và mua chuộc thân
tộc làm tay chân, hoặc ký hợp đồng gia công, hợp đồng cung cấp nguyên vật liệu, v.v...
Việt Nam vẫn có một số thói quen của văn hoá Á Châu "một người làm quan cả họ

được nhờ", hoặc chỉ tin vào họ hàng thân quyến, phe cánh.
6. Rủi ro về môi sinh vì hạ tầng cơ sở lạc hậu không thể ứng phó với thiên tai, lũ
lụt hay đơn giản là điện bị cúp, nước ngọt không có.
7. Rủi ro về nhân công. Việt Nam thiếu nhân công có tay nghề và kỷ luật lao
động cao và lợi thế nhân công rẻ chưa chắc đã bù đắp được năng suất quá thấp, lao
động không tuân theo kỷ luật chặt chẽ nếu so sánh với nhiều nước Đông Nam Á khác.
Gần đây nhiều cuộc đình công xảy ra ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài làm
đình trệ sản xuất, các doanh nghiệp nước ngoài phải thỏa thuận tăng lương làm tăng chi
phí ngoài kế hoạch.
8. Rủi ro về chính trị: Việc thay đổi thế chế chính trị, sự bất ổn xã hội do bạo loạn,
xung đột sắc tộc, tôn giáo, khủng bố những năm qua không có nhưng không phải không
có khả năng sảy ra. Ngoài ra thể chế chính trị Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo
theo chủ nghĩa Mac-Lênin với mục tiêu trước mắt là xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa
tiến tới xây dựng chế độ cộng sản chủ nghĩa nên việc các nhà đầu tư nước ngoài e ngại
việc quốc hữu hóa các tài sản tư nhân bao gồm cả tài sản các nhà đầu tư nước ngoài vẫn
là nồi lo của các nhà đầu tư nước ngoài khi đặt chân đến đầu tư, kinh doanh tại Việt
Nam .
VI. Đánh giá chung về môi trường kinh doanh quốc tế tại Việt Nam
- Từ số liệu thống kê của WB cho thấy, môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt
Nam còn khá nhiều vấn đề tồn tại từ nhiều năm nhưng chậm được cải thiện:
+ Một số chỉ tiêu của Việt Nam hiện nay đang bị đánh giá rất thấp trong mốitương
quan với các nước khác trong khu vực và trên thế giới như: bảo vệ nhà đầu tư (xếp
hạng thứ 166), nộp thuế (xếp hạng 151), giải quyết phá sản doanh nghiệp (xếp hạng thứ
142 trong tổng số 183 quốc gia trong Bảng xếp hạng).
+ Theo số liệu thống kê của WB, chi phí thời gian của doanh nghiệp Việt Nam cho
việc nộp thuế lên tới 941 giờ/năm, cao hơn nhiều so với mức trung bình của các nước

13



có thu nhập trung bình (350,2 giờ/năm) và so với các nước trong khu vực (236,9
giờ/năm).
+ Thời gian giải quyết phá sản, giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam là 5 năm, chi
phí thời gian kéo dài hơn nhiều so với các nước có thu nhập trung bình (3,3 năm) và
các nước trong khu vực (2,9 năm).
+ Chỉ tiêu bảo vệ nhà đầu tư ở Việt Nam, mặc dù đã được cải thiện (tăng 6 bậc so
với năm 2011), nhưng vẫn còn bị đánh giá rất thấp, xếp hạng thứ 166 trên tổng số 183
nền kinh tế. Với thang điểm từ 0 - 10 điểm, chỉ tiêu này của Việt Nam chỉ được 2.0
điểm, thấp hơn nhiều so với mức bình quân các nước có thu nhập trung bình (5,5 điểm)
và các nước trong khu vực (6,3 điểm).
- Trong năm 2012, trong số 10 chỉ tiêu riêng lẻ được xếp hạng để từ đó tổng hợp
thành mức xếp hạng chung của quốc gia, Việt Nam có tới 6 chỉ tiêu bị tụt hạng so với
năm 2011, bao gồm: (i) thành lập doanh nghiệp (từ 100 xuống 103); (ii) đăng ký quyền
sở hữu tài sản (từ 43 xuống 47);(iii) tiếp cận tín dụng (từ 21 xuống 24);(iv) nộp thuế (từ
129 xuống 151);(v) thương mại qua biên giới (từ 65 xuống 68);(vi) giải thể doanh
nghiệp (từ 130 đến 142). Trong đó, có những chỉ tiêu bị tụt hạng nhiều bậc so với năm
trước như nộp thuế (tụt hạng 22 bậc), giải quyết phá sản (tụt hạng 12 bậc).
Tuy nhiên theo đánh giá của Hãng tin Bloomberg về môi trường kinh doanh năm
2012 Việt Nam đã đạt được những tiến bộ lớn, cụ thể: Dựa trên 6 tiêu chí đánh giá bao
gồm: mức độ hội nhập kinh tế (chiếm 10% tổng điểm), chi phí thành lập doanh nghiệp
(20%), chi phí lao động và nguyên vật liệu đầu vào (20%), chi phí vận chuyển hàng hóa
(20%), những chi phí ít hữu hình hơn (20%), và mức độ sẵn sàng chi tiêu của người
tiêu dùng địa phương (10%), để xếp hạng 50 nền kinh tế có môi trường kinh doanh tốt
nhất thế giới. Qua việc khảo sát 160 nền kinh tế trên thế giới, Bloomberg đã đưa ra
bảng xếp hạng Best Countries for Business Ranking. Theo đó, Việt Nam xếp ở vị trí thứ
thứ 46 trong top 50, đồng hạng với đảo Cyprus. Đặc biệt, Việt Nam còn được xếp hạng
cao hơn 3 quốc gia nằm trong nhóm những nền kinh tế mới nổi lớn nhất thế giới
(BRIC) là Nga, Ấn Độ và Brazil. Khu vực Đông Nam Á chỉ có 3 quốc gia lọt vào top
50 bao gồm Singapore ở vị trí thứ 9, Malaysia ở vị trí 32 và Việt Nam vị trí 46 – Việt
nam đứng thứ ba trong các nước vực Đông Nam Á. Tuy đứng ở vị trí 46 nhưng Việt

14


Nam được đánh giá đạt 36,2% tổng điểm trong dao động từ 0%-100%, trong khi con số
này ở nước đầu bảng Hồng Kông là 49%.
Trong 6 tiêu chí xếp hạng của Bloomberg, tiêu chí mức độ hội nhập kinh tế của
Việt Nam được đánh giá ở điểm số cao nhất khi đạt 64,5% và điểm số thấp nhất rơi vào
chi phí ít hữu hình hơn khi tiêu chí này đánh giá về mức độ tham nhũng, bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ, thuế và khả năng điều chỉnh về kế toán. Ở tiêu chí này Việt Nam chỉ đạt
19,3%.
Trước đó, vào tháng 1/2012, Bloomberg đã dự báo 40 năm nữa, Việt Nam sẽ có
tên trong nhóm 50 nền kinh tế hàng đầu thế giới. Mới đây, hồi tháng 2, hãng tin này lại
tiếp tục xếp Việt Nam vào danh sách thị trường sơ khai (frontier market) tiềm năng nhất
năm 2012.
VII. Đề xuất một số giải pháp nhằm tạo ra một môi trường tốt hơn cho đầu
tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong những năm qua đã đem lại những lợi to
lớn như: Giúp đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế; thu hút lao động, tạo việc
làm, giải quyết một phần nạn thất nghiệp cho người lao động qua đó gán tiếp tạo sự ổn
định xã hội, tăng đóng góp cho ngân sách, thu nhập cho người lao động; Góp phần cải
tạo môi trường cạnh tranh; Góp phần tạo điều kiện tiếp nhận khoa học công nghệ ,kỹ
thuật và trình độ quản lý tiên tiến từ nước ngoài. Bên cạnh những mặt tích cực thì đầu
tư nước ngoài vào Việt Nam cũng có những tác động tiêu cực như: có thể dẫn tới tình
trạng khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách thái quá, gây hậu quả ô nhiễm môi
trường một cách nghiêm trọng; gây ra sự phân hóa, tăng khoảng cách phát triển giữa
các vùng và giữa các tầng lớp dân cư với nhau; Làm tăng các vấn đề về tệ nạn xã hội,
dịch bệnh và có thể bị ảnh hưởng hoặc lệ thuộc vào những yêu cầu từ phía chủ đầu tư.
Tuy nhiên, việc kinh doanh quốc tế, tiếp nhận đầu tư nước ngoài là xu hướng tất yếu
khách quan hiện nay, vì vậy mỗi quốc gia phải biết phát huy những mặt mạnh của nó
đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực có thể của nó đến xã hội, kinh tế, chính trị.


15


Đối với Việt Nam, để tạo ra một môi trường kinh doanh tốt hơn cho đầu tư trực
tiếp quốc tế nước ngoài tại Việt Nam, Nhà nước cần thực hiện tốt đồng bộ các chính
sách sau:
1. Sớm ổn định kinh tế vĩ mô, giảm lạm phát – đưa lạm phát về con một con số,
phân đấu duy trì tỷ lệ lạm phát khoản 3-6%/năm, đảm bảo lãi tiền gửi dương. Thu hút
toàn bộ nguồn lực, tiền, vàng, nhân lực và khai thác hợp lý, hiệu quả nguồn tài nguyên
thiên nhiên phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội.
2. Đảm bảo duy trì an ninh, trật tự xã hội, không để sảy ra tình trạng bất ổn chính
trị, xã hội, chia rẽ sắc tộc, tôn giáo, khủng bố, bạo loạn, lật đổ, biểu tình, đình công tạo
nên sự bất ổn kinh doanh của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nước ngoài.
3. Tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp lý đầu tư nước ngoài tại Việt Nam: Ban hành
đồng bộ thể chế pháp lý quản lý doanh nghiệp nói chung và đầu tư vốn nước ngoài vào
Việt Nam nói riêng. Tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, bình đảng giữa các
doanh nghiệp với nhau (doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam và
doanh nghiếp có vốn đầu tư nước ngoài...) ; duy trì nhất quán, ổn định chính sách tạo
thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài yên tâm làm ăn lâu dài tại Việt Nam.
4. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo hướng tinh giảm các thủ tục
hành chính, rút ngắn thời gian giải quyết các thủ tục hành chính ở mức tối đa, tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp tập trung thời gian vào công việc sản xuất kinh doanh, nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
5. Đẩy mạnh, tuyên chiến với tệ nạm tham nhũng: Đây cũng là cam kết của Đảng,
Chính phủ Việt Nam tại kỳ họp Quốc hội tháng 11/2012 vừa qua. Tệ nạm tham nhũng
phổ biến ở Việt Nam đã làm cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp, làm sói mòn lòng tin của các nhà đầu tư.
6. Tiếp tục hoàn thiện thể chế quản lý tiền tệ, tài chính.
Thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt những đảm bảo sự ổn định

- Chính sách tỷ giá: nên thực hiện chính sách tôn trọng thị trường, chủ động thực
hiện chính sách “thụ động” (passive policies), tức là đợi thị trường xác lập xu hướng,
còn chính phủ chỉ ra chính sách để khẳng định xu hướng để đưa tỷ giá về quan hệ thực
của nó.
16


- Hoàn thiện thị trường tài chính, tiền tệ: Thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt,
kiểm soát chặt chẽ thị trường tiền tệ, các chính sách tín dụng đảm bảo ngưỡng chuẩn an
toàn tạo thị trường tiền tệ lành mạnh, nền kinh tế phát triển ổn định, vững chắc, không
bị dơi vào phát triển nóng, tạo nên những bong bóng của nền kinh tế.
- Cải cách, hoàn thiện chính sách thuế: Thuế Giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu,
tiêu thụ đặc biệt, thuế thu ngập doanh nghiệp, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài theo
hướng đơn giản các thủ tục thuế, hải quan cho doanh nghiệp; chính sách thuế có sức
nuôi nguồn thu tức thu thuế mức hợp lý để doanh nghiệp có điều kiện thực hiện tái đầu
tư mở rộng, tăng thêm lợi nhuận sau thuế cho nhà đầu tư; chính sách thuế chuyển lợi
nhuận ra nước ngoài hợp lý tạo sức cạnh tranh hấp dẫn thị trường đầu tư vào Việt Nam
so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới.
7. Đẩy mạnh đầu tư xây dựng, hoàn thiện cơ sở hạ tầng hiện đại, tạo thuận lợi cho
sự phát triển kinh tế xã hội nói chúng và cho doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nói riêng.
8. Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, cả nguồn nhân lực quản lý có chất lượng
cao, nguồn nhân lực kỹ thuật có trình độ chuyên môn, có ý thức kỷ luật lao động tiên
tiến.
Kết luận chung
Hoạt động trong một môi trường kinh doanh quốc tế là xu hướng tất yếu khách
quan hiện nay, xác định được ý nghĩa, tầm quan trọng của nó, những năm qua nhà nước
Việt Nam luôn quan tâm đến việc thu hút, cải thiện môi trường, tạo điều kiện cho nhà
đầu tư quốc tế vào kinh doanh, đầu tư tại Việt Nam. Đến nay, môi trường kinh doanh
của Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ so với trước, thực sự trở thành một miếng đất
có sức hấp dẫn thu hút vốn đầu tư nước ngoài song vẫn còn những điểm bất cập như đã

nêu ở trên. Tuy nhiên, nhà nước Việt Nam đã xác định được các nhược điểm này và
đang ra sức khắc phục một cách đồng bộ, quyết tâm đưa Việt Nam trở thành nước có
sức cạnh tranh nhất, có môi trường kinh doanh tốt nhất trên thế giới. Với lợi thế là một
nước có sự ổn định chính trị, xã hội, không có bạo loạn, chia rẽ sắc tộc, tôn giáo, biểu
tình, có nguồn lao động dồi dào, giá rẻ, hạ tầng được cải thiện hàng ngày, nhiều lĩnh
vực kinh tế còn chưa phát triển, chưa được khai thác, kinh tế vĩ mô đang có chiều
17


hướng chuyển biến tích cực, lạm phát dần được khống chế, lãi suất vốn vay trên đà
giảm,... đồng thời Việt Nam đang đẩy mạnh hoàn thiện thể chế pháp lý, cải cách thủ tục
hành chính, đẩy mạnh chống tham nhũng một cách quyết liệt, đổi mới chính sách
thuế... tất cả để tạo môi trường thông thoáng, minh bạch cho hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp nói chung, và doanh nghiệp đầu tư quốc tế nói riêng. Do vậy, hiện
nay và đặc biệt là trong tương lai, các nhà đầu tư quốc tế nên sớm quyết định đầu tư
vào kinh doanh tại Việt Nam, đây chính là miếng đất đầu tư đảm bảo sự an toàn, có
nhiều tiềm năng và cơ hội thành công lớn./.

18



×