Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số biện pháp công tác chủ nhiệm lớp ở lớp 2d, trường tiểu học thị trấn thường xuân, huyện thường xuân, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.73 KB, 18 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Như chúng ta đã biết, trong hệ thống giáo dục quốc
dân thì bậc học Tiểu học được xem là bậc học nền tảng và là
nền móng khởi đầu cho quá trình học tập của một con người.
Các em phải hiểu, nắm bắt và vận dụng những kiến thức, kỹ
năng cơ bản của chương trình thì mới có thể tiếp thu, lĩnh hội
tốt hơn ở các bậc học tiếp theo. Điều này đòi hỏi người giáo
viên phải có các biện pháp sư phạm tối ưu, phải tổ chức các
hoạt động học tập tích cực, phải biết vận dụng linh hoạt,
mềm dẻo các hình thức, phương pháp dạy học nhằm giúp
học sinh tự chiếm lĩnh các kiến thức cơ bản cần có đó.
Nền tảng cho sự hình thành và phát triển nhân cách
của con người nhờ vào sự giáo dục đạo đức của gia đình, nhà
trường và xã hội. Do đó, khi đứng trước học sinh, mỗi giáo
viên cần có những suy nghĩ, cư xử sao cho phù hợp. Mỗi
người cần nhận thấy mình phải có trách nhiệm hơn trong
việc giáo dục học sinh, qua đó có sự tư duy để tìm ra các
cách giải quyết riêng biệt cho từng đối tượng học sinh.
Thực tế hiện nay trình độ của học sinh khi vào lớp là
không đồng đều gây khó khăn cho giáo viên khi giảng dạy ở
lớp. Đồng thời cũng dẫn đến tình trạng phân hóa trình độ
trong học sinh một cách rõ rệt. Và một trong những vấn đề
mỗi khi nhận lớp khiến bản thân tôi luôn lo lắng là tìm biện
pháp giúp học sinh tiếp thu bài chậm và chưa hoàn thành
chương trình tiến bộ và làm giảm bớt tình trạng phân hóa
trình độ học sinh của lớp. Là một giáo viên có nhiều năm
giảng dạy, tôi thường xuyên trăn trở về điều này. Thực tế cho
thấy, không phải giáo viên nào cũng có thể "thổi luồng sinh
khí mới" cho học sinh, giúp học sinh năng động hơn, tích cực
hơn trong học tập. Tôi thấy công tác chủ nhiệm của giáo viên
tiểu học là công việc không hề nhẹ nhàng vì nó chiếm rất


nhiều thời gian và công sức của người giáo viên chủ nhiệm.
Đây là công việc hàng ngày xuyên suốt từ đầu năm đến cuối
năm học chứ không phải chỉ gói gọn trong tiết sinh hoạt lớp
ngày thứ sáu hàng tuần.
Tôi nhận thức được ở trường tiểu học, giáo viên chủ
nhiệm là người có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giáo
dục nhân cách học sinh một cách toàn diện . Giáo viên là


người gần gũi và hiểu rõ tâm tư, tình cảm của các em, trực
tiếp uốn nắn kịp thời những hành vi sai trái và giúp các em
phát triển tốt. Chính vì lý do đó tôi xin trình bày một vài kinh
nghiệm nhỏ để chia sẻ cùng đồng nghiệp về vấn đề : “ Một
số biện pháp công tác chủ nhiệm lớp ở lớp 2D, Trường
Tiểu học Thị trấn Thường Xuân, huyện Thường Xuân,
tỉnh Thanh Hóa .
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Cơ sở lí luân của vấn đề :
Giáo dục trẻ em là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng
mà cả xã hội đều quan tâm, bởi vì “trẻ em hôm nay là thế
giới ngày mai”. Để ngày mai thế giới có những người chủ
xứng đáng, xã hội có những người công dân tốt thì chỉ ngày
hôm nay – khi trẻ em là những mầm non mới nhú, thế hệ đi
trước phải có trách nhiệm dạy dỗ, hướng dẫn trẻ em đi đúng
hướng. Đúng như lời Bác Hồ dạy: “Vì lợi ích mười năm trồng
cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Thời thơ ấu rất quan
trọng đối với sự phát triển nhân cách con người. Đứa trẻ
ngày hôm nay và sau này trở thành người như thế nào là tuỳ
thuộc một phần ở các em đã trải qua ngày thơ ấu như thế
nào, ai là người dìu dắt các em trong những ngày thơ bé,

những gì của thế giới xung quanh đi vào trái tim của em.
Mặc dù nhiệm vụ giáo dục trẻ em được cả xã hội quan
tâm nhưng quan trọng hơn cả vẫn là nhà trường, đặc biệt là
trường Tiểu học. Có điều này bởi vì nhà trường nói chung và
trường Tiểu học nói riêng là nơi kết tinh trình độ văn minh
của xã hội trong công tác giáo dục trẻ em. Trường Tiểu học
chân chính không chỉ là nơi trẻ tiếp thu kiến thức khoa học
mà còn là nơi giáo dục các em trở thành người có ích cho xã
hội. Vì vậy, trẻ em phải được giáo dục toàn diện. Bác Hồ đã
nói: “Người có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó.
Người có tài mà không có đức là người vô dụng”. Do đó, ở
nhà trường Tiểu học nhiệm vụ dạy trẻ các tri thức khoa học
và phẩm chất đạo đức là hai nhiệm vụ song song không thể
thiếu được.
Đào tạo những con người có học thức, những người giỏi
là nhiệm vụ quan trọng của nhà trường và chức năng chính
của nhà trường là dạy học. Hoạt động dạy của thầy và hoạt


động học của trò là hai hoạt động trung tâm của một quá
trình dạy học và là hai hoạt động mang tính chất khác nhau
trong mối quan hệ qua lại giữa thầy và trò. Hoạt động dạy và
học tô đậm chức năng xã hội của nhà trường, đặc trưng cho
nhiệm vụ của nhà trường và là hoạt động trung tâm, là cơ sở
khoa học của các hoạt động khác của nhà truờng.
Như vậy,việc nâng cao chất lượng giáo dục là vấn đề
quan trọng, có vị trí chiến lược lâu dài. Ngày nay, trong đời
sống công nghệ và khoa học phát triển, những người làm
công tác giảng dạy trong trường học chúng tôi hiểu một cách
sâu sắc hơn ai hết về tầm quan trọng của giáo viên trong sự

nghiệp giáo dục nói chung và trong sự nâng cao chất lượng
giáo dục, đặc biệt là giúp học sinh còn tiếp thu bài chậm học
tập tiến bộ nói riêng. Vì vậy việc nâng cao chất lượng học
tập cho học sinh trong lớp mình chủ nhiệm là nhiệm vụ quan
trọng nhất của các giáo viên Tiểu học.
2. Thực trạng của vấn đề:
Trong năm học 2013 - 2014, tôi được Nhà trường phân
công chủ nhiệm lớp 2D - một trong những lớp có sự phân hoá
trình độ học sinh trong một lớp khá rõ nét. Là học sinh lớp 2
của một trường trung tâm huyện, điều kiện đi lại thuận lợi,
việc tiếp cận với các thông tin đại chúng nhanh. Từ đó dẫn
đến việc các em tiếp cận với công nghệ thông tin, trò chơi
không lành mạnh, các tệ nạn xã hội khác cũng nhanh chóng
không kém.
Trong dạy học, việc dạy các em đọc thông viết thạo,
làm toán nhanh, ... là điều đương nhiên. Song trong thực tế
vẫn còn có những trường hợp đọc bài chưa đáp ứng được so
với yêu cầu, làm toán còn chậm, ... Sau khi nhận lớp tôi
cũng khá trăn trở về vấn đề này. Đồng thời, tôi được biết học
sinh lớp tôi nhiều em có hoàn cảnh hết sức khó khăn:
* Đa số các em thuộc con gia đình lao động, tổng số
học sinh trong lớp là 25em nhưng có tới 19 em con gia đình
lao động tự do, 6 em con gia đình hộ nghèo, cuộc sống vẫn
còn nhiều khó khăn nên điều kiện học tập của các em vẫn
còn thiếu thốn.
* Một số học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn:
bố mẹ đi làm ăn xa, thậm chí có gia đình bố mẹ phó mặc
hoàn toàn con cái cho ông bà nuôi dưỡng và chăm sóc. Gần



như mọi vấn đề học tập của học sinh gia đình đều nhờ giáo
viên chủ nhiệm và nhà trường.
* Trong lớp tôi có cả học sinh ở xa trường, hàng ngày
phải tự đi bộ 4- 5km để đến trường, qua sông, qua đò rất vất
vả và nguy hiểm.
Bên cạnh đó vẫn có học sinh còn mải chơi, nghịch
ngợm, thiếu sự quan tâm từ phía gia đình do bố mẹ các em
còn mải công việc làm ăn. Đó chính là lí do khiến cho tỉ lệ
học sinh chưa hoàn thành bài học ở lớp còn cao và đây chính
là nỗi trăn trở cho giáo viên và nhà trường. Tôi luôn suy nghĩ
tìm cách khắc phục thực trạng đó ở lớp của mình. Và tôi
quyết tâm tìm biện pháp để giúp các em học tập tiến bộ.
Tôi tiến hành khảo sát chất lượng đầu năm học, kết quả
thu được như sau :
Lớp chủ nhiệm: 2D
Xếp loại
Yếu
TB
Khá
. Giỏi
SSHS
Số bài
4
6
10
5
25 em Tỷ lệ ( %)
16
24
40

20
3. Giải pháp và tổ chức thực hiện:
3.1 Tìm hiểu tình hình của lớp:
Vào đầu năm học, sau khi nhận lớp việc đầu tiên là tôi
tìm hiểu tình hình học sinh của lớp về trình độ kiến thức,
khả năng tiếp thu, về sức khoẻ và hoàn cảnh gia đình thông
qua hồ sơ đầu năm của học sinh . Qua một thời gian giảng
dạy ở lớp tôi thấy học sinh trong lớp có một số đối tượng
năm trước phải rèn luyện trong hè mới hoàn thành chương
trình đủ điều kiện để lên lớp. Sau một thời gian nghỉ hè,
cộng với đặc điiểm học sinh tiểu học " nhanh nhớ, chóng
quên " nên gần như kiến thức các em đã quên tương đối
nhiều.
Tôi tiến hành lập danh sách học sinh, phân chia các đối
tượng học sinh. Trong đó, tôi đặc biệt chọn lọc và khoanh
vùng những học sinh còn tiếp thu chậm để tìm hiểu nguyên
nhân dẫn đến tình trạng của từng em trong lớp.
3.2 Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến việc học sinh còn
tiếp thu bài chậm:


Qua trao đổi với phụ huynh, với học sinh, tôi nhận thấy
học sinh trong lớp tôi tiếp thu bài chậm là do những nguyên
nhân sau đây:
+ Học sinh học chậm do nhút nhát:
Đây là những em học sinh chịu ảnh hưởng từ cách giáo
dục của gia đình, có trình độ tiếp thu chậm nên thường mặc
cảm. Từ đó hình thành sự nhút nhát trong tính cách của các
em. Tâm lý sợ sệt xuất hiện ngay từ những ngày đầu của
năm học là không dám hỏi thầy, hỏi bạn về những điều mình

chưa hiểu. Điều này lâu dần sẽ khiến các em không hiểu bài,
dẫn đến ngại học và dần dần các em học ngày một đuối
hơn.
+ Học sinh thiếu sự quan tâm của gia đình:
Thường là những em sống trong gia đình không được
sự quan tâm , động viên của bố mẹ ,bố mẹ đi làm ăn xa hay
do mải mê buôn bán không quan tâm đến việc học của con.
Do không được quan tâm lại không có người hướng dẫn, dìu
dắt thêm khi ở nhà nên các học sinh này thường trầm lặng, ít
nói, ít tập trung vào giờ học. Đồng thời, trong các hoạt động
trên lớp ít khi thấy các em tham gia đóng góp ý kiến dù vấn
đề rất đơn giản.
+ Học sinh sức khỏe yếu và có tật:
Các em này có sức khỏe yếu, hay đau ốm phải thường
xuyên nghỉ học. Cá biệt còn có em nói ngọng do bẩm sinh. Vì
thế khi đến lớp thường tiếp thu bài chậm hơn lại còn hay bị
các bạn trêu chọc.
+ Học sinh ở xa, đến trường phải qua đò:
Các em này có vị trí nhà ở quá xa trường . Do khoảng cách
xa trường mà mỗi lần đến trường lại phải qua đò, nên thỉnh
thoảng em hay bị nhỡ đò hoặc trời mưa to quá em không thể
đến trường được. Vì vậy cũng ảnh hưởng đến việc học tập
của các em.
Dựa vào các nguyên nhân của từng đối tượng học
sinh nói trên, tôi tiến hành lập kế hoach để giúp các em
học tập tiến bộ theo các biện pháp sau:
4. Các biện pháp để tổ chức thực hiện:
Một điều mà ai cũng phải thừa nhận là để dạy học hiệu
quả cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa nhà trường và gia
đình. Học sinh được học trong ngôi trường, được thầy cô hết



lòng dạy dỗ, được sống trong mái ấm một gia đình hạnh
phúc có bố mẹ quan tâm, chăm sóc chu đáo thì chắc chắn
học sinh sẽ học tập tốt. Đặc biệt , để giúp học sinh tiến bộ
trong học tập thì rất cần sự phối hợp song song giữa hai
phía: gia đình và giáo viên.
4.1 Về phía gia đình học sinh:
Dạy học sinh học tập tốt không thể đạt hiệu quả nếu
không có sự kết hợp chặt chẽ của phụ huynh học sinh với
giáo viên vì trong mỗi giờ dạy, giáo viên phải chăm lo rất
nhiều học sinh trong lớp mà thời gian dạy học ở lớp cũng
không đủ để kèm cặp riêng cho các em. Do vậy, trước khó
khăn này tôi tìm sự giúp đỡ từ phía phụ huynh.
Trước tiên, tôi tiến hành tìm hiểu hoàn cảnh gia đình,
công việc của bố mẹ và cách dạy dỗ cũng như việc học
hành ở nhà của học sinh thông qua những bài giảng ở trên
lớp, qua tìm hiểu tâm lí và nguyện vọng của học sinh, qua
cuộc nói chuyện với các bạn trong lớp của các em, trực tiếp
nói chuyện với các em và cha mẹ các em.
Sau đó, tôi liên hệ với phụ huynh để trao đổi trực tiếp
bằng cách viết thư mời hẹn gặp, trao đổi qua điện thoại hoặc
đến nhà học sinh. Khi trao đổi với phụ huynh về việc học của
học sinh, bao giờ cũng vậy, tôi luôn nhẹ nhàng phân tích cho
phụ huynh thấy được mặt mạnh, mặt còn hạn chế của con
em mình và chỉ rõ nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế đó cho
phụ huynh hiểu. Đối với mặt mạnh - đáng khen của học sinh,
tôi đề nghị phụ huynh phát huy, bồi dưỡng còn đối với mặt
còn hạn chế, tôi đề nghị phụ huynh cùng tìm các biện pháp
giúp đỡ học sinh tiến bộ.

Cuối cùng, tôi đề nghị gia đình phải thực hiện kiên trì,
thường xuyên, đồng bộ với giáo viên và phải có lòng tin vào
sự tiến bộ của học sinh. Nhưng việc thực hiện các biện pháp
cần có sự thống nhất giữa giáo viên và gia đình tránh trường
hợp “Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Tôi và phụ huynh
cùng thống nhất mỗi ngày sẽ dành thời gian kèm cặp, hướng
dẫn, theo dõi và ghi nhận lại sự tiến triển của học sinh. Tuy
nhiên trong quá trình gặp gỡ phụ huynh không phải lúc nào
tôi cũng được phụ huynh hợp tác một cách tuyệt đối. Do còn
phải lo toan cuộc sống đời thường nên thời gian phụ huynh


dành cho tôi gặp gỡ thường xuyên còn hạn chế nên tôi đã
liên lạc bằng điện thoại hoặc thư mời.
Ví dụ: Trường hợp em Lê Thị Mộng Kha học yếu do nhút
nhát.
Gia đình em hoàn cảnh rất khó khăn: bố mẹ đi làm ăn
xa, em ở nhà với ông ngoại đã già yếu từ khi mới lên 3 tuổi,
điều kiện kinh tế lại khó khăn. Đồng thời bản thân em lại
nhút nhát, ốm yếu, mệt mỏi nên nhiều lúc trên lớp em không
thể chủ động học được vì còn phụ thuộc vào sức khoẻ. Tôi đã
trao đổi với ông Nguyễn Quán Hồng ( ông ngoại em ) và
thường xuyên liên lạc với ông để cùng ông giúp đỡ em trong
học tập cũng như trong cuộc sống. Chính vì vậy ông của em
Mộng Kha đã rất tiến bộ trông thấy từng ngày. Tôi đã nói cho
ông em hiểu em rất thích đi học, ham học nhưng do sức
khoẻ kém nên lúc nào em mệt thì để em nghỉ, còn lúc nào
em khoẻ thì động viên em cố gắng học bài, chỗ nào không
hiểu thì có thể hỏi thầy, hỏi bạn (tôi đã phân công em
Nguyễn Thị Ngọc Diệp - một học sinh gương mẫu về mọi mặt

của lớp kèm cặp em Kha tiến bộ). Tôi cũng động viên ông em
Kha dù bận công việc thì cũng nên bớt chút thời gian buổi tối
kiểm tra việc tự học ở nhà của em, do vậy về cuối học kì 1
tôi thấy em đã đọc tốt hơn, viết nhanh hơn và đẹp hơn, làm
toán cũng tiến bộ hơn. Ở trên lớp mỗi lần em tiến bộ tôi
cùng học sinh trên lớp động viên em bằng cách tuyên dương
trực tiếp hoặc ghi lại sự tiến bộ của em vào sổ nhật kí đánh
giá của giáo viên, vì thế các em hăng hái học tập tốt hơn.
Việc trao đổi với phụ huynh học sinh có thể bằng nhiều
hình thức: Sổ liên lạc, lời dặn dò vào vở mỗi ngày, trực tiếp
qua điện thoai, trực tiếp gặp mặt hoặc trong các buổi họp
phụ huynh. Nhưng đối với học sinh như em Lê Thị Mộng Kha
thì việc trực tiếp gặp mặt trao đổi là cách làm tốt nhất.
3.2.2. Đối với giáo viên chủ nhiệm:
3.2.2.1. Quan tâm tận tình với mọi đối tượng học sinh:
Sau khi đã tìm hiểu kỹ từng đối tượng học sinh của lớp mình
tôi tiến hành dạy học nhắm vào từng đối tượng cụ thể:
* Đối với học sinh yếu do nhút nhát:
Việc đầu tiên để phát hiện ra những em nhút nhát ở
trong lớp, tôi cho các em làm một cuộc trắc nghiệm nhỏ như


sau. Tôi phát cho mỗi em một tờ giấy có ghi: Em hãy viết vào
đây:
1. Những điều em thích nhất;
2. Những điều em ghét nhất;
3. Những điều em sợ nhất.
Tôi tìm cách để liên hệ với gia đình những học sinh
này. Thường thì phụ huynh né tránh không chịu gặp giáo
viên. Có trường hợp viết thư mời nhiều lần, phụ huynh không

đến, tôi đã đến tận nhà. Khi gặp được phụ huynh, tôi giải
thích, thuyết phục cho phụ huynh thấy được những bất lợi
cho gia đình nếu các cháu không hoàn thành chương trình
học phải ở lại lớp. Nhưng quan trọng hơn là ảnh hưởng lớn
đến tương lai sau này của các cháu. Tôi cùng thống nhất với
phụ huynh cách dạy Tiếng Việt, làm Toán cho học sinh học ở
lớp và ở nhà. Tôi đề nghị phụ huynh mỗi ngày chở các em đi
học sớm và đón muộn một chút (nếu có thể). Còn tôi, mỗi
ngày đến lớp tôi thường dành nhiều thời gian kèm riêng cho
các học sinh này. Tôi chia thời gian buổi sáng kèm Tiếng Việt,
còn chiều tôi kèm Toán. Hàng ngày, tôi đều kiểm tra, ôn và
dạy lại những gì các em đó chưa hiểu, còn chưa nắm chắc
cho đến khi thấy các em vững vàng rồi bắt đầu dạy sang
kiến thức mới. Cứ kiên trì như thế, một hai tháng là học sinh
sẽ theo kịp chương trình dạy. Điều này cũng rất khó khăn vì
không phải đơn giản "ngày một - ngày hai" mà làm được, cần
có sự kiên trì thực sự và một tấm lòng nhiệt huyết của người
thầy- người giao viên chủ nhiệm lớp.
Ví dụ: Trường hợp em Trương Thị Hồng ở lớp tôi.
Đầu năm học khi tôi nhận lớp em Hồng tiếp thu bài rất
chậm, chữ viết xấu và cẩu thả. Em còn một tật là nói ngọng
nữa. Em là một trong số học sinh phải rèn luyện thêm trong
hè mới đủ điều kiện lên lớp. Tôi đã liên hệ và trao đổi thường
xuyên với mẹ của em. Về tật nói ngọng là do bẩm sinh, sau
này lớn dần em sẽ khỏi. Để tránh sự trêu trọc của các bạn
trong lớp tôi đã quan triệt học sinh ngay từ đầu năm học để
các em không trêu trọc bạn,nhạo báng bạn mà phải có trách
nhiệm giúp đỡ bạn . Tôi cử em Lê Anh Đức kèm cặp , nhắc
nhở em học tự hoàn thành bài , không làm thay , làm hộ.
Sau khi làm trắc nghiệm nhỏ như vậy tôi phần nào đã

nắm bắt được tâm lý của các em. Từ đó tôi đã giúp các em


dần dần bớt đi được những điều các em cảm thấy sợ bằng
các việc làm cụ thể sau:
Tôi liên hệ, trao đổi với phụ huynh về những biểu hiện
tâm lý của học sinh khi ở lớp và ở nhà để nắm bắt nguyên
nhân khiến các em nhút nhát, thụ động. Sau đó tôi cùng phụ
huynh trao đổi những biện pháp giải quyết tình trạng đó của
các em. Chẳng hạn, ở nhà: phụ huynh cần khuyến khích con
mình nói, nhận xét nêu ý kiến trước mọi vấn đề mà các em
quan tâm hoặc khi đọc bài thì yêu cầu các em đọc thật to,
rõ. Nếu các em làm tốt thì khen ngay, không nên chê, nhạo
báng khi các em làm chưa tốt vì như thế lần sau các em sẽ
không hứng thú để làm nữa. Còn ở lớp, vào giờ chơi, tôi
thường xuyên gọi học sinh lên để hỏi han, trò chuyện tạo sự
thân thiện với các em, xua tan dần khoảng cách giữa cô và
trò, không còn ngại ngùng khi nói ngọng, phát âm chưa
chuẩn. Trong mọi tiết học, tôi thường gọi các em phát biểu
những câu hỏi dễ, lặp lại lời bạn và nhất là khuyến khích gọi
học sinh lên bảng làm bài một cách thường xuyên để giúp
các em bớt nhút nhát trước đám đông. Khi học sinh làm tốt,
tôi liền cho cả lớp tuyên dương, còn khi các em làm chưa tốt
thì tôi hướng dẫn các em làm lại và nhắc nhở học sinh trong
lớp chia sẻ và giúp đỡ bạn nhiều hơn.
+ Học sinh thiếu sự quan tâm của gia đình:
Trường hợp em Nguyễn Thị Phương Linh lớp tôi là đối tượng
học sinh chưa được gia đình quan tâm. Bố em bị ung thư não
phải nằm tại chỗ. Mẹ em thì bận lo làm ăn để nuôi và chăm
sóc chồng , vì thế công việc học hành của con là phó mặc

cho cô giáo. Em thường xuyên quên sách vở , đồ dùng học
tâp, đầu tóc, quần áo không gọn gàng sạch sẽ; Tôi đã nhiều
lần đến nhà động viên em và gặp gỡ trao đổi với mẹ em. Đầu
tiên mẹ em do quá mặc cảm với hoàn cảnh của mình nên đã
chán nản với cuộc sống gia đình. Bằng sự chân thành của
bản thân tôi đã giúp mẹ em nguôi ngoai được phần nào nỗi
buồn , dành một ít thời gian quan tâm đến con. Đến cuối học
kì I em đã tiến bộ rõ rệt. Đi học đầy đủ, đúng giờ; sách vở
đầy đủ; quân áo sạch sẽ, gọn gàng.
+ Học sinh ở xa, đến trường phải qua đò:
Trường hợp em Dương Nhật Huy, nhà ở cách trường
4km, hàng ngày em phải đi bộ do gia đình không có điều


kiện đưa đón. hơn thế nữa mỗi lần đi học em phải đi đò, nếu
trời mưa to quá em không qua sông được lại phải nghỉ
học.Hoặc có đến trường thì quần áo, sách vở cũng bị ướt hết.
Lý do khách quan đó đã ảnh hưởng đến kêt quả học tập của
các em . Tôi đã trực tiếp nhiều lần động viên gia đình em cố
gắng đưa đón em vào những ngày mưa to, gió lớn, phân tích
và chỉ ra những rủi ro mà em gặp phải trên dường đi học.Đến
nay gia đình em đã thay đổi rất nhiều trong việc quan tâm ,
chăm sóc đên việc học tập. Em đã tiến bộ rõ rệt và gia đinh
em đã đưa đón em trong những ngày mưa gió.
3.2.2.2. Thực hiện tốt công tác chủ nhiệm:
* Lập kế hoạch cụ thể:
Vào đầu năm học, tôi thường lập kế hoạch dạy học cụ
thể cho cả năm học. Ngay từ đầu năm, sau khi tìm hiểu tình
hình học tập, đặc điểm về thể chất, tâm sinh lí của học sinh,
tôi tiến hành sắp xếp chỗ ngồi, chia tổ, bầu và bồi dưỡng đội

ngũ cán sự lớp. Lập danh sách phân chia các đối tượng: học
sinh giỏi, học sinh có năng khiếu, học sinh tiếp thu chậm để
có kế hoạch cùng với Tổng phụ trách Đội và nhà trường bồi
dưỡng, phụ đạo thêm cho học sinh. Điều đó giúp tôi thuận
tiện trong việc theo dõi tình hình học tập, hạnh kiểm của học
sinh từng tuần, từng tháng. Tôi đã lập ra nội quy cụ thể của
lớp và gắn ở gần cửa ra vào để tất cả học sinh đều nắm bắt
được những việc nên làm và không nên làm.
* Sắp xếp chỗ ngồi phù hợp với học sinh :
Khi sắp xếp chỗ ngồi, điều thứ nhất cần tránh là
xếp những học sinh học tiếp thu chậm ngồi cùng bàn hoặc
ngồi ở vị trí cuối lớp vì khả năng tập trung, chú ý và tiếp thu
của các học sinh thường rất kém. Đồng thời việc kèm cặp
trong giờ học cũng khó khăn cho giáo viên. Điều thứ hai cần
tránh là cho học sinh học đó ngồi “cách ly” hoặc ngồi “ưu
tiên” trên bàn giáo viên vì như thế làm cho học sinh bị cô
lập, mặc cảm.
* Chia tổ:
Trong lớp, đảm bảo các đối tượng học sinh được chia
đều cho các tổ. Giáo viên cần tạo sự thi đua học tập tích cực
giữa các tổ ngay từ đầu năm học bằng cách phổ biến rõ
nhiệm vụ, nội qui, cách thưởng, phạt thật rõ ràng. Tôi đã giao


cho mỗi tổ một quyển sổ theo dõi thi đua, tổ trưởng theo dõi
và xếp loại cụ thể từng tuần, từng tháng. Ngoài việc theo dõi
nề nếp tôi còn khuyến khích học sinh học tập bằng thi đua "
vườn hoa việc tốt ". Khi các em làm được một việc tốt sẽ
được tặng hoa, cuối tuần tổng kết thi đua. Nhờ có sự thi đua
trong học tập, học sinh có động lực để cố gắng trong học

tập, tạo được sự hỗ trợ, động viên, nhắc nhở cùng nhau học
tập tốt giữa các thành viên trong tổ, giữa các tổ trong lớp.
* Xây dựng đội ngũ cán sự lớp giỏi:
Sau khi bầu cán sự lớp, cùng với các chi Đội trưởng tôi
đã hướng dẫn, bồi dưỡng đội ngũ cán sự lớp giỏi vì đây là
những trợ thủ đắc lực có khả năng giúp đỡ giáo viên trong
vấn đề quản lý và xây dựng nề nếp lớp. Đây là những học
sinh “mũi nhọn” trong học tập, trong các phong trào thi đua
của lớp, của trường. Mặt khác, cán sự lớp còn là người có khả
năng giúp đỡ các học sinh tiếp thu bài còn chậm của lớp, hỗ
trợ tôi trong việc kiểm tra, kèm cặp các em.
* Xây dựng đôi bạn cùng học tập tiến bộ:
Một điều mà ai cũng thừa nhận là: “Học thầy không tày
học bạn”. Ngay trong những ngày đầu tiên của năm học mới,
sau khi sắp xếp chỗ ngồi, tôi cho học sinh tự làm quen, tự
tìm hiểu nhau về tên, tuổi, sở thích một cách thoải mái. Qua
đó các em sẽ tự tìm thấy người bạn phù hợp, thân thiết của
mình, giúp các em cảm thấy vui, mạnh dạn hơn mỗi khi đến
lớp. Phối hợp với Đoàn thanh niên và Đội thiếu niên, tôi
thành lập Câu lạc bộ “Đôi bạn học tập cùng tiến bộ". Tôi
phân công nhiệm vụ cụ thể và có phần thưởng vào cuối tuần
đối với đôi bạn có tiến bộ: đọc bài to, viết chữ đẹp, làm toán
nhanh.
Mỗi ngày trước tiết học tôi luôn phân công hai bạn cạnh
nhau kiểm tra bài của nhau. Tôi nhờ các bạn kèm cặp cặp
những bạn tiếp thu bài chậm mọi lúc, mọi tiết học và tôi luôn
nhận được kết quả khả quan khi tôi kiểm tra lại. Tôi luôn tạo
mọi điều kiện để các học sinh cùng học, cùng chơi, cùng sinh
hoạt với nhau ở mọi lúc mọi nơi, tạo sự thân thiện , gần gũi ,
giúp các em tiến bộ trong từng ngày, từng giờ.

* Tổ chức hình thức và phương pháp dạy học phong
phú, đa dạng:


Trong dạy học, tôi luôn vận dụng các hình thức, phương
pháp dạy học sao cho đảm bảo mọi đối tượng học sinh của
lớp đều được tham gia. Thường xuyên cập nhật thông tin về
tình hình học tập, tình hình sức khỏe và những biến đổi bất
thường của học sinh để kịp thời thông báo cho phụ huynh
cùng tìm cách giải quyết những khó khăn.
+ Tạo mối tương tác trong nhóm nhỏ (2 – 4 HS):
Tôi xếp học sinh nhút nhát thụ động, ngồi chung với
học sinh lanh lợi nhằm tạo sự hổ trợ cùng học tập, xóa dần
khoảng cách với bạn bè, tạo sự thân thiện và cũng như
trách nhiệm cụ thể. Từ đó nhen nhóm tinh thần học tập
tích cực hơn.
+ Tạo tinh thần thi đua giữa các tổ:
Ở bất cứ môn học nào, tôi luôn tổ chức trò chơi thi đua
giữa các tổ và đây chính là động lực giúp các em đoàn kết,
hỗ trợ nhau, khuyến khích nhau cùng tham gia để chiến
thắng. Những học sinh nhút nhát luôn được tạo điều kiện
tham gia trò chơi, trình bày ý kiến của mình trước tổ.
+ Luôn khuyến khích, tuyên dương, khen thưởng kịp
thời:
Khi nêu các câu hỏi hay các bài tập thực hành tôi luôn
chú ý có các câu hỏi và bài tập mức độ dễ cho từng đối
tượng học sinh của lớp, thường xuyên động viên học sinh giơ
tay phát biểu trả lời câu hỏi của cô, khuyến khích học sinh
lên bảng làm bài hay nêu nội dung tranh. Đầu tiên, tôi nêu
những câu hỏi dễ trước , để em nào cũng có thể trả lời được,

sau đó tôi mới nâng cao dần . Mỗi lần học sinh phát biểu tôi
đều khích lệ bằng những tràng vỗ tay lớn ..
Nếu tự học sinh thực hiện được yêu cầu của cô thì luôn
luôn có một bông hoa việc tốt cho học sinh và được cắm vào
vườn hoa việc tốt sau mỗi tiết. Việc làm này tạo cho các em
vô cùng hứng thú học tập.
Khi học sinh phát biểu hoặc có biểu hiện tiến bộ trong
học tập, tôi luôn nêu gương hàng ngày, hàng tuần trước lớp,
khen học sinh trước phụ huynh và tuyên dương vào trong sổ
liên lạc điện tử của các em để khuyến khích sự tiến bộ của
các em.
* Xây dựng kế hoạch thông tin hai chiều giữa giáo viên
chủ nhiệm và phụ huynh học sinh:


Trong mỗi cuộc họp phụ huynh, tôi thường nêu qua nội
dung chương trình học của lớp, gợi ý giúp đỡ cho học sinh
học ở nhà, cách giúp học sinh tự soạn bài, tự ôn bài ở nhà và
yêu cầu phụ huynh không làm thay mà chỉ hướng dẫn hoặc
cùng làm cho đến khi nào thấy con tự làm tốt. Tôi còn cho
phụ huynh nắm nội quy trường lớp, những nhiệm vụ mà học
sinh cần thực hiện được trong năm học. Trong đó vấn đề an
toàn sức khỏe của học sinh, vệ sinh cá nhân, vệ sinh trường
lớp tôi nhờ phụ huynh đặc biệt kiểm tra, nhắc nhở, giáo dục
các cháu mỗi ngày.
* Xây dựng nề nếp lớp tốt:
Kết hợp với Tổng phụ trách, Cờ đỏ, ban cán sự lớp xây
dựng nề nếp và ý thức xếp hàng ra vào lớp, giữ vệ sinh
trường lớp, tham gia các phong trào của trường. Tôi từng
bước hướng dẫn, xây dựng nề nếp học tập ở lớp thật tốt theo

phương châm “Nề nếp tốt, học tập tốt”.
* Thực hiện chỉ đạo của Ban giám hiệu nhà trường:
Trong chuyên môn Ban giám hiệu nhà trường chỉ đạo
sát sao . Việc giúp học sinh học tập tiếp thu còn chậm, chưa
hoàn thành bài học cũng là mối quan tâm hàng đầu của Ban
giám hiệu nhà trường. Do vậy, tôi thường xuyên thông báo
cụ thể tình hình các đối tượng học sinh ngay từ đầu năm học
cũng như quá trình rèn học sinh có sự tiến bộ theo hàng
tháng cho Ban giám hiệu nắm bắt để có phương án chỉ đạo
cụ thể.
* Kiểm tra - Đánh giá việc học tập của học sinh:
Việc theo dõi, kiểm tra, động viên thường xuyên
nhằm giúp giáo viên nắm được sự tiến bộ của học sinh
nhằm có hướng phát huy hoặc tiếp tục tìm biện pháp khắc
phục. Thông thường, việc kiểm tra, động viên học sinh được
thực hiện theo hai thời điểm: trong các tiết học và vào cuối
tuần - vào giờ sinh hoạt tập thể, học sinh sẽ tổng kết những
bông hoa làm việc tốt, bông hoa vở sạch chữ đẹp giữa các
tổ. Mỗi tháng, giáo viên sẽ tổng kết, tuyên dương những học
sinh tiến bộ, đôi bạn học tập cùng tiến bộ của lớp.
Tóm lại, để giúp học sinh học còn chậm tiến bộ giáo
viên không chỉ kèm cặp, phụ đạo thêm trong và ngoài giờ
học mà còn cần giúp học sinh có niềm tin, động lực học tập


bằng các hình thức, phương pháp học ở lớp nhằm khuyến
khích, khơi gợi khả năng học tập ở học sinh qua các hoạt
động học ở lớp.
4. Kiểm nghiệm:
Qua một số năm giảng dạy, tôi đã vận dụng các biện

pháp trên và đã có hiệu quả. Năm học 2013 - 2014, được
phân công chủ nhiệm lớp 2D tôi đã vận dụng biện pháp đó
và đã thu được kết quả khả quan trong học kì 1 vừa qua. Có
được những thành quả của như trên là do học sinh đã nỗ lực
cố gắng; sự giúp đỡ từ phía cha mẹ học sinh và được sự quan
tâm của các tổ chức đoàn thể trong nhà trường như Đoàn
Thanh niên, Đội Thiếu niên và đặc biệt là sự lãnh chỉ đạo sát
sao của Ban giám hiệu nhà trường. Tôi nhận thấy rằng:
Phụ huynh đã thống nhất với giáo viên cách hướng
dẫn học cũng như cách giáo dục con em mình ở nhà. Phụ
huynh đã tạo điều kiện hỗ trợ giáo viên rất nhiều trong việc
kèm cặp học sinh học tập tiến bộ .
Học sinh đã tiến bộ rất nhiều về mọi mặt, linh hoạt, tự
tin, mạnh dạn và có những kiến thức cơ bản vững chắc để
tiếp tục học ở các lớp trên.
Trong giờ học, các em đã mạnh dạn xung phong phát
biểu xây dựng bài tích cực hơn. Không còn học sinh ngại học,
đã đọc bài to, chữ viết rõ ràng, mạch lạc, làm toán tiến bộ
hơn.
Học sinh trong lớp có tinh thần hỗ trợ, đoàn kết cùng
giúp bạn học tập tốt. Chữ viết của học sinh trong lớp tôi tiến
bộ, số lượng xếp loại C giảm dần. Số lượng học sinh viết chữ
đẹp tăng lên. Tỉ lệ học sinh hoàn thành và hoàn thành tốt
tăng lên rõ rệt .
Bản thân giáo viên tạo được niềm tin ở phụ huynh, sự
an tâm cho Ban giám hiệu và hơn nữa là hoàn thành tốt
nhiệm vụ của một người giáo viên.
* Bằng tất cả nỗ lực của tập thể học sinh lớp, của phụ
huynh và đặc biệt là công tác chỉ đạo của Ban giám hiệu nhà
trường - và có thể khẳng định rằng nếu không có sự tận tâm,

tận lực hết mình của giáo viên thì chắc chắn sẽ không có kết
quả như ngày hôm nay được, đó là: những học sinh học tiếp
thu bài chậm đã tiến bộ nhiều so với đầu năm, không còn
đọc bài chậm, làm toán nhanh hơn, viết chữ cẩn thận hơn,


ham thích đến trường. Tôi thiết nghĩ một giáo viên giỏi
chuyên môn nghiệp vụ là chưa đủ mà phải có lương tâm,
trách nhiệm với việc biết sẻ chia, biết thông cảm, biết quan
tâm đến mọi quan hệ xã hội. Đặc biệt coi học sinh như con
em của mình.
Có thể minh chứng cụ thể về hai môn: Toán và Tiếng
Việt qua bảng số liệu sau:
Lớp chủ nhiệm: 2D

số
25

Môn

Thời điểm

Toán

Cuối học kì
1

Hoàn thành
Số
Tỷ lệ

lượng
25

100

Chưa hoàn thành
Số lượng

Tỷ lệ

0

0

Tiếng
24
96
1
4
Cuối học kì
Việt
1
Từ bảng số liệu trên và qua kinh nghiệm thực tế
giảng dạy tôi rút ra được một số bài học sau đây:
* Quá trình giúp đỡ học sinh tiếp thu bài chậm có tiến
bộ đòi hỏi giáo viên phải đầu tư nhiều về thời gian, cần phải
có sự kiên trì, nhẫn nại, phải có cái tâm của một nhà giáo và
nhất là không được nóng vội trong quá trình kèm cặp giúp đỡ
các em tiến bộ. Khi thực hiện các biện pháp trên cần phải
thực hiện nghiêm túc, triệt để thì mới có hiệu quả..

* Trong các giờ lên lớp, giáo viên phải chuẩn bị chu
đáo các hoạt động, các đồ dùng dạy học và phương pháp
dạy học đa dạng, phong phú để lôi cuốn và hấp dẫn học
sinh.
* Cần có sự phối hợp, hỗ trợ của phụ huynh trong việc
đưa đón, nhắc nhở học sinh ở nhà và quan trọng hơn tất cả
là sự tự vận động của các em. Do vậy, giáo viên cần khuyến
khích sự ham muốn học tập ở các em trong mỗi ngày đến
trường. Tạo sự gần gũi thân thiện, các em thấy thích đến
trường: Mỗi ngày đến trường là một ngày vui .
Công tác chủ nhiệm lớp của giáo viên tiểu học là công
việc hàng ngày xuyên suốt từ đầu năm học đến cuối năm
học. Đây là công việc đòi hỏi sự kiên trì, nhẫn nại, chịu
25


thương, chịu khó. Người giáo viên trong thời đại mới cần có
tâm với nghề - có trách nhiệm với tương lai của học sinh luôn trau dồi chuyên môn nghiệp vụ.
III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT:
1. Kết luận:
Công tác chủ nhiệm lớp là công việc cần thiết và là
trách nhiệm của mỗi người giáo viên. Không phải tự nhiên
mà học sinh học tập tiến bộ nếu không có sự vun đắp, rèn
luyện không mệt mỏi của nhà trường, của gia đình và đặc
biệt là của người giáo viên chủ nhiệm lớp. Không chỉ tìm tòi,
sáng tạo trong giảng dạy để lôi cuốn học sinh, điều quan
trọng không kém là chính bản thân của người giáo viên trước
hết phải là một người có lòng yêu nghề, “sống có trách
nhiệm”, xem học sinh như con, em của mình và nhiệt huyết
hết sức để giảng dạy có hiệu quả. Người giáo viên không chỉ

với vai trò là người truyền thụ kiến thức cho học sinh mà còn
là như người mẹ, người chị và đôi lúc còn là người bạn của
các em. Để các em có niềm tin vào những người "lái đò đưa
các em đến bến bờ của tri thức".
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ trong công tác chủ
nhiệm mà tôi đã đúc rút được trong những năm công tác vừa
qua. Tôi mạnh dạn đưa ra coi đây là kinh nghiệm, hành trang
phục vụ cho mình ở những năm công tác tiếp theo.
Mặc dù khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm, bản thân
đã cố gắng rất nhiều song không thể tránh khỏi những khiếm
khuyết. Kính mong nhận được sự giúp đỡ của các cấp lãnh
đạo, các đồng chí, đồng nghiệp để Sáng kiến kinh nghiệm
của tôi ngày càng hoàn thiện hơn .
Tôi xin trân trọng cảm ơn !
2. Đề xuất:
- Đối với nhà trường: Tổ chức nhiều hơn nữa chương
trình ngoại khoá ở nhà trường, địa phương, tạo điều kiện để
giáo viên – học sinh được giao lưu gần gũi nhiều hơn nữa.
- Đối với phụ huynh: Cần quan tâm tạo điều kiện, dành
thời gian chăm sóc các em cả về tinh thần, điều kiện học
tập, sinh hoạt để các em học tập tốt hơn.
- Đối với chính quyền địa phương và các tổ chức đoàn
thể : Cần phối hợp chặt chẽ hơn để giáo dục kết hợp Gia đình
– Nhà trường – Xã hội ngày càng hiệu quả .


Xác nhận
trưởng

của


Hiệu

Thị Trấn, ngày 22 tháng 3 năm 2015
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình,
không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết sáng kiến
Lê Thị Ngọc

MỤC LỤC


Nội
dung
g số

Tran

A.
ĐẶT
VẤN
ĐỀ: ......................................................................
01
B.
GIẢI
QUYẾT
VẤN
ĐỀ: .......................................................
02

1.

sở

luân
của
vấn
đề: ......................................................
02
2.
Thực
trạng
của
vấn
đề: ........................................................
04
3.
Giải
pháp

tổ
chức
thực
hiện:..........................................
04
3.1. Các giải
pháp: ....................................................................
04
3.1.1. Tìm hiểu tình hình của
lớp: .............................................

05
3.1.2. Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến việc học sinh
học yếu: ...
05
3.2. Các biện pháp để tổ chức thực
hiện: ................................
06
3.2.1.
Về
phía
gia
đình
học
sinh: ..............................................
06
3.2.2.
Đối
với
giáo
viên
chủ
nhiệm: ..........................................
08
3.2.2.1. Quan tâm tận tình với mọi đối tượng học
sinh: ..........
08
3.2.2.2. Thực hiện tốt công tác chủ nhiệm:
............................
11
4. Kiểm

nghiệm: .....................................................................
14
C.
KẾT
LUẬN

ĐỀ
XUẤT: .............................................
17
1.
Kết
luận:
.............................................................................
17


2. Đề
xuất: ..............................................................................
.
17
2.1. Đối với các cấp quản
lí: ...................................................
17
2.2. Đối với tổ chức Đoàn Đội: ............................................
17
2.3. Đối với phụ huynh học
sinh: ...........................................
18
2.4. Đối với chính quyền địa phương: ..................
................

18



×