Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Xử lý tài sản thế chấp của bên thứ ba bảo đảm tiền vay trong hợp đồng tín dụng từ thực tiễn của ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (492.37 KB, 26 trang )

\VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ VÂN ANH

XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP CỦA BÊN THỨ BA
ĐẢM BẢO TIỀN VAY TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
TỪ THỰC TIỄN CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60.38.01.07

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2017


Công trình được hoàn thành tại
Học viện Khoa học Xã hội
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Am Hiểu

Ph¶n biÖn 1: PGS.TS. Đinh Dũng Sỹ

Ph¶n biÖn 2: PGS. TS. Nguyễn Đức Minh

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Học viện
Khoa học Xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
Vào hồi: 16 giờ 00 ngày 06 tháng 11 năm 2017.



Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (gọi tắt là
Agribank) là một trong những ngân hàng lớn mạnh hàng đầu trong hệ thống
NHTM Việt Nam, là NHTM do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ, giữ vai trò
chủ lực trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về
cung cấp tín dụng và các sản phẩm dịch vụ ngân hàng tiện ích cho nền kinh tế
nói chung và lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân nói riêng.Sau hơn 3
năm tái cơ cấu với trọng tâm giải quyết nợ xấu, Agribank đã áp dụng nhiều giải
pháp khác nhau tuy nhiên quá trình xử lý TSBĐ, cụ thể xử lý tài sản thế chấp
của bên thứ ba đảm bảo tiền vay còn gặp nhiều khó khăn, bất cập.
Trong phạm vi nghiên cứu, luận văn đã tìm hiểu một số vấn đề chung về
hoạt động xử lý TSBĐ, qua đó thấy được thực trạng áp dụng pháp luật về xử lý
tài sản thế chấp của bên thứ ba đảm bảo tiền vay tại Agribank để đưa ra một số
giải pháp, kiến nghị hoàn thiện hệ thống xử lý TSBĐ tạo khung pháp lý cho công
tác xử lý tài sản thế chấp của bên thứ ba đảm bảo tiền vay nói riêng và hoạt động
xử lý TSBĐ nói chung tại Agribank và các NHTM được hiệu quả hơn.
Chính vì vậy tôi đã quyết định chọn đề tài “Xử lý tài sản thế chấp của bên
thứ ba đảm bảo tiền vay trong hợp đồng tín dụng từ thực tiễn của ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam”.
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện tại đã có nhiều bài viết của các tác giả về giao dịch thế chấp tài sản
bảo đảm, cũng như xử lý tài sản bảo đảm nhưng đa phần các bài viết đó chỉ đề
cập đến một khía cạnh nhất định trong loại giao dịch này. Ở mỗi đề tài, mỗi tác
giả đều có cách tiếp cận khác nhau, ví dụ như:

Nguyễn Yên Giang (2016), Xử lý tài sản thế chấp để đảm bảo tiền vay tại
các ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Ngân hàng
thương mại cổ phần Đại Chúng, Luận án Thạc Sỹ luật học, Học viện khoa học xã
hội, Hà Nội.
Nguyễn Trung Hiếu (2015), Thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo pháp luật
dân sự Việt Nam hiện hành, Luận án Thạc Sỹ luật học, Đại học Quốc Gia Hà Nội,
Hà Nội.
Lê Thị Thu Ánh (2015), Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay
bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam,
Luận án Thạc Sỹ luật học, Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.
Nguyễn Thanh Vân (2014), Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay
từ thực tiễn tại ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam, Luận án Thạc Sỹ luật
học, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội.
1.

1


Tuy nhiên dựa trên những phân tích tìm hiểu thực trạng ở các ngân hàng
khác nhau sẽ cho ta những góc nhìn khác nhau về hoạt động xử lý tài sản bảo
đảm. Đề tài này của học viên phần nào đáp ứng được tính cấp của việc nghiên
cứu trong tình hình hiện nay, đặc biệt vấn đề xử lý tài sản thế chấp của bên thứ
ba đảm bảo tiền vay trong hợp đồng tín dụng tại các ngân hàng thương mại
đang là nhiệm vụ cấp thiết để giải quyết vấn đề nợ xấu.
3.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn nhằm tìm hiểu một số vấn
đề chung về hoạt động xử lý TSBĐ, qua đó đánh giá thực trạng áp dụng pháp
luật về xử lý tài sản thế chấp của bên thứ ba đảm bảo tiền vay tại Agribank để
đưa ra một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện hệ thống xử lý TSBĐ tạo khung

pháp lý cho công tác xử lý tài sản thế chấp của bên thứ ba đảm bảo tiền vay nói
riêng và hoạt động xử lý TSBĐ nói chung tại Agribank và các NHTM được
hiệu quả hơn.
4.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định pháp luật có liên quan
đến việc xử lý tài sản thế chấp của bên thứ ba đảm bảo tiền vay, từ đó đưa ra
một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện hệ thống xử lý TSBĐ đáp ứng nhu cầu
thực tiễn kinh tế xã hội.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào ba khía cạnh chính: Thứ
nhất, luận văn nghiên cứu một số vấn đề chung về xử lý tài sản thế chấp của
bên thứ ba để bảo đảm tiền vay trong hợp đồng tín dụng tại ngân hàng thương
mại. Thứ hai, luận văn nghiên cứu đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về xử
lý tài sản thế chấp của bên thứ ba đảm bảo tiền vay tại Agribank. Thứ ba, từ
việc nghiên cứu hai nội dung trên, luận văn có nhiệm vụ đưa ra một số kiến
nghị nhằm nâng cao hiệu quả xử lý tài sản thế chấp của bên thứ ba để bảo đảm
tiền vay cho phù hợp với thực tiễn tại Agribank.
5.
Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trong khuôn khổ một luận văn thạc sỹ, phương pháp luận của luận văn là
dựa trên chủ nghĩa duy vật biện chứng. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài luận
văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như:
phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải, khảo sát… Đồng thời, việc nghiên cứu
còn dựa vào các vụ việc trong thực tiễn xét xử, cũng như thông tin trên mạng
Internet để tổng hợp và làm sáng tỏ các nội dung cần nghiên cứu của đề tài.
6.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn bước đầu hệ thống hóa một số vấn đề chung về xử lý tài sản thế
chấp của bên thứ ba để bảo đảm tiền vay trong hợp đồng tín dụng tại ngân hàng
thương mại nói chung, nghiên cứu các quy định nội bộ và thực tiễn của của việc

xử lý tài sản thế chấp của bên thứ ba để bảo đảm tiền vay trong hợp đồng tín
2


dụng tại Agribank nói riêng.
Nhờ đó luận văn đưa ra một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện hệ thống
xử lý TSBĐ tạo khung pháp lý cho công tác xử lý tài sản thế chấp của bên thứ
ba đảm bảo tiền vay nói riêng và hoạt động xử lý TSBĐ nói chung tại Agribank
và các NHTM được hiệu quả hơn. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được
sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy và cho
hoạt động của các NHTM tại Việt Nam.
7.
Cấu trúc của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục các chữ viết tắt, danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung luận văn bao gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về xử lý tài sản thế chấp của bên thứ ba
để bảo đảm tiền vay trong hợp đồng tín dụng.
Chương 2: Thực trạng xử lý tài sản thế chấp của bên thứ ba để bảo đảm
tiền vay trong hợp đồng tín dụng tại Agribank.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả xử lý tài sản thế
chấp của bên thứ ba để bảo đảm tiền vay từ thực tiễn tại Agribank.

3


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP CỦA BÊN
THỨ BA ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
1.1. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba
1.1.1. Khái niệm, bản chất bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên

thứ ba
Ðiều 346 Bộ luật Dân sự 1995 quy định thế chấp tài sản là việc bên có
nghĩa vụ dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
của chính mình đối với bên có quyền.
Tuy nhiên, Ðiều 342 BLDS 2005 và Điều 317 BLDS 2015 đã thay đổi
quy định về thế chấp, bỏ quy định bên thế chấp bắt buộc phải đồng thời là bên
có nghĩa vụ trong quy định về thế chấp của Bộ luật Dân sự 1995. Hay nói cách
khác, theo quy định của BLDS 2005, 2015 nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế
chấp tài sản có thể là nghĩa vụ của chính bên thế chấp (chủ sở hữu tài sản) hoặc
có thể là nghĩa vụ của người khác không phải là bên thế chấp.
Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung
bởi Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/2/2012) quy định bên bảo đảm có
thể bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự của chính mình hoặc của người
khác. Tùy biện pháp bảo đảm là bảo lãnh hay thế chấp mà chủ thể của nó được
gọi là bên bảo lãnh hay bên thế chấp. Trong quan hệ tín dụng, bên bảo đảm nếu
độc lập với bên vay vốn thì còn được gọi là bên thứ ba (là bên không tham gia
xác lập hợp đồng tín dụng) và với quy định nêu trên thì bên thứ ba có thể lựa
chọn: dùng tài sản hay dùng uy tín, cam kết (hoặc cả hai) để xác lập giao dịch
bảo đảm. Tuy nhiên do BLDS 2005 - là văn bản mà Nghị định số
163/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành - không đề cập một cách rõ ràng đến biện
pháp bảo đảm bằng tài sản của người thứ ba nên một số tòa án không chấp nhận
cách tiếp cận của nghị định này.
Theo Khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 09/2016/TTLT-BTP-BTNMT
hướng dẫn việc đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất lại
quy định có thể đăng ký thế chấp bất động sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự không những của bên thế chấp mà còn của cả người khác. Điều đó có
nghĩa là Thông tư thừa nhận biện pháp thế chấp bằng bất động sản của người
thứ ba.
Từ quy định pháp luật không rõ ràng, có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng
tôi đồng ý với quan điểm nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp tài sản có thể là

nghĩa vụ của chính bên thế chấp (chủ sở hữu tài sản) hoặc có thể là nghĩa vụ
của người khác không phải là bên thế chấp. Do vậy, sẽ xảy ra trong hai trường
hợp: Thế chấp là việc dùng tài sản của mình đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa
vụ dân sự của mình đối với bên có quyền; Hay thế chấp là việc dùng tài sản của
4


mình đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự của người khác đối với bên
có quyền. Ở trường hợp thứ hai sẽ xuất hiện bên thứ ba tham gia vào quan hệ
thế chấp, và xét về mặt bản chất đó chính là trường hợp "thế chấp tài sản của
bên thứ ba".
1.1.2.
Giá trị pháp lý của hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba
Áp dụng các biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm cho nghĩa vụ trả
nợ vay của khách hàng tại NHTM là việc làm phổ biến trong hoạt động cấp tín
dụng tại các NHTM. Nhận TSBĐ của bên thứ ba là việc NHTM nhận TSBĐ
thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên bảo đảm (chủ sở hữu TSBĐ hay còn gọi
là “bên thứ ba”) để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay của bên vay
vốn (bên có nghĩa vụ được bảo đảm) với NHTM. Hợp đồng bảo đảm được ký
kết trong trường hợp này là hợp đồng bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba. Mối
quan hệ hợp đồng này thường có sự tham gia của ba bên: NHTM với vai trò là
bên nhận bảo đảm, đồng thời là bên cho vay trong quan hệ cấp tín dụng; chủ sở
hữu tài sản là bên bảo đảm hay còn gọi là bên thứ ba mang tài sản của mình để
bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay với NHTM; và khách hàng
vay là bên được bảo đảm. Trường hợp thế chấp TSBĐ thì hợp đồng bảo đảm
được gọi là hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba.
1.1.3. So sánh thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba và bảo lãnh
Bảo lãnh là biện pháp bảo đảm mang tính chất đối nhân, còn thế chấp là
biện pháp bảo đảm có tính chất đối vật. Theo Điều 342 BLDS 2015, bên nhận
bảo lãnh không có quyền xử lý tài sản của bên bảo lãnh trong trường hợp bên

bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, mà chỉ có quyền yêu cầu thanh
toán giá trị nghĩa vụ vi phạm và bồi thường thiệt hại. Theo quy định của khoản
3 Điều 336 BLDS 2015, để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (của bên bảo
lãnh), các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản, bao
gồm cả thế chấp tài sản. Tuy nhiên, cũng cần phải nói thêm rằng, việc bổ sung
hình thức thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh không đồng
nghĩa với việc BLDS 2015 không thừa nhận hình thức thế chấp tài sản để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác. Bởi lẽ, hai hình thức thế chấp tài sản
này có sự khác biệt.
1.2. Xử lý tài sản thế chấp của bên thứ ba nhằm bảo đảm tiền vay trong
hợp đồng tín dụng
1.2.1. Khái niệm xử lý tài sản bảo đảm
Trong hoạt động tín dụng, việc thực hiện các biện pháp đối với TSBĐ
tiền vay của khách hàng để thu hồi nợ được gọi chung là xử lý TSBĐ. Có thể
hiểu xử lý TSBĐ tiền vay là một giai đoạn của bảo đảm tiền vay bằng tài sản,
giai đoạn thực hiện các biện pháp đối với TSBĐ nhằm thu hồi khoản nợ mà
NHTM đã cho vay khi có sự vi phạm nghĩa vụ của khách hàng vay theo những
5


cam kết tại hợp đồng tín dụng.
1.2.2. Các trường hợp xử lý tài sản thế chấp của bên thứ ba nhằm bảo đảm
tiền vay trong hợp đồng tín dụng
Theo Điều 299 BLDS 2015 và Điều 56 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP
quy định các NHTM được phép xử lý TSBĐ trong các trường hợp cụ thể như
sau:
Trường hợp thứ nhất, đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên
có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
Trường hợp thứ hai, bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo
đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thoả thuận hoặc theo quy định của

pháp luật.
Trường hợp thứ ba, pháp luật quy định TSBĐ phải được xử lý để bên bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ khác.
Trường hợp thứ tư, ngoài các trường hợp trên, các trường hợp khác do
các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định.
Trường hợp thứ năm, một văn bản luật cũng có thể quy định về trường
hợp xử lý bảo đảm. Theo Điều 90, Luật thi hành án dân sự số 26/2008/QH12
được bổ sung, sửa đổi năm 2014 (Luật thi hành dân sự), trường hợp người phải
thi hành án không còn tài sản nào khác hoặc có tài sản nhưng không đủ để thi
hành án, chấp hành viên có quyền kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành
án đang cầm cố, thế chấp nếu giá trị của tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo
đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án.
1.2.3. Nguyên tắc xử lý tài sản thế chấp của bên thứ ba nhằm bảo đảm tiền
vay trong hợp đồng tín dụng
Việc xử lý TSBĐ tiền vay dựa trên nguyên tắc: thỏa thuận, công khai,
khách quan, kịp thời, tôn trọng và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên.
1.2.4. Phương thức xử lý tài sản thế chấp của bên thứ ba nhằm bảo đảm
tiền vay trong hợp đồng tín dụng
Theo Điều 59 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP và Điều 303 BLDS 2015
quy định 4 phương thức xử lý TSBĐ như sau:
Phương thứ thứ nhất, bán TSBĐ
Phương thứ thứ hai, bên nhận bảo đảm nhận chính TSBĐ để thay thế cho
việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm.
Phương thứ thứ ba, bên nhận bảo đảm nhận các khoản tiền hoặc tài sản
khác từ người thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ.
Phương thứ thứ tư, phương thức khác do các bên thoả thuận.
1.2.5. Thời hạn xử lý tài sản thế chấp
Theo Điều 62 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP thì thời hạn xử lý TSBĐ
6



được căn cứ trước hết theo thoả thuận của các bên (Bên thế chấp và bên nhận
thế chấp), nếu các bên không có thoả thuận thì người xử lý tài sản có quyền
quyết định về thời hạn xử lý, nhưng không được trước bảy ngày đối với động
sản hoặc mười lăm ngày đối với bất động sản, kể từ ngày thông báo về việc xử
lý TSBĐ, trừ trường hợp đối với TSBĐ có nguy cơ bị mất giá trị hoặc giảm sút
giá trị, quyền đòi nợ, giấy tờ có giá, thẻ tiết kiệm, vận đơn thì người xử lý tài
sản có quyền xử lý ngay, đồng thời phải thông báo cho các bên nhận bảo đảm
khác về việc xử lý tài sản đó (theo khoản 2 Điều 61 Nghị định số 163/2006/NĐCP).
1.2.6. Thứ tự ưu tiên thanh toán từ số tiền xử lý tài sản thế chấp của bên
thứ ba nhằm bảo đảm tiền vay trong hợp đồng tín dụng
Theo Điều 308 BLDS 2015, thứ tự thanh toán giữa các bên cùng nhận
bảo đảm bằng một tài sản thông qua thứ tự xác lập hiệu lực đối kháng, nghĩa vụ
có biện pháp bảo đảm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba và xác định theo
thứ tự xác lập hiệu lực đối kháng.
Kết luận chương 1
Xử lý tài sản thế chấp của bên thứ ba để bảo đảm tiền vay nhằm thu hồi
khoản nợ của NHTM đã cho khách hàng vay khi khách hàng vi phạm nghĩa vụ
trả nợ. Do đó việc xử lý TSBĐ tiền vay để thu hồi nợ cho các NHTM là biện
pháp khắc phục rủi ro đối với khoản tín dụng và là nguồn thu nợ thứ hai của
NHTM.
Thông qua nội dung trên luận văn đã đưa ra những cơ sở pháp lý chung
về xử lý tài sản thế chấp của bên thứ ba tại các ngân hàng thương mại để từ đó
có làm nền tảng để phân tích, đánh giá thực trạng nhằm đưa ra giải pháp xử lý
tài sản thế chấp của bên thứ ba tại Agribank.

7



Chương 2
THỰC TRẠNG XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP CỦA BÊN THỨ BA ĐỂ
BẢO ĐẢM TIỀN VAY TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG TẠI
AGRIBANK
2.1. Tổng quan tình hình hoạt động tín dụng tại Agribank
Agribank là ngân hàng thương mại Nhà nước hàng đầu Việt Nam về tổng
tài sản, nguồn vốn, dư nợ, số lượng khách hàng với mạng lưới hoạt động gần
2.300 chi nhánh và phòng giao dịch, đội ngũ nhân viên hơn 40.000 cán bộ, viên
chức, là đối tác tin cậy của trên 30.000 doanh nghiệp, hàng triệu hộ sản xuất,
hàng ngàn đối tác trong và ngoài nước... Đến 31/12/2016, Agribank tiếp tục duy
trì vị trí dẫn đầu các ngân hàng thương mại trong Bảng xếp hạng 500 doanh
nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2016 (VNR 500) với quy mô tổng tài sản đạt
1.003.288 tỷ đồng; Nguồn vốn huy động thị trường đạt 924.156 tỷ đồng, tăng
trưởng 14,9%; Tổng dư nợ tín dụng (bao gồm trái phiếu VAMC) 791.450 tỷ
đồng, tăng trưởng 17,5%, trong đó cho vay nông nghiệp nông thôn chiếm
69%/tổng dư nợ cho vay của Agribank và 51% tổng dư nợ cho vay của toàn
ngành ngân hàng đầu tư cho lĩnh vực này.[1]
Với gần 30 năm khẳng định vai trò chủ lực trên thị trường tài chính nông
thôn, Agribank không chỉ được biết đến là NHTM đi đầu trong đầu tư phát triển
nông nghiệp, nông thôn, nông dân, góp phần phát triển kinh tế - xã hội Việt
Nam. Trong giai đoạn tái cơ cấu, mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng Agribank
vẫn luôn bảo đảm đủ vốn với lãi suất ưu đãi phục vụ cho nông nghiệp, nông
dân và nông thôn. [1]
2.2. Phân cấp và quy trình xử lý tài sản thế chấp của bên thứ ba để bảo
đảm tiền vay tại Agribank
Về nguyên tắc, các trường hợp và thời hạn xử lý TSBĐ, các quy định nội
bộ của Agribank được thiết kế theo hướng ghi nhận lại và phát triển các nguyên
tắc, các trường hợp và thời hạn xử lý TSBĐ đã được pháp luật quy định.
2.2.1. Phân cấp quyền xử lý TSBĐ trong hệ thống Agribank
Theo Điểm 6 Văn bản số 4298/NHNo-HSX ngày 08/12/2014 của Tổng

giám đốc Agribank về việc hướng dẫn một số vấn đề về xử lý TSBĐ cấp tín
dụng trong hệ thống Agribank, Chi nhánh Agribank nơi cấp tín dụng quyết định
xử lý TSBĐ trong các trường hợp sau: Các TSBĐ cho các khoản cấp tín dụng
thuộc phân cấp quyết định tín dụng của chi nhánh; Các TSBĐ cho các khoản
cấp tín dụng thuộc thẩm quyền cấp tín dụng của Giám đốc Agribank chi nhánh
cấp trên, Tổng giám đốc, Hội đồng thành viên, nếu có số tiền thu được từ xử lý
TSBĐ đủ thu hồi nợ gốc, lãi, phí (nếu có). Các trường hợp khác, Agribank nơi
cấp tín dụng lập phương án xử lý TSBĐ trình cấp có thẩm quyền quyết định.
Cấp có thẩm quyền trong trường hợp này được xác định theo thẩm quyền quyết
định cấp tín dụng.
Chi nhánh Agribank nơi cấp tín dụng được phép tự quyết định bán TSBĐ
trong trường hợp TSBĐ đã được đấu giá công khai tại Tổ chức bán đấu giá theo
8


qui định của Pháp luật nhưng không có người đăng ký mua và sau đó có khách
hàng thỏa thuận đồng ý mua lại tài sản với giá lớn hơn hoặc bằng giá khởi điểm
của lần đấu giá không thành gần nhất. Nội dung này phải được quy định tại
Hợp đồng bảo đảm cấp tín dụng.
2.2.2. Quy trình xử lý TSBĐ để bảo đảm tiền vay tại Agribank
Theo Điểm 15 Văn bản số 4298/NHNo-HSX ngày 08/12/2014 của Tổng
giám đốc Agribank về việc hướng dẫn một số vấn đề về xử lý TSBĐ cấp tín
dụng trong hệ thống Agribank, các bước khi xử lý TSBĐ để bảo đảm tiền vay
tại Agribank.
Bước 1: Thông báo về việc xử lý tài sản bảo dảm
Trước khi xử lý TSBĐ, Agribank nơi cấp tín dụng phải thông báo bằng
văn bản cho các bên có liên quan theo địa chỉ được bên bảo đảm cung cấp hoặc
đăng ký văn bản thông báo về việc xử lý TSBĐ theo quy định của pháp luật về
đăng ký giao dịch bảo đảm.
Đối với TSBĐ có nguy cơ bị mất giá trị hoặc giảm sút giá trị, TSBĐ là

quyền đòi nợ, giấy tờ có giá, thẻ tiết kiệm, vận đơn thì Agribank nơi cấp tín
dụng có quyền xử lý ngay để thu hồi nợ, đồng thời phải thông báo bằng văn bản
cho bên có nghĩa vụ trả nợ và các Agribank nơi cấp tín dụng khác (nếu có)
được biết về việc xử lý tài sản đó.
Bước 2: Thu giữ tài sản để xử lý
Agribank nơi cấp tín dụng thông báo cho người giữ TSBĐ về việc áp
dụng phương thức thu giữ tài sản trong một thời gian hợp lý.
Bước 3: Xử lý TSBĐ:
Tuỳ theo điều kiện cụ thể và thoả thuận trong hợp đồng bảo đảm tiền
vay giữa bên bảo đảm với Agribank, Agribank nơi cấp tín dụng có thể áp
dụng một trong các Phương thức xử lý TSBĐ sau:
Agribank nơi cấp tín dụng ký hợp đồng uỷ quyền với doanh nghiệp bán
đấu giá tài sản hoặc Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản (trong trường hợp
bán tài sản qua phương thức đấu giá): Khi bán TSBĐ, nếu có từ hai người trở
lên tham gia đăng ký mua thì Agribank nơi cấp tín dụng phải tổ chức bán đấu
giá tài sản.
Agribank nơi cấp tín dụng tự bán tài sản: Agribank nơi cấp tín dụng chỉ
được tự bán tài sản khi có thoả thuận của bên bảo đảm bằng tài sản (cầm cố, thế
chấp) và chỉ có một người đăng ký mua, đồng thời phải đảm bảo giá trị TSBĐ
sau khi bán đủ để thu hồi nợ gốc, lãi, phí (nếu có).
Phương thức xử lý đối với một số tài sản đặc biệt
Đối với TSBĐ là quyền đòi nợ (đòi nợ từ NSNN, từ các chủ đầu tư, từ bên
nhận góp vốn...): Agribank nơi cấp tín dụng xuất trình các tài liệu có liên quan
chứng minh quyền được đòi nợ và yêu cầu người thứ ba là người có nghĩa vụ
trả nợ chuyển giao các khoản tiền hoặc tài sản cho Agribank hoặc người được
Agribank uỷ quyền.Trường hợp Agribank nơi cấp tín dụng vừa là người có
quyền đòi nợ, vừa là người có nghĩa vụ trả nợ thì được bù trừ khoản tiền đó.
9



Đối với giấy tờ có giá, thẻ tiết kiệm: Agribank nơi cấp tín dụng xuất trình
trái phiếu, cổ phiếu, hối phiếu, thẻ tiết kiệm, giấy tờ có giá khác và các tài liệu
có liên quan chứng minh quyền được thanh toán các giấy tờ có giá đó để thu
hồi nợ. Yêu cầu đơn vị phát hành hoặc lưu ký giấy tờ có giá thanh toán theo
quy định của pháp luật về giấy tờ có giá.
Đối với vận đơn: Agribank nơi cấp tín dụng xuất trình vận đơn gốc và các
tài liệu liên quan đến khoản vay theo thủ tục pháp lý được quy định tại luật
Hàng hải và các tài liệu liên quan đến khoản vay cho người vận chuyển hàng
hoá hoặc người vay (người nhận hàng) để chiếm hữu và xử lý đối với hàng hoá
ghi trên vận đơn đó.
Trường hợp một TSBĐ thực hiện nhiều nghĩa vụ mà Agribank là NHTM
đầu mối: Sau khi gửi thông báo cho các bên có liên quan (bên bảo đảm, các bên
cùng nhận TSBĐ), Agribank nơi cấp tín dụng chủ động phối họp với các bên
cùng nhận TSBĐ thoả thuận bằng văn bản về Phương thức, thời gian, địa điểm
xử lý tài sản. Thực hiện xử lý tài sản và phân chia số tiền thu hồi được cho từng
bên theo thoả thuận và trật tự ưu tiên thanh toán.
Trường hợp một hoặc nhiều TSBĐ thực hiện nhiều nghĩa vụ tại nhiều chi
nhánh Agribank: Các chi nhánh thoả thuận bằng văn bản chọn một chi nhánh
làm đầu mối đế thực hiện các thủ tục đối với khách hàng (gửi thông báo, thu
giữ tài sản, hoàn thiện thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng...), đồng
thời thoả thuận về Phương thức, thời gian, địa điểm xử lý tài sản. Chi nhánh
đầu mối thực hiện thu giữ, xử lý tài sản và phân chia số tiền thu hồi được theo
thoả thuận. Trường hợp đặc biệt không thể thoả thuận được thì thực hiện theo
trật tự ưu tiên thanh toán theo quy định của pháp luật.
2.3. Tình hình xử lý tài sản thế chấp của bên thứ ba để bảo đảm tiền vay
tại Agribank
2.3.1. Tình hình chung
Thực tiễn xử lý TSBĐ ở các NHTM nói chung cũng như tại Agribank nói
riêng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, nên công tác thu hồi nợ từ việc xử lý
TSBĐ chưa hiệu quả và thường kéo dài hơn dự kiến. Nguyên nhân của vướng

mắc này bao gồm nhiều yếu tố như:
Thị trường bất động sản phục hồi chậm, nhiều tài sản thế chấp vướng mắc
về điều kiện giao dịch, việc xác định giá trị tài sản chưa phù hợp với thực tế và
thị trường nên việc xử lý bán tài sản khó khăn và kéo dài, TSBĐ của bên thứ ba
khó xử lý, quy trình, thủ tục tố tụng và thi hành án phức tạp, kéo dài. Thiếu cơ
chế ưu đãi, thu hút nhà đầu tư có năng lực mua lại các công trình dự án bất
động sản lớn đang triển khai dở. Nhiều khách hàng chây ỳ trả nợ, không hợp
tác trong việc thanh lý tài sản, ảnh hưởng đến việc hoàn thiện hồ sơ thủ tục
pháp lý về TSBĐ.
Cũng trong thời gian qua, việc xử lý TSBĐ gặp phải nhiều khó khăn
trong xử lý các vụ việc có yếu tố hình sự. Khi chuyển điều tra hình sự, khách
hàng ngừng trả nợ, TSBĐ xuống cấp và suy giảm giá trị. Cụ thể, số lượng các
10


vụ việc do Agribank chủ động khởi kiện ra tòa án dân sự các cấp lên đến mức
hơn 6.800 vụ. Đây là một con số quá tải ngay với cả cơ quan tòa án. Điều này
dẫn đến tình trạng thụ lý, giải quyết nhiều vụ án kéo dài, khó khăn trong việc
thu hồi nợ. [39] Mặc dù Agribank thường xuyên làm việc với cơ quan thi hành
án, công tác này vẫn gặp nhiều khó khăn. Có vụ tới 4, 5 năm vẫn chưa thi hành
xong, nhiều trường hợp tài sản bán đấu giá trên 10 lần vẫn không thành. [39]
Không chỉ khó khăn trong thủ tục xử lý, nguồn lực tài chính để tự xử lý
nợ xấu cũng là một thách thức vô cùng lớn đối với Agribank. Bởi Agribank
hiện đang đảm trách đến 8 chương trình tín dụng chính sách theo chỉ đạo của
Chính phủ bằng nguồn vốn tự cân đối nhưng trần lãi suất cho vay (tính cả phần
cấp bù lãi suất) phải thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước trong
từng thời kỳ.[39]
2.3.2. Những vướng mắc phổ biến trong thực tiễn
a) Xác định bảo lãnh hay thế chấp
Trường hợp thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba và trường hợp bảo lãnh

nhưng bên bảo lãnh dùng tài sản để bảo đảm cho nghĩa vụ bảo lãnh của chính
mình đang có sự lẫn lộn, chưa phân biệt rạch ròi.
Trên thực tế, có rất nhiều cơ quan công chứng, cơ quan đăng ký hiểu sai
quy định này và từ chối công chứng, đăng ký giao dịch thế chấp tài sản để bảo
đảm việc thực hiện nghĩa vụ của người khác, nhiều Tòa án tuyên vô hiệu hợp
đồng thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ của người khác. Trong rất nhiều vụ tranh
chấp tín dụng, tòa thường nhầm lẫn giữa tài sản thế chấp với bảo lãnh. [19]
Việc tuyên hợp đồng thế chấp vô hiệu gây thiệt hại cho các ngân hàng là các
khoản cho vay của họ có nguy cơ bị chuyển thành khoản nợ không có đảm bảo.
b)Thế chấp bảo đảm cho nghĩa vụ của doanh nghiệp do mình làm đại diện
Việc một người đồng thời ký với hai tư cách (bên bảo đảm và bên vay
vốn) trong hợp đồng bảo đảm là trường hợp khá phổ biến. Tuy nhiên, nó lại dẫn
đến hậu quả pháp lý nặng nề, đã có bản án tuyên vô hiệu giao dịch bảo đảm
trong trường hợp này. Và hàng vạn hợp đồng bảo đảm khác luôn nơm nớp
trước nguy cơ bị tuyên vô hiệu. [23] Theo Khoản 5, Điều 144 BLDS 2005 và
khoản 3 Điều 141 BLDS 2015 về "Phạm vi đại diện” là quy định cần thiết và
hợp lý trong các giao dịch dân sự nói chung để tránh tình trạng lợi dụng trục lợi
hoặc ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các bên tham gia quan hệ dân sự
nói chung. Tuy nhiên do chưa có "quy định khác” cụ thể là thế nào, nên điều
cấm này đã bị hiểu một cách quá máy móc đối với giao dịch bảo đảm vay vốn
ngân hàng.
c) Định giá TSBĐ khi tiến hành xử lý
Thực tế hiện nay đó là các bên không thể thỏa thuận được giá khởi điểm
để bán tài sản. Theo quy định tại Điều 10 Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLTBTP-BTNMT-NHNN nếu bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm không thỏa thuận
được giá bán TSBĐ thì ngay cả trong trường hợp bên bảo đảm bất hợp tác, phía
NHTM cũng có thể chỉ định tổ chức thẩm định giá để xác định giá bán tài sản.
11


Nhưng việc chọn cơ quan thẩm định giá cũng chưa có quy định rõ ràng, tính

chính xác, độ tin cậy hiệu quả không cao. Trong thực hiện xử lý tài sản có 2
trường hợp xảy ra trái ngược nhau không như mong muốn của NHTM: Định
giá bán (giá khởi điểm khi đấu giá) quá thấp gây thiệt hại cho NHTM. Ngược
lại định giá bán (giá khởi điểm khi đấu giá) quá cao để kéo dài việc bán tài sản
d) Quan hệ giữa bên thế chấp và bên được bảo đảm
Qua thực tiễn hoạt động thế chấp tài sản của bên thứ ba để bảo đảm tiền
vay tại NHTM, một trong những vấn đề nổi cộm trong các vụ tranh chấp liên
quan đến hợp đồng tín dụng đó là mối quan hệ giữa bên thứ ba (bên thế chấp)
và bên được bảo đảm (bên vay). Tại sao bên thứ ba lại tự nguyện dùng tài sản
thuộc quyền sở hữu của mình thế chấp tại NHTM để đảm bảo cho nghĩa vụ trả
nợ không phải là của mình? Đến khi bên vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ
đúng hạn, NHTM phải xử lý tài sản thế chấp của bên thứ ba để thu hồi nợ, bên
thứ ba lại nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
e) Xác minh sở hữu, tính hợp pháp của giấy tờ đối với tài sản thế chấp
Do hạn chế nhận thức và hiểu biết các quy định pháp luật của một bộ
phận cán bộ tín dụng, dẫn đến việc khi nhận tài sản đảm bảo không thẩm định
được nguồn gốc kỹ lượng về vấn đề sở hữu. Nhiều NHTM hiện không quan
tâm đến chủ sở hữu tài sản, chỉ cần thấy giấy tờ sở hữu là đồng ý cho khách
hàng thế chấp vay tiền; thực hiện sơ sài phần hậu kiểm, không xác minh hiện
trạng tài sản... Đến khi khách hàng vỡ nợ, NHTM chỉ việc phát mãi tài sản theo
hợp đồng; sau đó mới phát hiện đấy là tài sản ăn trộm, mượn tạm. Thêm vào đó
quy định pháp luật liên quan đến cho vay, thế chấp, tài sản bảo lãnh của bên thứ
ba chưa cụ thể, rõ ràng đã dẫn đến tình trạng trên.
f) Loại tài sản bảo đảm
Theo quy định tại Nghị định số 163/2006/NĐ-CP quy định: “Tài sản hình
thành trong tương lai không bao gồm quyền sử dụng đất”. Quy định này đã gây
khó khăn đối với khách hàng có nhu cầu thế chấp chính tài sản hình thành trong
tương lai không thực hiện được vì đa số quyền sở hữu tài sản trên đất đều gắn
liền với quyền sử dụng đất .
Pháp luật không có quy định được hay không việc góp vốn bằng quyền sử

dụng đất, tài sản trên đất và tài sản khác, nhất là góp vốn thực hiện hợp đồng
hợp tác kinh doanh, không thành lập pháp nhân. Vì vậy, không rõ trường hợp
đã góp vốn lại mang tài sản đi thế chấp và ngược lại có vi phạm pháp luật hay
không và phải xử lý tài sản cầm cố, thế chấp như thế nào?
Về thế chấp phương tiện giao thông đường bộ, thực tiễn thực hiện quy
định của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định
11/2012/NĐ-CP) khi bên nhận thế chấp không giữ Giấy chứng nhận đăng ký
xe, bên nhận thế chấp dễ dàng bán, gán nợ, cầm cố, thế chấp. Như vậy, bên
nhận thế chấp phải đối mặt với rủi ro quá cao vì tài sản thế chấp là phương tiện
di chuyển khắp nơi trên cả nước, nên không dễ theo dõi, quản lý, trong khi đó
số xe đang lưu hành được mua bán trao tay, không làm thủ tục sang tên là phổ
12


biến. Điều này có thể dẫn tới các NHTM phải hạn chế, thậm chí ngừng nhận thế
chấp TSBĐ là phương tiện giao thông vận tải. Khi đó, người dân, doanh nghiệp
sẽ không còn có cơ hội để vay vốn, bị giảm khả năng tiếp cận nguồn vốn tín
dụng ngân hàng, ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của người dân,
doanh nghiệp [19]. Bên cạnh đó, BLDS 2015 có quy định rõ bên nhận thế chấp
có quyền giữ giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp nếu các bên có thỏa
thuận. Thì thời gian qua lại dẫn đến việc cảnh sát giao thông xử phạt vi phạm
hành chính khi người điều khiển phương tiện khi tham gia giao thông không
xuất trình được bản chính Giấy chứng nhận đăng ký phương tiện giao thông và
không chấp nhận bản sao Giấy chứng nhận đăng ký phương tiện giao thông có
xác nhận của NHTM nhận thế chấp.
g) Về tính thanh khoản của TSBĐ
TSBĐ càng dễ bán thì chi phí xử lý tài sản càng thấp, khả năng thu hồi nợ
càng nhanh. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều TSBĐ tại các NHTM gần như
không có tính thanh khoản và NHTM rất khó khăn khi xử lý như dây chuyền
sản xuất xi măng, hạ tầng giao thông, hệ thống truyền tải điện, trạm biến áp,

máy móc xây dựng đặc chủng… [13]
h) Bàn giao và thu giữ TSBĐ để xử lý
Theo quy định pháp luật, NHTM - bên nhận bảo đảm là người xử lý tài
sản được quyền thu giữ tài sản để xử lý TSBĐ. Theo Điều 323 BLDS 2015
người đang giữ TSBĐ có nghĩa vụ giao TSBĐ cho bên nhận bảo đảm để xử lý
khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 299 BLDS 2015 và Điều
56 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP.
Ngoài ra, theo điều 63 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP, Điều 9 Thông tư
liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN quy định: Người giữ TSBĐ
phải giao tài sản đó cho người xử lý tài sản theo thông báo của người này, hết
thời hạn theo thông báo mà bên giữ TSBĐ không giao tài sản thì người xử lý tài
sản có quyền thu giữ TSBĐ, hoặc yêu cầu tòa án giải quyết. Người xử lý tài sản
có quyền yêu cầu UBND cấp xã, phường, thị trấn và cơ quan công an áp dụng
các biện pháp để thực hiện quyền thu giữ.
Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy, nếu không có sự hợp tác, sự tự nguyện
của bên bảo đảm trong việc bàn giao tài sản thì mọi nỗ lực tiếp theo của bên
nhận bảo đảm đều vô nghĩa.
Hơn nữa, để xử lý được tài sản thế chấp nhất là đối với những động sản là
phương tiện vận tải có tính lưu thông đặc thù (như tàu bay, ô tô, tàu thủy, xà lan…),
thì thủ tục thu giữ tài sản để xử lý tương đối phức tạp và tốn nhiều chi phí. [16]
Không thu giữ TSBĐ thì NHTM không xử lý được tài sản, thậm chí
NHTM có nguy cơ vi phạm hợp đồng bán tài sản trong trường hợp đã bán tài
sản nhưng bên giữ TSBĐ không giao tài sản cho bên mua tài sản. Còn nếu
NHTM có các hành vi như cưỡng chế, sử dụng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực
yêu cầu người vay ra khỏi nơi cư trú để thu giữ tài sản thì có thể vi phạm pháp
luật hình sự về một trong các tội chiếm đoạt tài sản trái phép, hoặc tội xâm
13


phạm chỗ ở của công dân. Bởi bên nhận bảo đảm không có quyền cưỡng chế,

tịch thu hay kê biên tài sản. Mặt khác, cho dù pháp luật về giao dịch bảo đảm
có quy định rằng trường hợp bên bảo đảm có dấu hiệu chống đối, gây cản trở
cho việc thu giữ tài sản, thì bên nhận bảo đảm có thể yêu cầu ủy ban nhân dân
có thẩm quyền và công an đảm bảo công tác xử lý TSBĐ nhưng không thực sự
được áp dụng hiệu quả trên thực tế vì các đơn vị này cũng chỉ thực hiện các
công việc có tích chất hỗ trợ chứ không có tính quyết định để buộc bên bảo đảm
phải bàn giao tài sản cho ngân hàng. [12].
Nếu các NHTM chọn phương án khởi kiện ra tòa án thì NHTM phải trải
qua quá trình tố tụng kéo dài nhiều tháng để nhận được phán quyết lần thứ nhất
của tòa án, nhưng vẫn chưa thể thu giữ, xử lý được TSBĐ nếu bên giữ TSBĐ…
vẫn không hợp tác.
Với những vướng mắc về việc thu giữ TSBĐ đã phần nào được tháo gỡ
khi Quốc hội ban hành Nghị quyết số 42/2017/QH14 vào ngày 21/06/2017 về
thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng và bắt đầu có hiệu lực vào
15/08/2017.
i) Phương thức bán đấu giá TSBĐ.
Dù pháp luật có quy định niêm yết việc bán đấu giá, địa điểm,… nhằm
bảo đảm cho việc bán đấu giá TSBĐ phù hợp với nguyên tắc công khai, minh
bạch, đạt hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên, việc niêm yết tại nơi có bất động sản
bán đấu giá là một việc cực kỳ khó khăn, phức tạp do người có tài sản phải xử
lý cố tình không tuân thủ pháp luật, không tự nguyện thi hành. Hình thức bán
TSBĐ công khai cũng có thể gây bất lợi đến uy tín và hoạt động kinh doanh
của bên bảo đảm, chi phí tổ chức bán đấu giá tài sản khá cao, có hiện tượng
thông đồng, ép giá giữa những người đăng ký mua tài sản đấu giá. [13]
Trong quá trình kiểm kê tài sản để bán đấu giá tài sản, trước tiên NHTM
phải thực hiện việc đo vẽ, kiểm kê lại đối với tài sản sau đó mới đưa ra phát
mại. Tuy nhiên, nếu khách hàng không hợp tác trong việc cho NHTM kiểm kê
lại tài sản như đóng cửa kho không cho kiểm tra hàng lưu kho hay không cho
đo đạc thực tế đối với tài sản thế chấp là nhà ở… thì mất nhiều thời gian trong
quá trình xử lý.

Trong quá trình bàn giao tài sản thế chấp sau khi xử lý. Trong quá trình
bán đấu giá tài sản, sau khi chuyển tiền mua tài sản thế chấp vào tài sản của tổ
chức có chức năng bán đấu giá, khách hàng mua không được bên thế chấp bàn
giao tài sản, mặc dù việc bàn giao tài sản đã được lập thành biên bản có sự
chứng kiến của đại diện Ủy ban nhân dân xã, công an cấp xã. Bên thế chấp
không những không chịu ký tên vào biên bản bàn giao tài sản mà còn cố tình
“cố thủ” trong khuôn viên của tài sản thế chấp bị xử lý. Do đó, việc xử lý tài
sản kéo dài, không hiệu quả, thậm chí vụ việc có thể phải đưa ra Tòa án giải
quyết. Khi Tòa án đã thụ lý đơn, thì tài sản thế chấp chuyển thành tài sản tranh
chấp. Theo đó, mọi giao dịch liên quan đến tài sản tranh chấp thời điểm đó phải
dừng lại đợi bản án, quyết định của Tòa án.
14


j) Phương thức nhận chính TSBĐ để thay thế nghĩa vụ trả nợ
Theo quy định tại Nghị định số 11/2012/NĐ-CP, khi bên nhận bảo đảm
nhận chính TSBĐ để thay thế nghĩa vụ trả nợ, trường hợp giá trị của TSBĐ lớn
hơn giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm thì bên nhận bảo đảm phải thanh toán số
tiền chênh lệch đó cho bên bảo đảm. Tuy nhiên, kinh nghiệm thực tiễn của các
NHTM cho thấy, dường như hai bên rất khó tìm được sự đồng thuận về giá trị
của TSBĐ dùng để khấu trừ nghĩa vụ nợ, đặc biệt khi giá trị TSBĐ tại thời
điểm xử lý thấp hơn giá trị khoản vay. Trong nhiều trường hợp, NHTM buộc
phải chấp nhận giá trị của tài sản cao hơn so với giá trị thị trường để có thể thu
hồi dứt điểm khoản nợ. [13]
k) Xử lý TSBĐ thông qua khởi kiện, thi hành án
Trong bối cảnh nền tư pháp của Việt Nam hiện nay, thủ tục khởi kiện bên
vay/bên bảo đảm ra Tòa án để yêu cầu giải quyết việc trả nợ thường kéo dài hai
đến ba năm và phát sinh nhiều chi phí. Cho nên, các NHTM quan ngại với
phương thức thu nợ bằng biện pháp khởi kiện khách hàng ra Tòa án.[15]
Để rút ngắn quá trình giải quyết tranh chấp qua Tòa án, tăng hiệu quả

hoạt động xử lý TSBĐ qua tòa án, Nghị quyết 42/2017/QH14 cho phép Tòa án
áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao TSBĐ hoặc
tranh chấp về quyền xử lý TSBĐ của TCTD với các điều kiện được nới lỏng
đáng kể so với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 (đặc biệt là không đặt
ra yêu cầu đương sự (bên vay, bên bảo đảm) đã thừa nhận nghĩa vụ). Tuy nhiên,
nếu xét kỹ, Nghị quyết số 42/2017/QH14 vẫn chưa có câu trả lời thực sự thỏa
đáng đối với câu hỏi khi nào thì áp dụng thủ tục thông thường và khi nào thì áp
dụng thủ tục rút gọn.
l) Vấn đề cưỡng chế thi hành án
Dù theo quy định tại Điều 72 Luật Thi hành án dân sự thì khi đã có bản án
của tòa án các cấp, cơ quan thi hành án dân sự phải có kế hoạch cưỡng chế thi
hành án. Nhưng, nếu chính quyền địa phương và công an không phối hợp (như
không cử cán bộ phối hợp, bảo vệ cưỡng chế) thì việc cưỡng chế cũng không
thực hiện được. Đặc biệt, nếu bên bảo đảm là các đối tượng chính sách thì việc
cưỡng chế còn gặp khó khăn hơn nữa. Điều này dẫn đến nhiều trường hợp yêu
cầu thi hành án đã diễn ra nhiều năm, nhưng cơ quan thi hành án dân sự vẫn
không thể tổ chức cưỡng chế thu hồi được tài sản bán đấu giá cho NHTM.
m) Thu án phí, phí thi hành án từ tiền bán TSBĐ
Thời gian qua, cơ quan thi hành án ở một số địa phương đã thu án phí và
phí thi hành án từ số tiền bán đấu giá TSBĐ mà bản án, quyết định của Tòa án
tuyên kê biên để bảo đảm thi hành một nghĩa vụ cụ thể trước khi chuyển trả cho
NHTM, cho dù số tiền thu được từ bán TSBĐ không đủ trả nợ vay NHTM. [15]
n) Thủ tục chuyển nhượng quyền sở hữu, quyền sử dụng TSBĐ
Theo quy định của pháp luật về xử lý TSBĐ, NHTM có quyền tự xử lý
tài sản thế chấp trong trường hợp hết thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà khách
hàng vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Theo đó, sau
15


khi tài sản thế chấp được bán cho người mua, bên nhận thế chấp phải phối hợp

với người mua làm thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản. Tuy
nhiên, các quy định khác có liên quan như về chuyển quyền sử dụng đất quy
định phải có chữ ký của chủ tài sản nên thực tế các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền không thực hiện nếu không có sự hợp tác của bên bảo đảm ký hợp đồng
chuyển nhượng. Thậm chí cả những trường hợp bên bảo đảm đã chết, không có
di chúc về tài sản thì phải được người thừa kế theo pháp luật ký hợp đồng
chuyển nhượng tài sản. [2]
o) Về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý TSBĐ
Quy định về thứ tự ưu tiên giữa bên nhận bảo đảm với bên thứ ba, thiếu
những quy định về những trường hợp ngoại lệ của quyền ưu tiên (hay còn được
gọi là những đặc quyền) như quyền của cơ quan thuế, của người lao động, của
người cầm giữ tài sản,chủ nợ có chi phí đóng góp hình thành TSBĐ, bên được
bù trừ nghĩa vụ...
Trên thực tế, có trường hợp khi NHTM xử lý TSBĐ, chủ nợ có chi phí
đóng góp hình thành TSBĐ (như bên xây dựng công trình, bên cung cấp vật tư
vật liệu xây dựng cho công trình…) đề nghị được ưu tiên thanh toán từ số tiền
bán TSBĐ. Với trường hợp này, một số Tòa án đã có quan điểm xác định NHTM
được ưu tiên thanh toán trước, ngược lại một số Tòa án khác cũng có quan điểm
xác định chủ nợ có chi phí đóng góp hình thành lên TSBĐ được ưu tiên thanh
toán trước. [19] BLDS 2005, BLDS 2015 đều chưa quy định rõ về thứ tự ưu tiên
thanh toán giữa NHTM và chủ nợ có chi phí đóng góp hình thành lên TSBĐ.
BLDS 2005 (Điều 374), BLDS 2015 (Điều 372) quy định một trong
những căn cứ chấm dứt nghĩa vụ dân sự là “nghĩa vụ dân sự được bù trừ”. Tuy
nhiên, hiện chưa rõ thứ tự ưu tiên giữa quyền bù trừ nghĩa vụ dân sự và quyền
phát sinh dưới giao dịch bảo đảm.
2.3.3. Nguyên nhân chủ quan thuộc về NHTM
Các nguyên nhân thuộc về NHTM được xem là yếu tố có ảnh hưởng lớn
đến việc xác lập các giao dịch bảo đảm cũng như xử lý TSBĐ tại các NHTM:
Thỏa thuận và ký kết hợp đồng bảo đảm còn chung chung, không cụ thể,
không nêu chế tài khi vi phạm, nên dễ xảy ra tranh chấp. Xử lý TSBĐ là nội

dung rất quan trọng của hợp đồng bảo đảm nhưng thường rất sơ sài, không cụ
thể. Hợp đồng thường chỉ nêu bên nhận bảo đảm bảo được quyền quyết định
một trong các phương thức xử lý sau (các phương thức được nêu trong Nghị
định số 163/2006/NĐ-CP). Quy định pháp luật nêu nhiều phương thức xử lý tài
sản nhưng trong hợp đồng phải lựa chọn và thỏa thuận một phương thức (tất
nhiên trong quá trình thực hiện có thể thỏa thuận sửa đổi, bổ sung). [2]
Một số NHTM chưa chấp hành đầy đủ và nghiêm túc các quy định của
pháp luật về giao dịch bảo đảm như tính pháp lý của TSBĐ không đầy đủ,
không công chứng hợp đồng thế chấp, không đăng ký giao dịch bảo đảm…
Trong nhiều trường hợp, nguyên nhân xuất phát từ tính vô nguyên tắc của một
bộ phận cán bộ NHTM.
16


Công tác thẩm định giá trị TSBĐ chưa được NHTM quan tâm đúng mức.
Không hiếm trường hợp TSBĐ được định giá cao hơn giá thị trường (phần lớn do
nguyên nhân chủ quan) hoặc NHTM không thể định giá chính xác do TSBĐ là dây
chuyền thiết bị hoặc công trình đặc biệt, không có giá tham chiếu trên thị trường.
Chất lượng nhân sự của đội ngũ cán bộ làm công tác xử lý TSBĐ ở nhiều
NHTM còn hạn chế, đặc biệt là thiếu am hiểu và vận dụng đúng các quy định
pháp luật liên quan đến giao dịch bảo đảm cũng như trình tự xử lý TSBĐ để thu
hồi nợ vay. [13]
Sự nhận thức về pháp lý không tốt của cán bộ NHTM dẫn đến tài sản thế
chấp có giấy tờ đầy đủ nhưng cũng không xử lý được tài sản đảm bảo.
Công tác quản lý TSBĐ chưa chặt chẽ, gây thất thoát TSBĐ. Đến khi
khách hàng không trả được nợ, NHTM tiến hành xử lý TSBĐ mới phát hiện
TSBĐ đã bị mất hoặc khách hàng đã dùng chính TSBĐ để thế chấp tại một
NHTM khác. NHTM chưa mạnh dạn trong việc nhận TSBĐ để thay thế nghĩa
vụ trả nợ.
Kết luận chương 2

Thời gian qua, Nhà nước đã có nhiều cố gắng trong việc ban hành các
chính sách để tháo gỡ những áp lực tài chính của các NHTM nhằmtạo ra khung
pháp lý trong xử lý tài sản bảo đảm. Từ việc phân tích, tìm hiểu tình hình xử lý
tài sản thế chấp của bên thứ ba nhằm đảm bảo tiền vay tại Agribank đã mang
đến cái nhìn thực tiễn về thực trạng công tác xử lý TSBĐ. Từ đó đi sâu nghiên
cứu nhằm đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống văn quy phạm
pháp luật về xử lý tài sản thế chấp của bên thứ ba nhằm đảm bảo tiền vay và
hoàn thiện nghiệp xử lý TSBĐ tại Agribank nói riêng và hệ thống các NHTM
tại Việt Nam nói chung.

17


CHƯƠNG 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ TÀI SẢN
THẾ CHẤP CỦA BÊN THỨ BA ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY TỪ THỰC
TIỄN TẠI AGRIBANK
3.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật trong việc xử
lý tài sản thế chấp của bên thứ ba để bảo đảm tiền vay
3.1.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy định pháp luật, hệ thống thông tin
tín dụng
Để hoàn thiện pháp luật về giao dịch bảo đảm, bảo đảm tính đồng bộ của
hệ thống pháp luật, đảm bảo phù hợp với quy định tại BLDS 2015 và các Luật
liên quan nhằm thúc đẩy các giao dịch bảo đảm phát triển, tăng khả năng tiếp
cận vốn tín dụng của các chủ thể trong nền kinh tế qua đó thúc đẩy hoạt động
kinh tế phát triển, cụ thể hóa quá trình xử lý TSBĐ... việc ban hành văn bản
mới thay thế Nghị định số 163/2006/NĐ-CP và các văn bản liên quan là yêu
cầu cấp thiết, đảm bảo tính khả thi trên thực tế.
3.1.2. Về việc xác định bảo lãnh hay thế chấp
Cần quy định rõ việc thế chấp có thể thực hiện để bảo đảm thực hiện

nghĩa vụ của chủ sở hữu tài sản hoặc nghĩa vụ của người khác. Phân biệt rõ
ràng thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba và trường hợp bảo lãnh.
3.1.3. Bảo đảm cho nghĩa vụ của doanh nghiệp do mình làm đại diện
Cần quy định rõ một người được dùng tài sản của mình để bảo đảm cho
nghĩa vụ của chủ thể khác mà mình làm đại diện để tránh những cách hiểu khác
nhau như hiện nay.
3.1.4. Các cơ quan Nhà nước có liên quan đến xử lý TSBĐ
Cần quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan này trong việc sang tên, tính
thuế khi NHTM chủ động xử lý TSBĐ mà không cần phải yêu cầu sự chấp
thuận, ủy quyền của bên bảo đảm.
Mặt khác, cần xây dựng các cơ chế phối hợp với cơ quan công chứng, cơ
quan tố tụng và thi hành án trong việc thúc đẩy quá trình xử lý TSĐB thu hồi
nợ để giúp cho việc xử lý TSĐB được triển khai thông thoáng hơn và nhanh
gọn hơn.
Cơ quan Tòa án, khi phán quyết với các hợp đồng giao dịch bảo đảm,
nhất là bất động sản, nên nhìn vào bản chất giao dịch không nên tuyên vô hiệu
hợp đồng bởi lý do về hình thức. [15]
Tòa án nhân dân (đặc biệt là tòa án nhân dân cấp quận, huyện, thị xã…)
sớm giải quyết các vụ án tranh chấp liên quan đến hoạt động NHTM, tín dụng
phù hợp với quy định về thủ tục tố tụng và quy định có liên quan khác sau khi
thụ lý vụ án.
Viện kiểm sát nhân dân giám sát việc tuân thủ pháp luật của Tòa án và cơ
18


quan thi hành án, theo đó, nếu thấy Tòa án và cơ quan thi hành án cùng cấp vi
phạm quy định của pháp luật thì trong phạm vi chức năng nhiệm vụ của mình.
Tòa án nhân dân tối cao phối hợp với Viện kiểm soát nhân dân tối cao
sớm hướng dẫn các Tòa án nhân dân địa phương thụ lý các vụ án liên quan đến
hoạt động NHTM, tín dụng khi bên vay, bên bảo đảm cố tình trốn tránh, bỏ đi

khỏi nơi cư trú mà không khai báo địa chỉ mới với NHTM nhằm bảo đảm
quyền khởi kiện của NHTM.
3.1.5. Tài sản bảo đảm
Đối với các vấn đề về sở hữu bất động sản, thì cơ quan quản lý cần có cơ
chế giải quyết minh bạch về thông tin trên giấy tờ sở hữu tài sản, tránh tình
trạng mập mờ về xác định sở hữu riêng, chung đối với tài sản trên giấy tờ sở
hữu.[15]
Ban hành quy định mới về giao dịch bảo đảm đối với tài sản hình thành
trong tương lai phù hợp với quy định tại BLDS 2015.
Cần có quy định cụ thể cho phép các bên được thỏa thuận theo hướng bên
thế chấp chỉ được bán hàng hóa luân chuyển khi có sự đồng ý của bên nhận thế
chấp.
Thế chấp TSBĐ là phương tiện giao thông, cần quy định theo hướng bên
nhận thế chấp có quyền giữ bản chính giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp
trong trường hợp các bên có thỏa thuận phù hợp với quy định của BLDS 2015.
Đồng thời, cũng đề nghị Bộ Công an chỉ đạo cơ quan công an các cấp cho phép
người điều khiển phương tiện giao thông sử dụng bản sao Giấy chứng nhận
đăng ký phương tiện giao thông có xác nhận của TCTD khi lưu thông phương
tiện giao thông.
3.1.6. Định giá tài sản
Cần có hướng dẫn cụ thể cho quy định tại Khoản 1 Điều 306 BLDS
2015. Quy định này có thể dẫn đến cách hiểu: khi xử lý TSBĐ NHTM phải
thống nhất với bên được bảo đảm, nếu NHTM không thống nhất được với bên
bảo đảm thì phải thông qua tổ chức định giá tài sản. Nếu hợp đồng bảo đảm có
thỏa thuận về việc bên nhận bảo đảm được quyết định giá tài sản khi xử lý thì
bên nhận bảo đảm có quyền quyết định không hay đến lúc xử lý lại phải được
sự đồng ý của bên bảo đảm.
3.1.7. Chuyển quyền sở hữu khi xử lý bảo đảm
Quy định cụ thể khi bên nhận bảo đảm thực hiện bán hoặc chuyển
nhượng quyền sở hữu TSBĐ thì chỉ cần bên nhận bảo đảm có văn bản chứng

minh quyền được xử lý TSBĐ (hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo đảm…) hoặc
kết quả xử lý TSBĐ (quyết định của NHTM lựa chọn việc nhận chính TSBĐ để
thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm là phương thức xử lý bảo
đảm và kết quả định giá) thay thế cho văn bản đồng ý của chủ sở hữu tài sản,
19


hợp đồng mua bán tài sản giữa chủ sở hữu tài sản hoặc người phải thi hành án
với người mua tài sản để làm thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài
sản cho người mua theo quy định tại Ðiều 70 Nghị định số 163/2006/NÐ-CP
ngày 29/12/2006 của Chính phủ.
3.1.8. Xác định rõ ràng hơn thứ tự ưu tiên thanh toán
Quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán giữa bên nhận TSBĐ với chủ nợ có
chi phí đóng góp hình thành TSBĐ, giữa bên nhận bảo đảm với bên được bù trừ
nghĩa vụ và các chủ thể khác có quyền đối với tài sản.
Phân định rõ nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp đối với Nhà nước và
nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp đối với NHTM.
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác xử lý tài sản thế chấp của
bên thứ ba để bảo đảm tiền vay tại Agribank
3.2.1. Hoàn thiện các quy định nội bộ của Agribank trong công tác xử lý tài
sản thế chấp của bên thứ ba để bảo đảm tiền vay tại Agribank
Các NHTM cần phải hoàn thiện quy trình, hệ thống cơ chế chính sách,
công cụ quản lý TSBĐ trong nội bộ NHTM. Không nên dựa hoàn toàn vào các
văn bản pháp luật quy định vì thực tế diễn giải và quy nạp các vấn đề pháp luật
phụ thuộc vào các chính sách, quy trình, mẫu biểu của NHTM. Đồng thời, cần
nhận thức các công cụ pháp luật đôi khi không theo kịp diễn biến thực tế,
NHTM nên xác định các chính sách quản trị rủi ro tín dụng và TSBĐ theo điều
kiện cụ thể của NHTM.[15]
3.2.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hoạt động tín dụng và xử lý tài
sản thế chấp của bên thứ ba để bảo đảm tiền vay tại Agribank

a) Thỏa thuận và ký kết hợp đồng bảo đảm
Khi thỏa thuận và ký kết hợp đồng bảo đảm các quy định cần nêu cụ thể
các chế tài khi vi phạm nhất là các thỏa thuận về xử lý TSBĐ.
b) Hoàn thiện hoạt động thẩm định TSBĐ
Mỗi loại tài sản đều có những công dụng và cách thức xử lý khác nhau,
do vậy, khi nhận bảo đảm, NHTM cần lưu ý căn cứ vào đối tượng để lựa chọn
áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phù hợp. Riêng đối với
những tài sản có sự biến động, thay thế về số lượng, chất lượng như hàng hóa
lưu chuyển trong kho… nhất thiết NHTM khi tiến hành nhận bảo đảm phải thực
hiện việc mô tả tài sản vì nếu không mô tả tài sản thì khi tranh chấp sẽ không
xác định được số lượng và hàng hóa đó gồm những gì để yêu cầu Tòa án giải
quyết, lúc đó, bên chịu thiệt sẽ là NHTM. Thực hiện chấm điểm TSBĐ để làm
căn cứ nhận hay từ chối TSBĐ và quyết định tỷ lệ cấp tín dụng phù hợp trên giá
trị TSBĐ của khách hàng.
Khi nhận tài sản làm TSBĐ cho việc thực hiện nghĩa vụ, NHTM cần chú
ý, đối với những tài sản bắt buộc phải đăng ký giao dịch bảo đảm, NHTM cần
20


tiến hành các thủ tục để đăng ký giao dịch bảo đảm ngay.
Đối với hoạt động của NHTM khi nhận TSBĐ cần lưu ý đối với các tài
sản phải mua bảo hiểm hoặc tài sản là đối tượng đăng ký nhưng đã hết thời hạn
hoặc những tài sản đã đăng ký nhưng lại chưa đăng ký đầy đủ... nhưng khi
NHTM nhận bảo đảm lại không kiểm tra dẫn đến TSBĐ bị thiếu các yếu tố
pháp lý dẫn đến khi tranh chấp xảy ra NHTM sẽ là chủ thể bị thiệt hại. Hãy
nhớ, phải hoàn thiện mọi giấy tờ pháp lý đối với TSBĐ.
c) Xác định đúng tư cách chủ thể tham gia giao dịch bảo đảm
Khi doanh nghiệp vay NHTM thì có một số khoản vay phải được sự chấp
thuận của Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên theo quy định của Điều
lệ doanh nghiệp hay quy định của Luật doanh nghiệp. Do đó NHTM cần phải

kiểm tra xem có ý kiến bằng văn bản của Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng
thành viên hay không. Nếu NHTM không kiểm tra kỹ vấn đề này thì sẽ rất khó
đòi được nợ. NHTM cho vay hộ gia đình thì khi họ thế chấp tài sản là quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền trên đất phải có sự chấp thuận của tất cả các thành
viên của hộ gia đình và có đầy đủ chữ ký của các chủ sở hữu trên hợp đồng tín
dụng.
d) Xác định giá trị TSBĐ
NHTM và khách hàng cần thỏa thuận với nhau thuê đơn vị thẩm định giá
độc lập (nên thuê các đơn vị có trong danh sách thẩm định giá của Bộ Tài
chính) để xác định giá trị TSBĐ, vừa đảm bảo khách quan vừa đảm bảo giá trị
đích thực của TSBĐ.
e) Thỏa thuận xử lý TSBĐ tại Tòa án trong giai đoạn tiền tố tụng (giai
đoạn trước khi Tòa án đưa vụ án ra xét xử).
Khi NHTM khởi kiện, trong giai đoạn tiền tố tụng (giai đoạn trước khi
Tòa án đưa vụ án ra xét xử) theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Thẩm
phán sẽ triệu tập nguyên đơn (là người đi kiện thường là NHTM) và bị đơn (là
người bị kiện thường là khách hàng) đến để hòa giải và trong quá trình hòa giải
dưới sự chủ trì của Thẩm phán, NHTM và khách hàng thỏa thuận được với
nhau về việc xử lý TSBĐ thì Tòa án sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận
của các đương sự. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự theo
quy định sẽ có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị
kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Quyết định công nhận sự thỏa
thuận của đương sự có hiệu lực cho đến khi các bên hoàn thành nghĩa vụ đã
thỏa thuận và được Tòa án ghi nhận, tôn trọng quyền quyết định của các đương
sự, nếu hai bên đương sự tiến hành hòa giải, tự thỏa thuận được với nhau để
giải quyết vụ án, kể cả khi vụ án đang được Tòa án xét xử thì Quyết định công
nhận sự thỏa thuận của các đương sự vẫn có hiệu lực.
Trên cơ sở Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, NHTM
21



cần làm ngay Đơn yêu cầu thi hành án để xử lý tài sản thu hồi tiền trách việc để
lâu, tài sản bị hao mòn và mất giá trị. [36]
f) Sử dụng chức năng của Văn phòng Thừa phát lại
Theo quy định khi khách hàng vay không trả nợ, NHTM phải tiến hành
xử lý TSBĐ để thu hồi nợ. Mặc dù đã xử lý TSBĐ nhưng NHTM vẫn không
thu đủ nợ gốc và nợ lãi của khách hàng thì về nguyên tắc, NHTM có quyền yêu
cầu khách hàng bổ sung tài sản thế chấp. Tuy nhiên, nếu khách hàng không còn
tài sản và NHTM cũng không xác định được khách hàng còn tài sản hay không
để yêu cầu bổ sung thì khoản vay này được coi là khoản thiệt hại mà NHTM
phải gánh chịu. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy khách hàng vẫn còn tài sản
nhưng đã giấu không cho NHTM biết và NHTM cũng không truy tìm được tài
sản của khách hàng. Câu hỏi đặt ra là làm cách nào xác định được khách hàng
còn tài sản hay không còn tài sản? Hãy giao nhiệm vụ này cho Văn phòng Thừa
phát lại [36]
g) Tăng cường vai trò của công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ
Hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ phải thực hiện cả định kỳ và đột
xuất để kịp thời phát hiện các sai sót và cảnh báo các dấu hiệu vi phạm liên
quan đến hoạt động tín dụng nói chung và nhận thế chấp, xử lý TSBĐ nói riêng.
Việc kiểm tra, kiểm soát rủi ro liên quan đến TSBĐ cần được thực hiện trên hai
khía cạnh.
Thứ nhất là kiểm soát tổng thể danh mục TSBĐ. Ngoài ra, các NHTM
cũng cần phải rà soát hệ thống chấm điểm TSBĐ, cần duy trì một quy trình rà
soát toàn diện, phối hợp độc lập để đảm bảo rằng việc chấm điểm là chính xác
và hệ thống chấm điểm hoạt động như kỳ vọng. Việc rà soát bao gồm các nội
dung chính như: thiết kế tiêu chí, kiểm tra tính chính xác của mọi hạng mục rủi
ro, phát triển mô hình…
Thứ hai, kiểm soát TSBĐ đối với từng khoản vay cụ thể cần thực hiện
một cách thường xuyên nhằm phát hiện dấu hiệu cảnh báo sớm để có hành
động và giải pháp khắc phục kịp thời

Việc giám sát hành vi của cán bộ tín dụng và lãnh đạo NHTM cũng là
biện pháp hữu hiệu để giảm thiểu rủi ro.
h) Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Hàng năm, các NHTM cần xây dựng kế hoạch đào tạo và đào tạo lại cán
bộ, tập trung trước hết vào các nội dung chủ yếu như nghiệp vụ quản lý rủi ro
tín dụng, khung pháp lý về giao dịch bảo đảm, xử lý TSBĐ… Song song với đó
là chính sách thu hút và giữ cán bộ có trình độ và kinh nghiệm về nghiệp vụ
NHTM, đặc biệt trong bối cảnh NHTM nước ngoài thâm nhập và mở rộng hoạt
động tại Việt Nam.
Ngoài ra, cần có sự phối hợp liên thông giữa các NHTM với các chuyên
22


gia nhiều kinh nghiệm đến từ hệ thống các cơ quan tư pháp không chỉ trong
hoạt động tư vấn, phối hợp xử lý vụ việc mà còn hỗ trợ đào tạo thông qua việc
thường xuyên tổ chức các khoá đào tạo và bồi dưỡng kiến thức chuyên ngành
nhằm nâng cao năng lực đánh giá, đo lường, phân tích, kiểm soát rủi ro và công
tác xử lý TSBĐ cho cán bộ. [13]
i) Tăng cường sự phối hợp giữa NHTM với các cơ quan tư pháp, đặc biệt
là cơ quan thi hành án trong công tác xử lý TSBĐ
Để triển khai có hiệu quả Quy chế số 01/QCLN/NHNNVN-BTP, các chi
nhánh NHTM cần chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ hơn nữa với lãnh đạo,
Chi cục, Cục thi hành án dân sự tại địa phương và các chấp hành viên để đẩy
nhanh quá trình giải quyết các vụ việc thi hành án nhằm xử lý dứt điểm TSBĐ,
thu hồi nợ xấu.
Kết luận chương 3
Trong nghiệp vụ tín dụng NHTM, khung pháp lý được coi là sự cứu cánh
pháp lý hoặc cũng có thể là một trong những yếu tố có khả năng gây rủi ro cho
hoạt động NHTM xuất phát từ các quyền đối với tài sản và luật pháp không rõ
ràng, không có khả năng cưỡng chế trên thực tế, không bảo đảm được khả năng

thực thi các cam kết và nắm giữ tài sản trên thực tế.
Để hạn chế những kẽ hở trong cấp tín dụng, các NHTM cần rà soát đảm
bảo khâu thẩm định chặt chẽ, phối hợp chặt chẽ để có giải pháp phù hợp từng
vụ việc thu hồi TSĐB nhanh chóng. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, NHTM cần nhận diện, quản lý một cách chặt chẽ các rủi ro liên quan đến
TSĐB. Vì vậy, các NHTM cần hoàn thiện chính sách quản lý rủi ro tín dụng
như thực hiện chấm điểm TSĐB để làm căn cứ nhận hay từ chối TSBĐ và
quyết định tỷ lệ cấp tín dụng phù hợp; bắt buộc phải tìm hiểu thông tin về giao
dịch bảo đảm trước khi cho vay.
Công tác xử lý TSBĐ còn gặp rất nhiều khó khăn từ việc không hợp tác
của bên bảo đảm lẫn các cơ chế pháp luật hướng dẫn thi hành nghiệp vụ này
còn chồng chéo. Với những kiến nghị trên đây về phương hướng điều chỉnh
nhằm hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về xử lý TSBĐ, cùng
với các giải pháp đồng bộ về quản trị và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
hy vọng sẽ phần nào góp việc xử lý TSBĐ nói chung và xử lý tài sản thế chấp
của bên thứ ba đảm bảo tiền vay trong hợp đồng tín dụng tại Agribank và các
NHTM được thuận lợi hơn.

23


×