Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2014 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.71 KB, 34 trang )

1.Cơ sở lý luận...........................................................................................................3
1.1.Khái quát về NHTM.........................................................................................3
1.2.Đặc điểm của NHTM.......................................................................................4
1.3.Vai trò của NHTM............................................................................................5
1.4.Các loại hình NHTM........................................................................................7
1.5.Các hoạt động của NHTM...............................................................................7
1.6.Kinh nghiệm quốc tế về việc xây dựng hệ thống NHTM................................8
2.Thực trạng hoạt động của NHTM tại Việt Nam....................................................10
2.1Các văn bản pháp lý về hoạt động của NHTM...............................................10
2.2Hoạt động........................................................................................................12
2.2.1.Tổng tài sản.............................................................................................12
2.2.2.Vốn điều lệ, vốn tự có.............................................................................13
2.2.3.Diễn biến lãi suất huy động, cho vay......................................................15
2.2.4.Tăng trưởng tín dụng và tình hình nợ xấu...............................................19
2.2.5.Tăng trưởng lãi thuần..............................................................................21
2.2.6.Sự giao thoa giữa các NHTM và Công ty Bảo Hiểm..............................24
2.3Đánh giá tình hình hoạt động NHTM.............................................................25
2.3.1.Kết quả khả quan, tích cực......................................................................25
2.3.2.Hạn chế, tồn tại........................................................................................26
2.3.3.Nguyên nhân...........................................................................................27
3.Giải pháp khắc phục các hạn chế..........................................................................29
Tài liệu tham khảo....................................................................................................34


2

PHẦN I. MỞ ĐẦU
Ngân hàng thương mại (NHTM) đã hình thành, tồn tại và phát triển hàng trăm
năm gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hóa. Sự phát triển hệ thống NHTM
đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng
hóa, ngược lại khi nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất


là nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện.
NHTM là hệ thần kinh, trái tim của nền kinh tế, là dấu hiệu báo hiệu trạng thái
sức khoẻ của nền kinh tế. Các ngân hàng mạnh, nền kinh tế mạnh. Ngược lại, các
ngân hàng yếu, nền kinh tế sẽ yếu kém. Thậm chí nếu ngân hàng đổ vỡ nền kinh tế
sẽ lâm vào khủng hoảng và sụp đổ.
Với tư cách là tổ chức trung gian tài chính nhận tiền gửi và tiến hành các hoạt
động cho vay và đầu tư. NHTM đã thâm nhập vào mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội
như là người mở đường, người tham gia, người quyết định đối với mọi quá trình
sản xuất kinh doanh. NHTM ngày càng đóng vai trò là trung tâm tiền tệ, tín dụng
và thanh toán của các thành phần kinh tế, là định chế tài chính quan trọng nhất của
nền kinh tế.
Nhất là tại các nước đang phát triển như Việt Nam, NHTM thực sự đóng vai
trò rất quan trọng vì nó đảm nhận vai trò giữ cho mạch máu (dòng vốn) của nền
kinh tế được lưu thông và góp phần bôi trơn cho hoạt động của nền kinh tế thị
trường non yếu. Đặc biệt trong những năm qua, hoạt động của ngân hàng nước ta
đã góp phần tích cực huy động vốn, mở rộng vốn đầu tư cho lĩnh vực sản xuất phát
triển, tạo điều kiện thu hút vốn nước ngoài để tăng trưởng kinh tế trong nước. Hệ
thống NHTM xứng đáng là công cụ hỗ trợ đắc lực cho nhà nước đẩy lùi lạm phát,
ổn định giá cả.


3

PHẦN II. NỘI DUNG

1.

Cơ sở lý luận

1.1.


Khái quát về NHTM
NHTM là tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các

hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận theo quy định của
Luật các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật.
(Theo điều 4, Luật các Tổ chức tín dụng Số 47/2010/QH12)
Các chức năng của NHTM
Chức năng làm thủ quỹ cho xã hội
Thực hiện chức năng này NHTM nhận tiền gửi của công chúng, các doanh
nghiệp, các tổ chức, giữ tiền cho khách hàng của mình, đáp ứng nhu cầu rút tiền và
chi tiền của họ. Đối với khách hàng thông qua việc gửi tiền vào ngân hàng họ
không những được đảm bảo an toàn về tài sản mà còn thu được một khoản lợi tức
từ ngân hàng. Đối với ngân hàng nó là cơ sở để thực hiện chức năng trung gian
thanh toán đồng thời tạo nguồn vốn chủ yếu cho NHTM thực hiện chức năng trung
gian tín dụng.
Chức năng trung gian tín dụng
Đây được xem là chức năng cơ bản nhất của NHTM. Khi thực hiện chức năng
trung gian tín dụng, NHTM là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về
vốn, vừa là người đi vay, vừa là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh
lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay, góp phần tạo lợi ích cho tất cả các
bên tham gia. Cho vay luôn là hoạt động quan trọng nhất của NHTM, nó mang đến
lợi nhuận lớn nhất cho NHTM.


4
Chức năng trung gian thanh toán
NHTM thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ
tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài
khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh

của họ.Các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ
nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa. Do vậy sẽ tiết kiệm được rất nhiều
chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này vô hình trung đã
thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn,
từ đó góp phần phát triển kinh tế.
Chức năng tạo tiền
Kết hợp giữa chức năng trung gian thanh toán và chức năng trung gian tín
dụng làm cho hệ thống NHTM có khả năng tạo tiền. Thông qua chức năng trung
gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay
ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số
dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận
của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với
chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền
kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. NHTM tạo tiền phụ thuộc
vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc của NHTW đã áp dụng đối với NHTM. Do vậy NHTW có
thể tăng tỉ lệ này khi lượng cung tiền vào nền kinh tế lớn.
1.2.

Đặc điểm của NHTM
Là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ vì mục tiêu lợi

nhuận
Có quy mô lớn, hệ số nợ rất cao và cấu trúc tài sản đặc biệt. Ở Việt Nam,
vốn chủ sở hữu của các NHTM là hàng nghìn tỷ đồng, mạng lưới các chi nhánh
thường rất lớn và phân tán rộng về địa lý. Nguồn vốn của NHTM chủ yếu là nợ


5
được huy động từ bên ngoài Ngân hàng. Phần lớn tài sản của NHTM là tài sản tài
chính, mang đặc trưng trừu tượng, hình thái vật chất giản đơn chỉ là giấy tờ hoặc

thậm chí chỉ là dữ liệu điện tử.
Hoạt động của NHTM luôn chứa đựng nhiều rủi ro và chịu sự kiểm soát,
giám sát chặt chẽ của hệ thống luật pháp. Hệ số nợ cao sẽ dẫn đến rủi ro trong hoạt
động cũng cao. Bên cạnh đó, nguồn vốn nợ chủ yếu của NHTM lại là tiền gửi với
đặc trưng có thể bị rút ra trước hạn với khối lượng khó xác định. Rủi ro trong hoạt
động của NHTM đa dạng, ở mức độ cao, tích luỹ nhanh và dễ lây lan: rủi ro tín
dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro vốn khả dụng, rủi ro
đạo đức,…
Tính liên kết và ổn định của hệ thống Ngân hàng. Hoạt động như một hệ
thống các mắt xích liên kết chặt chẽ, chỉ cần một NHTM, dù yếu và nhỏ nhất, gặp
khó khăn trong hoạt động, đặc biệt là về thanh khoản, là có thể dẫn đến nguy cơ
phá sập cả hệ thống. Hệ thống Ngân hàng – tài chính trong nền kinh tế rất nhạy
cảm với mọi biến động về kinh tế, kỹ thuật, chính trị xã hội. Những biến động này
thường có tác động gần như tức thời đến hoạt động của thị trường tài chính, điển
hình là thị trường chứng khoán, theo đó, nó gây ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động
của hệ thống Ngân hàng.
1.3.

Vai trò của NHTM

NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế:
Trong thực tế, các doanh nghiệp muốn phát triển kinh tế thì phải cần có
lượng vốn đủ lớn để đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như những
hoạt động khác. Khó khăn của các đơn vi kinh tế là họ không thể tự đứng ra để tập
trung mọi khoản tiền nhàn rỗi để cung ứng kịp thời cho nhu cầu vốn thiết yếu.
NHTM, thông qua hoạt động tín dụng, đã huy động được mọi nguồn lực trong xã
hội để cung ứng vốn kịp thời cho hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp. Nhờ đó,


6

các cá nhân cũng như tổ chức kinh tế có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến công
nghệ, năng suất lao động tăng lên, nâng cao được chất lượng sản phẩm cũng như
hiệu quả kinh tế.
NHTM là cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường:
Tín dụng ngân hàng còn cung cấp một phần vốn không nhỏ trong việc tăng
cường nguồn vốn lưu động của các doanh nghiệp - vấn đề luôn là mối lo thường
trực của các doanh nghiệp. Một khía cạnh khác đòi hỏi sự có mặt của tín dụng ngân
hàng đối với doanh nghiệp là một ngân quỹ để dành cho việc đào tạo đội ngũ lao
động phù hợp với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật - công nghệ cao. Đặc biệt
trong điều kiện nước ta vẫn còn thiếu nhiều những chuyên gia đầu ngành, những
cán bộ có năng lực và những công nhân lành nghề.
NHTM là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế:
Nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường thông qua hoạt
động tín dụng và thanh toán giữa các NHTM trong hệ thống, từ đó góp phần mở
rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Thông qua việc cung ứng tín dụng
cho các ngành trong nền kinh tế, NHTM thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập
hợp, phân chia và điều khiển vốn một cách có hiệu quả.
NHTM là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế:
Một trong những điều kiện quan trọng góp phần thúc đẩy sự hội nhập nền kinh
tế quốc gia với nền kinh tế thế giới là nền tài chính quốc gia. Nền tài chính quốc gia
kết nối với nền tài chính quốc tế thông qua hoạt động của NHTM trong các lĩnh
vực kinh doanh ( nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán, ngoại hối…). Đặc
biệt là các hoạt động thanh toán quốc tế, buôn bán ngoại hối, quan hệ tín dụng với
ngân hàng Nhà nước đã trực tiếp hoặc gián tiếp tác động góp phần thúc đẩy hoạt
động thanh toán xuất nhập khẩu và thông qua đó, NHTM đã thực hiện vai trò điều
tiết tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế.


7


1.4.

Các loại hình NHTM
NHTM Nhà nước: là NHTM trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều

lệ. Bao gồm NHTM do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ và NHTM cổ phần do
Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ.
NHTM cổ phần:là NHTM được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần.
NHTM liên doanh:là NHTM được thành lập tại Việt Nam, bằng vốn góp của
bên Việt Nam (gồm một hoặc nhiều ngân hàng Việt Nam) và bên nước ngoài (gồm
một hoặc nhiều ngân hàng nước ngoài) trên cơ sở hợp đồng liên doanh. NHTM liên
doanh được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn từ hai thành viên
trở lên, là pháp nhân Việt Nam, có trụ sở chính tại Việt Nam.
NHTM 100% vốn nước ngoài: là NHTM được thành lập tại Việt Nam với
100% vốn điều lệ thuộc sở hữu nước ngoài; trong đó phải có một ngân hàng nước
ngoài sở hữu trên 50% vốn điều lệ (ngân hàng mẹ). NHTM 100% vốn nước ngoài
được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc từ
hai thành viên trở lên, là pháp nhân Việt Nam, có trụ sở chính tại Việt Nam.
1.5.

Các hoạt động của NHTM
NHTM hoạt động dựa trên những quy định cụ thể (về phạm vi, loại hình, nội

dung hoạt động) trong Giấy phép mà Ngân hàng Nhà nước cấp, thực hiện theo
hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
1. Hoạt động ngân hàng của NHTM
Nhận tiền gửi
Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy động vốn trong
nước và nước ngoài.
Cấp tín dụng

Mở tài khoản thanh toán cho khách hàng.


8
Cung ứng các phương tiện và dịch vụ thanh toán.
2. Vay vốn của Ngân hàng Nhà nước
3. Vay vốn của tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính
4. Mở tài khoản
5. Tổ chức và tham gia các hệ thống thanh toán
6. Góp vốn, mua cổ phần
7. Tham gia thị trường tiền tệ
8. Kinh doanh, cung ứng dịch vụ ngoại hối và sản phẩm phái sinh
9. Nghiệp vụ ủy thác và đại lý
10. Các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng thương mại: quản lý tiền mặt;
tư vấn ngân hàng, tài chính; bảo quản tài sản, cho thuê tủ, két an toàn; mua, bán trái
phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp; lưu ký chứng khoán, kinh doanh vàng ...
1.6.

Kinh nghiệm quốc tế về việc xây dựng hệ thống NHTM
Một số ngân hàng lớn trên thế giới với dịch vụ phát triển và có chi nhánh tại

Việt Nam: Ngân hàng CitiBank - Mỹ, Ngân hàng HSBC - Anh, Ngân hàng ANZ –
Australia. Những nước này có hệ thống NHTM phát triển là do:
Thứ nhất, hệ thống NHTM được sắp xếp tổ chức hợp lý, đảm bảo cho NHTM
trong nền kinh tế hoạt động theo pháp luật, phục vụ tốt nhất cho yêu cầu phát triển
của ngành NH và của nền kinh tế.
Thứ hai, hệ thống NHTM với nhiều hình thức sở hữu hoạt động kinh doanh ở
từng địa phương đến các vùng kinh tế với cách phân bổ hợp lý về hội sở, chi nhánh
và các phòng giao dịch.
Thứ ba, hoạt động kinh doanh của NHTM có sự phân tầng, có các NHTM

mạnh đủ sức cạnh tranh với các NHTM trong khu vực và trên thế giới, đồng thời
cũng có các NHTM ở mức trung bình làm chức năng kinh doanh tiền tệ - tín dụng
trong nền kinh tế.


9
Thứ tư, mỗi NHTM hoạt động kinh doanh phải có nguồn tài chính vững chắc,
sẵn sàng hội nhập với hệ thống NHTM các nước trong khu vực và trên thế giới.
Lấy ví dụ về Mỹ- một trong những trung tâm tài chính phát triển nhất thế
giới. Về nguyên tắc, việc tăng vốn điều lệ cho phép các ngân hàng đầu tư thêm về
công nghệ, cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, mở rộng thêm mạng lưới và quy mô
hoạt động. Nghĩa là kỳ vọng về doanh thu và lợi nhuận sẽ lớn hơn. Nhưng tăng vốn
không có nghĩa là an toàn, mở rộng quy mô hoạt động cũng không đồng nghĩa kinh
doanh hiệu quả hơn. Trong một số trường hợp, việc duy trì quy mô nhỏ sẽ bền vững
hơn, chẳng hạn như ở Mỹ.
Ngân hàng First Vietnamese American lập ra vào năm 2005 ở Mỹ chỉ có số
vốn 15 triệu USD nhưng vẫn cạnh tranh được với Bank of America hay Wells
Fargo ở địa phương. Đó là nhờ có Tập đoàn Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang Mỹ
(FDIC) bảo hiểm cho tất cả các ngân hàng hoạt động ở Mỹ. Thành ra người dân bỏ
tiền vào một ngân hàng nhỏ xíu trong một làng cũng được bảo hiểm y như khi gửi
ở một ngân hàng lớn tại New York.
Mỹ hỗ trợ công bằng cho cả ngân hàng nhỏ do đó, các ngân hàng địa phương
không hề lo thiếu vốn. Mỹ khuyến khích ngân hàng đi vào cộng đồng nhỏ để phục
vụ, tăng hiệu quả nhờ cạnh tranh. Các ngân hàng lớn thường chỉ quan tâm đến
khách hàng lớn. Bởi vậy mà có lẽ các ngân hàng ở Mỹ phục vụ đến 80% dân cư,
còn ngân hàng ở Việt Nam chỉ phục vụ được khoảng 20%. Theo FDIC, trung bình
từ 2007-2011, có hơn 78,2% số NHTM tại Mỹ chỉ hoạt động ở một địa phương
nhất định. Việt Nam muốn các ngân hàng nội địa mạnh thì cần phát triển thị trường
tài chính, chứ không đơn giản là yêu cầu họ tăng vốn.
Sau cuộc đại khủng hoảng 2008, Chính phủ Mỹ đã phải can thiệp trực tiếp đến

hệ thống tài chính bằng những chính sách quyết liệt như bơm tiền, hạ lãi vay, mua
trái phiếu, sáp nhập ngân hàng, quốc hữu hóa ngân hàng.


10
Rủi ro hệ thống ngân hàng Việt nam không đến từ các ngân hàng có quy mô
lớn mà đến từ những ngân hàng nhỏ, dễ bị rủi ro thanh khoản và gây rủi ro lan
truyền cho toàn hệ thống. Phương pháp tái cấu trúc ngân hàng lâm vào tình trạng
khủng hoảng cũng được NHNN áp dụng giống như một vài cách mà Cục dự trữ
liên bang Mỹ đã làm. Quốc hữu hóa những ngân hàng yếu kém, không có khả năng
tăng vốn, không có khả năng sáp nhập là một biện pháp đúng đắn nhằm đảm bảo
giảm thiểu rủi ro cho hệ thống tài chính Việt Nam.

2.

Thực trạng hoạt động của NHTM tại Việt Nam

2.1

Các văn bản pháp lý về hoạt động của NHTM
Một số bộ luật, văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động của NHTM
• Luật các tổ chức tín dụng 2010
• Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
• Văn bản hợp nhất số 05/2015/VBHN-NHNN quy định về việc cấp giấy
phép, tổ chức,hoạt động của ngân hàng thương mại
• Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng
do Quốc hội ban hành
• Văn bản hợp nhất 26/VBHN-NHNN năm 2016 hợp nhất thông tư quy định
giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành

• Thông tư 39/2016 /TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của TCTD,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng
• Văn bản hợp nhất 43/VBHN-NHNN năm 2016 hợp nhất nghị định về thanh
toán không dùng tiền mặt do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành
• Thông tư 41/2016/TT-NHNN quy đỊnh quy định về tỷ lệ ăn toàn vốn đối với
các ngân hàng và chi nhánh nước ngoài
Nhận xét, đánh giá về khung pháp lý hiện hành:
Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã đổi mới một cách căn

bản về mô hình tổ chức, cơ chế điều hành và nghiệp vụ cũng như ngày càng hoàn


11
thiện khung pháp lý về tổ chức hoạt động của TCTD nói chung và NHTM nói
riêng. Không giống như doanh nghiệp thông thường, ngân hàng hoạt động trên cơ
sở mỗi nghiệp vụ được dựa trên nền tảng hàng loạt văn bản quy chế, quy trình, quy
định.
Các văn bản quy định nội bộ của ngân hàng lại có mối liên hệ chặt chẽ với các
văn bản pháp quy. Pháp luật có sự thay đổi, thì quy trình nội bộ của ngân hàng cũng
phải thay đổi.
Giữa các bộ luật, các văn bản pháp luật đã có tính đồng bộ, thống nhất với
nhau về quy định về hoạt động của NHTM. Mặc dù đã đề cập đến hầu như là khá
đầy đủ về các quy định về hoạt động của NHTM song bên cạnh đó vẫn tồn tại
nhiều bất cập và thiếu sót như:
Một là,chưa có chiến lược tổng thể phát triển hệ thống NHTM phù hợp với
quy mô thị trường Việt Nam.
Hai là, công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của các NHTM với vai trò là
TCTD chưa chặt chẽ, chưa kịp thời đưa ra những cảnh báo và biện pháp thực sự
quyết liệt nhằm hạn chế rủi ro và chấn chỉnh những vi phạm, yếu kém của nhiều
NHTM.

Ba là, giữa lý thuyết và việc thực hiện các quy định pháp luật của các NHTM
còn chưa có sự thống nhất, chưa thực sự thực hiện đúng theo luật.
Bốn là, các quy định về việc mua lại các NHTM với giá 0 đồng còn chưa rõ
ràng, chưa phù hợp với với các quy định chung của ngành ngân hàng trên thế giới.
Một số đề xuất hoàn thiện cơ sở pháp lý:
Một là, cần có chiến lược, định hướng cụ thể để phát triển ngành ngân hàng
một cách phù hợp với nền kinh tế nước nhà.
Hai là, hoàn thiện các quy định an toàn, các biện pháp thận trọng trong hoạt
động ngân hàng; các quy định, chính sách quản lý các loại hình tổ chức tín dụng và
hoạt động ngân hàng, đồng thời, đổi mới nội dung, phương pháp, quy trình thanh
tra, giám sát phù hợp với sự phát triển của công nghệ thông tin, công nghệ ngân
hàng và trên cơ sở áp dụng các nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng.


12
Ba là, cần đưa ra những hình phạt cụ thể và quyết liệt về pháp lý đối với tổ
chức không thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
Bốn là, cần nhanh chóng bổ sung và đưa ra các quy định về việc áp dụng luật
phá sản đối với các TCTD nói chung và NHTM nói riêng, từ đó đưa ra các quy
định về việc mua lại các NHTM với giá 0 đồng của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam.
2.2

Hoạt động

2.2.1. Tổng tài sản
Đơn vị: nghìn tỷ đồng
Chỉ tiêu
NHTM


NHTM

Tổng TS

Năm

NN

CP

thống

năm trước(%)

2014

2876,17

2781

6514,9

-

2015
2016
2017

3303
3860


2928
3420

>7300
>8500

12,35%
18,16%

4200

3720

>9250

8,79%

(31/08/2017)

toàn

hệ Tốc độ tăng so với

Từ bảng trên, có thể thấy:
Cuối năm 2014, tổng tài sản của hệ thống ngân hàng đạt 6.514,9 nghìn tỷ
đồng. Và tăng dần theo các năm cho đến nay. Tuy tổng tài sản tăng nhưng tốc độ
tăng qua các năm lại có xu hướng giảm dần từ 12,35% (2015) xuống 18,16%(2016)
và đến cuối tháng 08/2017 chỉ đạt 8,79%.
Tài sản tăng là do hoạt động tín dụng ngày càng tăng trưởng. Không những

vậy các ngân hàng ngày càng đẩy mạnh hoạt động trong nhiều lĩnh vực như dịch
vụ, mua bán chứng khoán, đầu tư ,...


13
2.2.2. Vốn điều lệ, vốn tự có

Chỉ tiêu

1.Vốn điều lệ

2.Vốn tự có

2014
2015
2016
2017
2014
2015
2016
2017

2014
toàn 2015
2016
vốntối thiểu(CAR)
2017
2014
4.Tỷ suất sinh lời 2015
2016

trên tài sản(ROA)
2017
3.Tỷ

lệ

an

Tổng

Tốc độ tăng so với

(nghìn tỷ đồng)
435,6
460
488,424
505
496,6
578
639,67
667
Đơn vị: %
12,75%
13%
12,84%
12,66%
0,51%
0,46%
0,54%
-


năm trước(%)
5,6%
6,11%
3,39%
16,4%
10,67%
4,27%(cuối tháng 03)
(cuối tháng 5)
-

Ghi chú: Mọi số liệu của năm 2017 chỉ cập nhật đến ngày 31/08/201
Cuối năm 2014, vốn tự có toàn hệ thống gần 496,6 nghìn tỷ đồng. Trong đó,
nhóm NHTM Nhà nước tăng chậm nhất, đạt 169,7 nghìn tỷ đồng. Về vốn điều lệ,
cuối năm 2014, toàn hệ thống đạt 435,6 nghìn tỷ đồng.
Tỷ suất sinh lời trên tài sản (ROA) của toàn hệ thống là 0,51%; tỷ lệ an toàn
vốn tối thiểu (CAR) của toàn hệ thống ngân hàng được ghi nhận ở mức 12,75%; Tỷ
lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn của hệ thống đến hết năm 2014 là 20,15%.
Cuối tháng 12/2015 vốn tự có của toàn hệ thống đạt 578.000 tỷ đồng, tăng
16,4% so với cuối năm 2014.Vốn điều lệ cũng tăng 344 tỷ đồng tăng khoảng 5,6%


14
lên 460.000 tỷ đồng. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của toàn hệ thống tiếp tục giữ ở
mức 13%, cao hơn quy định được Ngân hàng Nhà nước đặt ra là 9%.
Năm 2016, vốn điều lệ toàn hệ thống tổ chức tín dụng cũng tăng hơn 6% so
với năm 2015 đạt 488.424 tỷ đồng. Về tỷ lệ an toàn vốn (CAR), tất cả các nhóm tổ
chức tín dụng đều đạt yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước là trên 9%.
Đến thời điểm ngày 31/08/2017, tổng vốn điều lệ của hệ thống đạt hơn 505
nghìn tỷ đồng, tăng 3,45% so với cuối năm 2016, trong đó vốn điều lệ của nhóm

các ngân hàng cổ phần đã tăng vốn điều lệ tích cực hơn cùng kỳ năm trước khi đạt
mức tăng trưởng 2,87% so với đầu năm và đạt hơn 206,6 nghìn tỷ đồng, còn nhóm
thương mại Nhà nước vẫn vô cùng chật vật khi tổng vốn điều lệ của nhóm này tăng
chưa nổi 1% và hiện chưa đến 147,7 nghìn tỷ đồng.Vốn tự có của các ngân hàng
đạt 513 nghìn tỷ đồng. Ngoài ra, đến 31/8, CAR của toàn hệ thống mới chỉ
đạt10,46%.
Quy định tỷ lệ an toàn theo Basel II và Thông tư 41/2016/TT-NHNN về
đảm bảo an toàn tới đây:
Ngày 30/12/2016, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã công bố Thông tư
41/2016/TT-NHNN được ký ban hành quy định về tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân
hàng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Động thái giảm tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu từ mức 9% xuống mức 8% của NHNN là nhằm mở đường cho việc áp dụng
chuẩn Basel II vào hệ thống các ngân hàng, bởi theo quy định của chuẩn Basel II,
tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8%.
Thông tư này có hiệu lực từ ngày 1/1/2020, tuy nhiên, các ngân hàng có khả
năng thực hiện tỷ lệ an toàn vốn trước thời hạn này có thể gửi văn bản đăng ký áp
dụng trước.
Theo một báo cáo mới đây của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia: tỷ lệ an
toàn vốn tối thiểu của toàn hệ thống năm 2017 ước tính là 11,3%. Toàn hệ thống có


15
4/92 NHTM có tỷ lệ CAR dưới 9% và 10/118 TCTD âm vốn tự có. Nếu loại trừ các
TCTD bị âm vốn tự có thì CAR của toàn hệ thống là 12,6%. Kết quả áp dụng tiêu
chuẩn an toàn vốn theo Basel II tại 10 ngân hàng thí điểm: BIDV, VietinBank,
Vietcombank, Techcombank, ACB, VPBank, MB, Maritime Bank, Sacombank và
VIB cho thấy hệ số CAR giảm mạnh so với số báo cáo hiện tại, chủ yếu do tài sản
có quy đổi rủi ro tăng.
Đối với 4 ngân hàng thương mại có vốn Nhà nước (Agribank, Vietinbank,
Vietcombank, BIDV), tỷ lệ CAR theo báo cáo hiện tại đã gần tiệm cận mức 9%.

Nếu hệ thống áp dụng Basel II, tỷ lệ này còn giảm xuống dưới 8%.
Nếu trong thời gian tới nhóm NHTM NN không tăng được vốn, trong khi
phải đảm bảo CAR tối thiểu thì sẽ tác động mạnh tới kế hoạch tăng trưởng tín dụng
của nhóm cũng như tăng trưởng tín dụng toàn ngành, từ đó tác động đến tăng
trưởng kinh tế giai đoạn 2016-2020 do đây là nhóm có vai trò quan trọng và mức
độ ảnh hưởng đến toàn hệ thống TCTD.
2.2.3. Diễn biến lãi suất huy động, cho vay
Năm 2014 NHNN đã thực hiện 2 lần điều chỉnh trần lãi suất huy động vốn đối
với tiền gửi VNĐ kỳ hạn 1-6 tháng từ mức 7% cuối năm 2013 xuống còn 5,5%
cuối năm 2014. Lãi suất huy động bằng VND phổ biến ở mức 0,8-1%/năm đối với
tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 5-5,5%/năm đối với tiền gửi có
kỳ hạn 1 tháng đến dưới 6 tháng; 5,7-6,8%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6
tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn trên 12 tháng ở mức 6,8-7,5%/năm.
Lãi suất huy động giảm đã tạo điều kiện để lãi suất cho vay giảm theo. So với
năm 2013, lãi suất cho vay VNĐ giảm từ 2,5% đối với kỳ hạn ngắn, và từ 2-3% đối
với trung dài hạn. Tại thời điểm cuối năm, lãi suất cho vay phổ biến đối với các
lĩnh vực ưu tiên ở mức 7%/năm đối với ngắn hạn, 9-10%/năm đối với trung và dài


16
hạn. Còn với các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường, lãi suất ở mức 79%/năm đối với ngắn hạn, 9,5-11%/năm đối với trung và dài hạn.
Mặt bằng lãi suất huy động USD cũng giảm nhẹ. Huy động USD từ dân cư
giảm 0,5% xuống mức 0,75%/năm, huy động USD từ tổ chức giữ ở mức thấp
0,25%/năm.
Năm 2015, lãi suất huy động bằng VNĐ giảm nhẹ với mức giảm từ 0,1-0,5%
tuỳ từng kỳ hạn. Trần lãi suất huy động kỳ hạn duới 6 tháng ở mức 5,5% cũng được
NHNN duy trì trong cả năm, cho thấy mặt bằng lãi suất đã ở điểm đáy khi chênh
lệch cung - cầu vốn ngày càng tăng khiến thanh khoản của các ngân hàng không
còn duy trì dồi dào như trước.
Mặt bằng lãi suất cho vay cũng tiếp tục giảm nhẹ so với năm 2014. Lãi suất

cho vay phổ biến đối với các lĩnh vực ưu tiên về cơ bản giữ nguyên ở mức 67%/năm đối với ngắn hạn, còn đối với trung và dài hạn ở mức 9-10%/năm tại các
NHTM nhà nước và cao hơn khoảng 0,5-1% tại các Ngân hàng TMCP. Lãi suất cho
vay các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường giảmnhẹ 0,2-0,5%, ở mức 6,89%/năm đối với ngắn hạn, 9,3-11%/năm đối với trung và dài hạn.
Cũng trong năm 2015, NHNN đã quyết định hạ mức lãi suất huy động USD
của cá nhân từ 0,75%/năm xuống còn 0,25%/năm và tiếp tục xuống 0%/năm, và
của tổ chức từ 0,25% xuống 0%/năm. Mục tiêu của chính sách này là để ngăn chặn
tình trạng nắm giữ ngoại tệ, chuyển từ quan hệ huy động – cho vay bằng ngoại tệ
sang quan hệ mua – bán bằng ngoại tệ, và giảm sức ép về tỷ giá trong bối cảnh
đồng nhân dân tệ phá giá và Fed có khả năng sẽ tăng lãi suất 4 lần trong năm
2016.Trong khi đó, lãi suất cho vay USD tương đối ổn định so với năm 2014, phổ
biến ở mức 3-6,7%/năm. Trong đó, lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 35,5%/năm, cho vay trung và dài hạn phổ biến ở mức 5,5-6,7%/năm.
Năm 2016 so với năm 2015, lãi suất huy động tăng khoảng 0,5-1% ở các kỳ
hạn dài trên 12 tháng. Một phần nguyên nhân là do các ngân hàng đang cạnh tranh


17
về nguồn vốn huy động trung dài hạn để đáp ứng Thông tư 06 yêu cầu tỷ lệ VNH
cho vay TDH hạ từ mức 60% trong năm 2016 xuống còn 50% trong năm 2017. Lãi
suất có hai đợt điều chỉnh tương đối rõ vào Quý I và cuối Quý IV. Đến cuối năm,
lãi suất huy động các kỳ hạn ngắn dưới 6 tháng phổ biến trong khoảng 4,55,4%/năm, từ 6 tháng đến dưới 12 tháng trong khoảng 5,4-6,5%/năm, từ 12 tháng
trở lên trong khoảng 6,4-7,2%/năm.
Trong khi đó, mặt bằng lãi suất cho vay VNĐ khá ổn định và ít biến động. Lãi
suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên giữ nguyên so năm 2014, ở mức 67%/năm đối với ngắn hạn và 9-10%/năm đối với trung và dài hạn. Lãi suất cho vay
các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường giảm nhẹ khoảng 0,2%/năm, xuống
mức 6,8-9%/năm đối với ngắn hạn, và 9,3- 11%/năm đối với trung và dài hạn. Đối
với nhóm khách hàng tốt, tình hình tài chính lành mạnh, minh bạch, lãi suất cho
vay có thể từ 4-5%/năm.
Lãi suất huy động USD tiếp tục được giữ nguyên ở mức 0%, lãi suất cho vay
USD tiếp diễn xu hướng giảm nhẹ. Hoạt động cho vay bằng ngoại tệ tiếp tục được
kiểm soát chặt chẽ, giảm từ 0,2-0,5%/năm tùy từng kỳ hạn, nhưng các ngân hàng

được xem xét cho khách hàng vay vốn bằng ngoại tệ để thực hiện phương án sản
xuất kinh doanh hàng xuất khẩu tới cuối năm 2017. Tại thời điểm cuối năm, lãi suất
cho vay USD đối với các khoản vay ngắn hạn là 4,2-4,8%, đối với các khoản vay
trung dài hạn là 5,0-6,0%.
Quý I/2017, lãi suất huy động VNĐ có sự phân hóa theo nhóm NHTM, trong
khi đó lãi suất cho vay tương đối ổn định. Ngay từ đầu năm, một số NHTMCP đã
tập trung huy động vốn dài hạn với các mức lãi suất cạnh tranh nhằm cải thiện cơ
cấu nguồn vốn huy động để đáp ứng yêu cầu của Thông tư 06/2016 về giảm tỷ lệ
VNH cho vay TDH cũng như đáp ứng nhu cầu thanh khoản do tín dụng tăng trưởng
cao hơn so với huy động. Tuy nhiên, tại nhóm NHTMNN, lãi suất huy động vẫn


18
được duy trì ổn định do tỷ lệ VNH cho vay TDH của nhóm này tính đến cuối năm
2016 ở mức 37,32%, thấp hơn so với nhóm NHTMCP (39,93%).
Mặc dù vậy, lãi suất cho vay trong Quý I khá ổn định so với thời điểm cuối
năm 2016. Theo NHNN, mặt bằng lãi suất cho vay phổ biến đối với các lĩnh vực ưu
tiên ở mức 6-7%/năm đối với ngắn hạn và 9-10%/năm đối với trung và dài hạn. Lãi
suất cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường ở mức 6,8-9%/năm đối
với ngắn hạn; 9,3- 11%/năm đối với trung và dài hạn. Đối với nhóm khách hàng
tốt, tình hình tài chính lành mạnh, minh bạch, lãi suất cho vay có thể từ 4-5%/năm.
Mặt bằng lãi suất USD tiếp diễn xu thế những năm trước: lãi suất huy động
tiếp tục giữ nguyên ở mức 0%, lãi suất cho vay USD tiếp tục giảm nhẹ. Hoạt động
cho vay bằng ngoại tệ tiếp tục được kiểm soát chặt chẽ, giảm nhẹ 0,2%/năm đối với
các khoản vay ngắn hạn. Kết thúc Quý I, lãi suất cho vay USD là 4,0-4,8% áp dụng
cho các khoản vay ngắn hạn, và là 5,0-6,0% áp dụng với các khoản vay trung dài
hạn.
Đánh giá tình hình huy động vốn: Trong năm 2014, tổng vốn huy động của
hệ thống ngân hàng tăng hơn 11% so với cuối năm 2013. Tuy nhiên vốn đang dư
thừa ở ngân hàng , tình hình thanh khoản của nền kinh tế đang rất cao. Do vậy,

nhằm đạt mục tiêu đã đề ra, lãi suất huy động và cho vay đã và đang giảm dần.
Năm 2016, tổng phương tiện thanh toán tăng 17,88%, huy động vốn tăng 18,38%
so với cuối năm 2015. Huy động vốn 10 tháng đầu năm 2017 tuy giảm so với cùng
năm trước nhưng vẫn đạt mức tăng trưởng khá, ước tăng 12% so với cuối năm
2016 (cùng kỳ năm trước tăng 14,7). Thanh khoản của hệ thống ngân hàng ổn định,
biểu hiện là lãi suất liên ngân hàng đã liên tục giảm (bình quân giảm khoảng 0,2
điểm% so với tháng trước) và tiếp tục được duy trì ở mức thấp (lãi suất O/N ở mức
0,9%/năm, lãi suất 1 tuần là 0,9%/năm, lãi suất 1 tháng là 1,5%/năm).Thanh khoản
hệ thống ổn định do NHNN mua được lượng lớn ngoại tệ, và cung ứng tiền ròng
khoảng 130 nghìn tỷ đồng từ đầu năm đến nay.


19
2.2.4. Tăng trưởng tín dụng và tình hình nợ xấu
Tăng trưởng tín dụng
Tính đến ngày 19/12/2014 tín dụng đã tăng 11,8% so với cuối năm 2013. Cơ
cấu tín dụng tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung vào các lĩnh vực
sản xuất kinh doanh,đặc biệt là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương chính phủ. Các
chương trình, chính sách tín dụng ngành, lĩnh vực đã được hệ thống ngân hàng triển
khai kịp thời, góp phần hô trợ tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội.
Báo cáo của Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN) cho biết, đến
31/12/2015, dư nợ tín dụng nền kinh tế tăng 17,29% so với cuối năm 2014
Tính đến ngày 29/12/2016, tín dụng tăng 18,71% so với cuối năm 2015. Cơ
cấu tín dụng diễn biến tích cực theo hướng mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn,
chất lượng, tập trung chủ yếu cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh, tín dụng đối với
lĩnh vực đầu tư, kinh doanh bất động sản chậm lại. Tín dụng tiêu dùng cũng tăng
mạnh, góp phần duy trì tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ so với
GDP. Tín dụng tiêu dùng ước tăng 39% so với cuối năm 2015, chiếm 11,4% tổng
tín dụng (năm 2015 là 9,8%). Tín dụng VND tăng cao trong khi tín dụng ngoại tệ
tăng thấp, phù hợp với chủ trương chống đô la hóa của Chính phủ.

Theo Ủy ban giám sát tài chính Quốc gia, tín dụng 10 tháng đầu năm 2017
tăng trưởng tích cực. Tính đến hết tháng 10/2017, tín dụng (bao gồm trái phiếu
doanh nghiệp) ước tăng khoảng 13,5% so với cuối năm 2016. Tỷ trọng tín dụng
trung dài hạn giảm trong khi tỷ trọng tín dụng ngắn hạn tăng. Tín dụng trung và dài
hạn ước chiếm 53,7% tổng tín dụng (cuối năm 2016 chiếm 55,1%). Tín dụng ngắn
hạn ước chiếm 46,3% tổng tín dụng (cuối năm 2016 là 44,9%). Tín dụng bằng
ngoại tệ tăng cao hơn cùng kỳ năm 2016 chủ yếu do nhu cầu nhập khẩu tăng cao so
với cùng kỳ năm 2016. Tín dụng tiêu dùng tiếp tục đà tăng mạnh kể từ đầu năm
2017 phù hợp với những xu hướng gia tăng cầu tiêu dùng của nền kinh tế. Tổng dư
nợ cho vay tiêu dùng tăng khoảng 58,6% so với cuối năm 2016.


20
Tình hình nợ xấu
Năm 2014, Theo Ngân NHNN cho biết, thời điểm cuối năm 2014, nợ xấu
theo báo cáo của các TCTD là 167.861 tỷ đồng tương đương khoảng hơn 3,8%. Vì
vậy, ngành Ngân hàng đã quyết tâm triển khai đồng bộ các giải pháp quản lý, điều
hành, tái cơ cấu và xử lý nợ xấu theo đúng mục tiêu, định hướng đề ra, quyết tâm
đưa nợ xấu về mức dưới 3% và kiên quyết xử lý các TCTD yếu kém, đẩy mạnh sáp
nhập, hợp nhất, lành mạnh hóa tài chính, cơ cấu lại hoạt động kinh doanh và đổi
mới hệ thống quản trị, điều hành.
Với mục tiêu đã đề ra năm 2014 thì khi nhìn lại một năm thực hiện mục tiêu,
năm 2015 được cho là một năm thành công ngoài mong đợi và nổi bật của ngành
ngân hàng khi đưa tỷ lệ nợ xấu về mức dưới 3% hoàn thành xuất xắc mục tiêu đề ra
năm 2014 là đưa nợ xấu về mức dưới 3%. Cụ thể, ước tính tỷ lệ nợ xấu cuối năm
2015 chỉ còn hơn 2,5%
Năm 2016, tỷ lệ nợ xấu bình quân toàn hệ thống đến cuối năm 2016 ước tính
giảm nhẹ từ 2,9% năm 2015 xuống 2,8%.
Dù tiếp tục giảm nhẹ và một lượng lớn được xử lý nói trên, nhưng Ủy ban
Giám sát đánh giá, nợ xấu chờ xử lý và nợ xấu tiềm ẩn trong tái cơ cấu vẫn lớn.

Năm 2016, số dự phòng rủi ro tín dụng của hệ thống ước tăng khoảng 11,9% so với
cuối năm 2015 (năm 2015 tăng 5,4%); dự phòng rủi ro cụ thể tăng 24,9%, cao hơn
so với cùng kỳ 2015 (11,9%); tỷ lệ dự phòng rủi ro cụ thể/nợ xấu báo cáo là 57,2%.
Tính đến cuối tháng 9/2017, tỷ lệ nợ xấu nội bảng toàn hệ thống là 2,34%,
giảm so với tỷ lệ 2,46% tại thời điểm cuối năm 2016.
Tín dụng đang ngày càng tăng trưởng mạnh mẽ hơn do xã hội ngày càng phát
triển, thanh toán thương mại điện tử mang lại sự đảm bảo, thuận tiện và an toàn
hơn.Tuy nhiên cùng với tín dụng tăng trưởng thì cần phải đi đôi với việc xử lý nợ
xấu.


21
2.2.5. Tăng trưởng lãi thuần

Biểu đồ tăng trưởng lãi thuần của các mảng kinh doanh của các ngân
hàng trong 6 tháng đầu năm 2017 và 2016

Biểu đồ cơ cấu lãi thuần của các ngân hàng trong 6 tháng đầu năm 2017
và 2016
Nhìn vào biểu đồ có thể thấy, thu nhập lãi thuần chiếm hơn 80% thu nhập của
các ngân hàng. Tuy nhiên, nó lại không phải là chỉ tiêu có sự tăng trưởng đột phá
trong năm 2017 so với năm trước mà là hoạt động mua bán chứng khoán, hoạt
động dịch vụ cũng cho thấy lợi thế cạnh tranh nhất định.Thống kê từ khoảng 13
ngân hàng trong 6 tháng đầu năm nay cho thấy, tổng lãi từ hoạt động mua bán
chứng khoán đạt gần 1.900 tỷ đồng, gấp đến 75 lần cùng kỳ năm trước. Đóng góp
vào khoảng 2,3% thu nhập cho ngân hàng, trong khi cùng kỳ chỉ mang lại rất ít với


22
0,04%. ACB là ngân hàng nổi trội nhất khi lãi gần 425 tỷ đồng trong khi cùng kỳ lỗ

đến 472 tỷ đồng. Con số lãi 123 tỷ đồng của MBBank cũng rất đáng ghi nhận khi
cùng kỳ lỗ 42 tỷ đồng. Về mức tăng trưởng, VPBank đứng đầu khi lãi từ mua bán
chứng khoán đạt gần 382 tỷ đồng, gấp đến 11 lần cùng kỳ năm trước. Kế đến là
TPBank đạt 18 tỷ đồng, gấp gần 6 lần cùng kỳ.

Biểu đồ lãi thuần từ việc mua bán chứng khoán của các ngân hàng 6 tháng đầu
năm 2017
Về lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng, có thể thấy hoạt động tín dụng
vẫn là hoạt động chủ chốt của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam vì nó mang
về lợi nhuận là cao nhất, chiếm hơn 80% tổng thu nhập lãi thuần của các ngân
hàng. Sau đây là biểu đồ thu nhập lãi thuần của các ngân hàng trong 6 tháng đầu
năm 2016 và 2017:


23
So với cùng kỳ năm trước, thu nhập lãi thuần nửa đầu năm nay tăng 27% đạt
64.881 tỷ đồng, tuy nhiên về cơ cấu đóng góp giảm hơn 1%, còn khoảng 80%.
Bản Việt và Eximbank là hai ngân hàng giảm thu nhập lãi thuần trong kỳ với
lần lượt là 3% và 18%. Trong khi đó, TPBank, MBBank và VPBank là những ngân
hàng đứng đầu về tăng trưởng thu nhập lãi thuần đạt trên 40%.
Đứng đầu về con số tuyệt đối trong các ngân hàng thương mại cổ phần là
BIDV với hơn 14.008 tỷ đồng, tăng trưởng 37% cao nhất trong ba ông lớn.
Hoạt động dịch vụ cũng là một trong số mảng kinh doanh tăng trưởng khá của
các ngân hàng, chỉ đứng sau mảng mua bán chứng khoán với tổng lãi đạt 6.754 tỷ
đồng, tăng 34% cùng kỳ; theo đó, tỷ trọng lãi từ dịch vụ đóng góp cho ngân hàng
tăng nhẹ từ 8% lên 8,4%.Đây được xem là một trong những lĩnh vực kinh doanh
được khuyến khích phát triển của hệ thống ngân hàng và là hoạt động thể hiện năng
lực cạnh tranh bền vững. Chính vì vậy cần nâng cao chất lượng dịch vụ và phương
thức phục vụ. Nửa đầu năm, hoạt động dịch vụ đều tăng trưởng ở 2 con số , trong
đó BacAbank là ngân hàng tăng nhiều nhất từ 0,3 tỷ đồng(2016) lên gần 64 tỷ đồng

năm 2017

Biểu

đồ

lãi

từ

dịch

vụ

trong

6

tháng

đầu

năm

2016



2017



24
2.2.6. Sự giao thoa giữa các NHTM và Công ty Bảo Hiểm
Giao thoa là sự kết hợp giữa ngân hàng và bảo hiểm để triển khai dịch vụ ngân
hàng liên kết bảo hiểm (Bancassurrance) là một xu thế được phổ biến rất rộng rãi
trên thế và ở Việt Nam trong thời gian gần đây nhằm phát triển và phân phối một
cách hiệu quả các sản phẩm/dịch vụ ngân hàng-bảo hiểm cho cùng một cơ sở khách
hàng. Bancassurance có thể được hiểu một cách đơn giản nhất là việc các ngân
hàng tham gia cung cấp các sản phẩm bảo hiểm cho khách hàng của mình. Nếu
như tỷ trọng doanh số bán bảo hiểm qua kênh ngân hàng chiếm tới 60-70% trong
cơ cấu doanh thu của các công ty bảo hiểm nhân thọ ở Mỹ, Anh, Pháp, Tây Ban
Nha... thì ở các nước châu Á như Malaysia, Hàn Quốc và Singapore, nó chiếm
khoảng 30-40%. Tỷ trọng này tại Việt Nam mới chỉ chiếm khoảng 10% doanh số
phí bảo hiểm (Premium) của các công ty bảo hiểm nhân thọ.Tại Việt Nam, khi triển
khai nghiệp vụ bancassurance, nhóm các ngân hàng lớn đã đi theo mô hình thành
lập các công ty bảo hiểm nhân thọ liên doanh nhằm khai thác lợi thế của cả hai bên
như VietinAviva, Prudential, Manulife, AIA, Generali, VCLI, BIDV-Metlife…Xu
hướng này chỉ thực sự phát triển tại Việt Nam trong vài năm trở lại đây nhưng đã
đem lại những thành công rất tốt. Thị trường bảo hiểm nhân thọ của Việt Nam hiện
nay đang được xem là hấp dẫn nhất khu vực do tỷ lệ sử dụng thấp trong khi thu
nhập của người dân ngày càng có xu hướng tăng lên. Một số minh chứng cho điều
đó là trong năm 2015 có đến 19/20 ngân hàng đã hợp tác với các doanh nghiệp bảo
hiểm nhân thọ để phát triển sản phẩm bancassurance và tổng doanh thu khai thác
mới của nhóm 7 doanh nghiệp dẫn đầu đã vượt 600 tỷ đồng, bao gồm VietinAviva,
Prudential, Manulife, AIA, Generali, VCLI và BIDV-Metlife khiến năm 2015 trở
thành năm thành công nhất so với các năm trước đó.
Đến nay, theo số liệu của bộ tài chính tính đến hết tháng 05/2017, tổng doanh
thu phí bảo hiểm khai thác mới ước đạt 7.698 tỉ đồng, tăng 33,8% so với cùng kỳ
năm trước(gần 5.762 tỷ đồng năm 2016) và doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ lũy kế



25
(cả cũ và mới) trong năm tháng đầu năm 2017 ước đạt 22.266 tỉ đồng, tăng 31,1%
so với cùng kỳ năm 2016 (đạt 16.984 tỉ đồng). Rõ ràng mức tăng trưởng về doanh
thu phí bảo hiểm tại Việt Nam như trên là rất ấn tượng so với nhiều thị trường khác
trong khu vực và trên thế giới, như Anh chỉ vào khoảng 3%, Đức 1%, Hàn Quốc
1%, Singapore 16%, Hồng Kông 9% hay Malaysia 5%. Với xu hướng thị trường
như thế này, nhiều thương vụ hợp tác giữa các ngân hàng và các công ty bảo hiểm
nhân thọ đang hoạt động tại thị trường Việt Nam sẽ diễn ra trong thời gian tới.
2.3

Đánh giá tình hình hoạt động NHTM

2.3.1. Kết quả khả quan, tích cực
Các NHTM thời gian qua đã liên tục tăng vốn thông qua thị trường chứng
khoán và bán cổ phần cho các đối tác chiến lược là các tổ chức tài chính nước
ngoài.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị công nghệ ngày càng được nâng cấp. Trình độ
đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng ngày càng được chuyên môn hoá cao. Các
ngân hàng đẩy mạnh hiện đại hoá công nghệ và nâng cao năng lực quản trị, điều
hành trên cơ sở tăng cường áp dụng các thông lệ quốc tế về quản trị doanh nghiệp,
từng bước thiết lập các định chế quản trị rủi ro. Các nghiệp vụ ngân hàng cơ bản
không ngừng được chuẩn hoá và tích hợp thống nhất dựa trên nền tảng công nghệ
thông tin hiện đại để hỗ trợ cho quá trình quản lý, điều hành tập trung của các ngân
hàng. Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng được đưa vào vận hành năm
2002, hạ tầng công nghệ thông tin được hiện đại hoá, góp phần thúc đẩy phát triển
các dịch vụ ngân hàng mới, đặc biệt là các dịch vụ thanh toán và ngân hàng điện tử.
Các NHTM Việt Nam đang ngày càng hoạt động chuyên nghiệp hơn, uy tín hơn
với quốc tế.
Tổ chức bộ máy của các NHTM dần được hiện đại hoá. Hiệu quả kinh doanh

của các tổ chức tín dụng được cải thiện rõ rệt, hầu hết các tổ chức tín dụng kinh


×