LUẬN VĂN:
Xử lý tài sản thế chấp (TSTC) hình thành
từ vốn vay tại Ngân hàng thương mại cổ
phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Việt Nam
Lời mở đầu
Giải quyết nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh luôn là một bài toán lớn
đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói
riêng và các cơ quan, các cấp ngành liên quan, đặc biệt phải kể đến ngành Ngân
hàng.Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang vào thời kỳ đổi mới, Nhà nước với chủ
trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế, chú trọng phát triển kinh tế ngoài quốc doanh
đã tạo nên những tiền đề quan trọng cho sự phát triển của khối kinh tế này nhưng cũng đặt
họ trước nhiều khó khăn lớn về vốn.Bởi bản thân các doanh nghiệp trong quá trình phát
triển, bên cạnh việc tự huy động vốn bản thân cùng sự hỗ trợ từ phía Ngân hàng Nhà Nước
thì vốn tín dụng ngân hàng đầu tư là một bộ phận rất quan trọng. Song họ thường xuyên
gặp phải những trở ngại trong quá trình xin cấp tín dụng ngân hàng để phát triển sản xuất
kinh doanh. Chính vì thế, một thực trạng đang đặt ra hiện nay đó là sự mất cân đối lớn giữa
cung về vốn ngân hàng và cầu về vốn của doanh nghiệp. Để lý giải cho thực trạng trên, một
trong những nguyên nhân khá quan trọng đang được xem xét xuất phát từ chính các NHTM
và các văn bản liên quan đến chế độ chính sách của Nhà nước. Về phía Ngân hàng, bảo
đảm an toàn trong tăng trưởng tín dụng là một nguyên tắc hết sức quan trọng để đảm bảo
sự lành mạnh hoạt động của hệ thống ngân hàng. Muốn vậy các ngân hàng phải quản lý
khoản tiền cho vay một cách hữu hiệu, trong đó TSTC được xem là một phần quan trọng
để đảm bảo khoản vay của ngân hàng. Hơn nữa trong quy chế cho vay của NHNN,thường
yêu cầu các NHTM phải cho vay có TSTC. Tuy vậy, đòi hỏi về TSTC đối với nhiều doanh
nghiệp, nhất là với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khi xét duyệt cho vay lại là một yêu
cầu khó có thể thực hiện bởi bản thân các doanh nghiệp này hầu như không có tài sản để
đem thế chấp hoặc giá trị TSTC là rất nhỏ, không đủ đảm bảo cho khoản vay. Để giải quyết
những khó khăn đó, NHNN đã cho phép các doanh nghiệp được sử dụng TS hình thành từ
vốn vay làm TSTC. Và thực sự biện pháp đảm bảo tiền vay này đã phát huy được những
lợi thế nhất định đối với cả Ngân hàng và các khách hàng, nhất là khối doanh nghiệp ngoài
quốc doanh qua một số năm đi vào thực hiện . Tuy nhiên, bên cạnh đó loại hình cho vay
này cũng bộc lộ nhiều vấn đề nảy sinh, dẫn đến những khoản nợ quá hạn, ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng hoạt động tín dụng của Ngân hàng, gây nên tâm lý dè dặt của
Ngân hàng khi quyết định cho vay, do đó dẫn đến không ít những trở ngại cho các doanh
nghiệp khi có nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Vì vậy, để giảm bớt khó khăn
đối với những khoản nợ không thu hồi được thì việc chọn hướngxử lý loại tài sản thế chấp
này là hết sức quan trọng. Do đó trong quá trình thực tập tại Ngân hàng thương mại cổ
phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (Hội sở Hà Nội )-VP Bank-,em đã
chọn đề tài :
Xử lý tài sản thế chấp (TSTC) hình thành từ vốn vay tại Ngân hàng thương mại cổ
phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam làm đề tài nghiên cứu. Đề tài nhằm
đưa ra giải pháp có tính đồng bộ nhằm xử lý TSTC hình thành từ vốn vay, thu hồi khoản
nợ quá hạn, nâng cao chất lượng khoản cho vay này để vừa góp phần từng bước giải quyết
nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp, vừa tăng trưởng dư nợ tín dụng, đảm bảo đúng quy
định của NHNN và hơn hết là duy trì và phát triển khách hàng tiềm năng của Ngân hàng.
Đề tài gồm : Lời mở đầu
Nội dung : 3 Chương
Chương 1: Những nguyên lý chung về TSTC và Cho vay có TSTC trong hoạt động kinh
doanh của NHTM.
Chương 2: Thực trạng cho vay có TSTC hình thành từ vốn vay tại Ngân hàng thương mại
cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị
Kết luận
Nội dung
Chương 1:Nguyên lý chung về TSTC và xử lý TSTC trong hoạt động kinh doanh của
NHTM.
A: Tín dụng Ngân hàng và bảo đảm an toàn trong hoạt động tín dụng của NHTM.
I: Khái quát về tín dụng Ngân hàng.
Là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, NHTM đảm bảo đồng thời nhiều
chức năng khác nhau nhằm hướng tới mục tiêu lợi nhuận. Bên cạnh chức năng trung gian
thanh toán, chức năng tín dụng là chức năng đặc trưng cơ bản nhất của NHTM và có ý
nghĩa đặc biệt đối với việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Các chức năng của NHTM tác
động qua lại lẫn nhau thông qua các nghiệp vụ ngân hàng:Nghiệp vụ huy động vốn ;
Nghiệp vụ tín dụng và các nghiệp vụ trung gian khác. Trong đó nghiệp vụ tín dụng chiếm
vị trí quan trọng, thể hiện khả năng của các ngân hàng trong việc tìm kiếm lợi nhuận trong
nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác, các
doanh nghiệp và cá nhân thông qua việc Ngân hàng vay vốn từ các nguồn nhàn rỗi và cung
cấp cho nơi cần trong một thời gian nhất định.Đến thời hạn do hai bên quy định, Ngân
hàng sẽ nhận được vốn và lãi.
Thông qua nghiệp vụ này, Ngân hàng với tư cách nơi tập trung đại bộ phận vốn nhàn rỗi
sẽ là trung tâm đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho đầu tư phát triển.Nhờ vậy, tín dụng ngân
hàng vừa giúp doanh nghiệp rút ngắn thời gian tích luỹ vốn nhanh chóng cho đầu tư mở
rộng sản xuất, vừa góp phần đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích luỹ vốn cho nền kinh tế và
đem lại cho ngân hàng nguồn thu nhập đáng kể.
1; Đặc trưng của tín dụng Ngân hàng.
Tín dụng Ngân hàng có những đặc trưng sau:
Thứ nhất: Sự tin tưởng tín nhiệm giữa Ngân hàng và khách hàng. Phải có sự tin tưởng này
thì quan hệ tín dụng mới được thiết lập. Nghĩa là người đi vay phải có uy tín, làm ăn hiệu
quả. Để có sự tin tưởng này, Ngân hàng phải thực hiện điều tra, phân tích khách hàng, nhất
là những khách hàng mới có quan hệ tín dụng lần đầu.
Thứ hai: Tính thời hạn của quan hệ tín dụng: Thời hạn tín dụng chủ yếu phụ thuộc vào đặc
điểm luân chuyển vốn của đối tượng vay, ngoài ra nó còn phụ thuộc vào thời hạn huy động
vốn của Ngân hàng. Tính thời hạn đã thúc đẩy người vay có trách nhiệm lo lắng, quan tâm
tới đồng vốn mà họ đã vay để sao cho có thể hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn cho Ngân
hàng.
Thứ ba: Tính hoàn trả: Ngân hàng đặc biệt quan tâm đến đặc trưng này. Muốn vậy, trước
khi Ngân hàng cho vay, Ngân hàng cần xem xét, kiểm tra , đánh giá về khách hàng xem có
đủ điều kiện cho vay không. Ngoài ra còn phải có những kiến thức tổng hợp về tình hình
xã hội để tư vấn cho khách hàng về hoạt động sản xuất kinh doanh của họ và quan trọng là
sẽ giúp Ngân hàng hạn chế được những rủi ro có thể xảy ra đối với đồng vốn cho vay.
2; Những nguyên tắc tín dụng cơ bản.
Tín dụng Ngân hàng dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản.
Nguyên tắc thứ nhất: Tiền vay phải hoàn trả đúng hạn cả vốn và lãi vay. Đây là nguyên
tắc quan trọng hàng đầu vì đại bộ phận vốn của Ngân hàng là nguồn vốn huy động của
khách hàng. Đó là một bộ phận tài sản của các chủ sở hữu mà Ngân hàng tạm thời quản lý
và sử dụng, Ngân hàng cũng có nghĩa vụ đáp ứng nhu cầu rút vốn của khách hàng khi họ
yêu cầu. Nếu các khoản tín dụng không được hoàn trả đúng hạn thì nhất định sẽ ảnh hưởng
đến khả năng hoàn trả của Ngân hàng.
Để thực hiện nguyên tắc này, mỗi lần cho vay Ngân hàng phải định kỳ hạn nợ phù hợp.
Khi đến kì hạn nợ, người đi vay phải lập giấy trả nợ cho Ngân hàng, nếu không Ngân hàng
sẽ tự động trích tài khoản tiền gửi của người đi vay để thu nợ. Nếu tài khoản tiền gửi không
đủ số dư thì chuyển nợ quá hạn. Sau một thời gian nếu khách hàng vẫn không trả nợ, Ngân
hàng sẽ phát mãi tài sản đảm bảo. Nguyên tắc này hạn chế rủi ro về thanh khoản.
Nguyên tắc thứ hai: Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích.
Tín dụng cung ứng cho nền kinh tế phải hướng đến mục tiêu và yêu cầu phát triển kinh tế
xã hội trong từng giai đoạn phát triển. Đối với các đơn vị kinh tế, tín dụng cũng phải đáp
ứng các mục đích cụ thể trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh để thúc đẩy các đơn
vị hoàn thành nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của mình. Tín dụng đúng mục đích không
những là nguyên tắc mà còn là phương châm hoạt động của tín dụng. Hiệu quả của nó
trước hết là đẩy nhanh nhịp độ phát triển của nền kinh tế hàng hoá, tạo ra nhiều khối lượng
sản phẩm, dịch vụ, đồng thời tạo ra nhiều tích luỹ để thực hiện tái sản xuất mở rộng.
Để thực hiện nguyên tắc này, Ngân hàng yêu cầu khách hàng vay vốn phải sử dụng tiền
vay đúng mục đích đã ghi trong đơn xin vay, bởi vì mục đích đó đã được Ngân hàng thẩm
định. Nếu phát hiện khách hàng vi phạm nguyên tắc này, Ngân hàng được quyền thu nợ
trước hạn, nếu khách hàng không có tiền thì chuyển nợ quá hạn.
Nguyên tắc thứ ba: Vốn vay phải có tài sản tương đương làm đảm bảo.
Tài sản đảm bảo có thể tồn tại dưới nhiều dạng:Tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay; Tài
sản đảm bảo là tài sản của người đi vay ; Đảm bảo bằng tín chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ
3.
Đảm bảo tín dụng là một phương tiện cho người chủ ngân hàng có thêm một nguồn vốn
khác dể thu hồi nợ nếu mục đích cho vay bị phá sản.
Trong công việc kinh doanh, nguồn thu nợ thứ nhất là doanh thu đối với vốn vay lưu động,
hoặc là khấu hao và lợi nhuận đối với cho vay trung, dài hạn. Trong cho vay tiêu dùng,
nguồn thu nợ thứ nhất của ngân hàng là thu nhập của cá nhân như tiền lương, các khoản
thu nhập tài chính và các khoản thu nhập khác.
Khi đánh giá hoạt động khách hàng vay, nếu thấy nguồn thu nợ thứ nhất chưa có cơ sở
vững chắc thì buộc ngân hàng phải thiết lập thêm cơ sở pháp lý dể có thêm một nguồn thu
nợ thứ hai. Nguồn thu nợ này bao gồm giá trị TSTC, cầm cố, bảo lãnh của bên thứ ban xuất
mở rộng.
Đảm bảo tín dụng được coi là tiêu chuẩn xét duyệt cho vay nhưng phải thấy rằng đây
không phải là tiêu chuẩn quan trọng nhất , hay nói cách khác nó không phải mang tính
nguyên tắc. Tuy vậy, trong nền kinh tế thị trường các hoạt động kinh tế diễn hết sức đa
dạngvà phức tạp, vì thế mọi dự đoán rủi ro của ngân hàng đều mang tính tương đối.Trong
môi trường kinh doanh như vậy,đảm bảo tín dụng là một tiêu chuẩn bổ sung những hạn chế
của nhà quản trị tín dụng cũng như phòng ngừa những diễn biến không thuận lợi của môi
trường kinh doanh, tạo điều kiện cho Ngân hàng có thể thu hồi nợ một cách chắc chắn,
đồng thời có cơ sở để mở rộng quy mô tín dụng và góp phần nâng cao ý thức hoàn trả của
người vay.
3; Rủi ro tín dụng.
Tuy nhiên, dưới giác độ là một tổ chức kinh doanh, NHTM cũng chịu tác động rất lớn từ
môi trường kinh tế-xã hội-chính trị-luật pháp-cạnh tranh, làm phát sinh những rủi ro không
lường trước được, do đó tác động sai lệch và đảo lộn kết quả hoạt động kinh doanh Ngân
hàng. Một trong những rủi ro thường xảy ra và có ảnh hưởng xấu đến hoạt động của Ngân
hàng là rủi ro tín dụng.
Đó là rủi ro gắn liền với hoạt động Ngân hàng, cho vay bao giờ cũng gồm rủi ro và xảy ra
mất mát. Ngày nay, dù có rất nhiều hình thức kinh doanh mới trong hoạt động Ngân hàng ở
nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng tín dụng Ngân hàng vẫn là hoạt động kinh doanh chủ yếu
của các Ngân hàng.Vì thế ở tất cả các nước, rủi ro tín dụng là vấn đề được quan tâm không
chỉ ở phạm vi ngân hàng mà cả trong toàn nền kinh tế. Rủi ro tín dụng là rủi ro không thu
được nợ khi đến hạn.Việc đánh giá rủi ro này là trách nhiệm chính của nghề ngân hàng.
Các Ngân hàng luôn tìm cách cực đại lợi nhuận qua việc tìm kiếm những lợi tức cao nhất
có thể có ở các món vay và chứng khoán, đồng thời cố gắng giảm thiểu rủi ro liên quan đến
hoạt động cho vay như: Sàng lọc và giám sát khách hàng vay, thiết lập mối quan hệ lâu dài,
quy định các mức tín dụng, vật thế chấp, số dư bù và hạn chế tín dụng. Dù vậy, không một
Ngân hàng nào nghĩ được hết mọi bất ngờ khi viết ra những quy định hạn chế vào một hợp
đồng cho vay, sẽ luôn có những hoạt động rủi ro của người vay tiền, chưa có một quy định
hạn chế nào loại bỏ được chúng. Vì thế, mỗi Ngân hàng cần phải có chính sách cho vay rõ
ràng để xác định phương hướng sử dụng vốn, giảm bớt các rủi ro và duy trì các hoạt động
như dự định. Chính sách cho vay của một ngân hàng nên kết hợp sự bảo đảm có thế chấp
và khả năng thanh toán nợ.
II: Bảo đảm an toàn trong hoạt động tín dụng Ngân hàng.
1;Lý do hình thành tài sản đảm bảo trong hoạt động tín dụng Ngân hàng.
Tài sản Có là phần sử dụng nguồn vốn đưa vào kinh doanh và duy trì khả năng thanh toán
của một Ngân hàng. Chất lượng Tài sản Có là chỉ tiêu tổng hợp nhất, nói lên khả năng bền
vững về mặt tài chính, khả năng sinh lời và năng lực quản lý của Ngân hàng. Trong Tài sản
Có, cho vay là bộ phận chiếm tỉ trọng lớn nhất, trực tiếp tác động đến lợi nhuận và an toàn
đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.Vì vậy, việc quản lý khoản tiền cho vay là
một nội dung đặc biệt quan trọng trong hoạt động cho vay của bất cứ NHTM nào. Một
trong những nguyên tắc cơ bản của quản lý khoản tiền cho vay là tài sản đảm bảo. Những
bắt buộc về tài sản đảm bảo đối với tiền cho vay là một công cụ quan trọng để quản lý
Ngân hàng, làm giảm bớt tổn thất của Ngân hàng trong trường hợp người vay mất khả năng
hoàn trả nợ. Điều này có ý nghĩa đặc biệt trong những trường hợp Ngân hàng phải đối mặt
với rủi ro về đạo đức của khách hàng.
Ngân hàng có thể cho vay với phương án xin vay có cơ sở để thực hiện một cách có hiệu
quả và có khả năng hoàn trả nợ trong điều kiện không đủ TS đảm bảo. Tuy vậy, không
một Ngân hàng nào có thể dự đoán mọi biến động của nền kinh tế, lường trước mọi rủi ro
có thể xảy ra, do đó tài sản đảm bảo vẫn luôn là một biện pháp hữu hiệu để ngăn ngừa và
chống đỡ rủi ro tín dụng.
2; Các hình thức bảo đảm tín dụng.
Bảo đảm tín dụng có thể chia 2 hình thức. Bảo đảm đối vật và Bảo đảm đối nhân.
2.1: Bảo đảm đối nhân.
Với hình thức này,Ngân hàng có thể cho vay dựa trên những khả năng của khách hàng
không cần đưa ra bất cứ tài sản gì để đảm baỏ cho khoản vay. Khoản vay muốn được Ngân
hàng chấp thuận trên cơ sở như thế thì phải đảm bảo các yêu cầu riêng của Ngân hàng.
Bảo đảm đối nhân gồm các hình thức: Tín chấp và Bảo lãnh.
*Bảo lãnh.
Bảo lãnh vay vốn Ngân hàng là việc người thứ ba ( Pháp nhân hoặc thể nhân gọi là bên bảo
lãnh ) cam kết với bên cho vay ( Bên nhận bảo lãnh ) sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho
bên vay vốn ( bên được bảo lãnh ) nếu khi đến hạn mà bên bảo lãnh không hoàn trả được
toàn bộ hay một phần nợ vay bao gồm cả gốc và lãi và tiền phạt quá hạn cho bên nhận bảo
lãnh.Bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh bằng tài sản của mình hoặc các bên có thể thoả thuận
bên bảo lãnh phải thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh bằng uy tín của mình.
Bảo lãnh là một hình thức đảm bảo gián tiếp nhưng được sử dụng tương đối rộng. Nó mang
ý nghĩa quan trọng với việc mở rộng và khuyến khích đầu tư. Điều quan trọng là người bảo
lãnh và được bảo lãnh phải có quan hệ tín nhiệm với nhau,phải biết trước được đạo đức của
người vay, tính khả thi của dự án mà người vay thực hiện. Bảo lãnh có thể là bảo lãnh một
phần hoặc toàn bộ số nợ vay. Nhiều bên bảo lãnh có thể bảo lãnh cho một bên để thực hiện
một hợp đồng vay vốn. Mỗi bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh một phần nợ gốc, lãi ,phạt quá
hạn và ký một hợp đồng bảo lãnh độc lập.
Hoạt động bảo lãnh ở Việt Nam chủ yếu do các NHTM đảm nhận cho khách hàng tham gia
các dự án hoặc xin vay ở các ngân hàng khác.
*Bảo đảm bằng uy tín-hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Đây là hình thức Ngân hàng cho khách hàng vay dựa trên uy tín của khách hàng, khách
hàng không phải trao cho Ngân hàng bất cứ vật gì làm tin. Hình thức cho vay này dựa trên
cơ sở tín nhiệm trong quan hệ tín dụng đối với Ngân hàng.
Một khách hàng phải có đủ các điều kiện vay vốn như tư cách pháp nhân, không có nợ quá
hạn, có một lượng vốn tự có nhất định, có uy tín mới được Ngân hàng xem xét cho vay. Để
thực hiện được hình thức bảo đảm này, Ngân hàng cần phải xem xét tình hình tài chính,
tình hình kinh doanh của đơn vị để rút ra kết luận về khả năng thanh toán, khả năng cân đối
vốn, khả năng hoạt động sản xuất kinh doanh
Hình thức bảo đảm này thường được áp dụng cho khu vực kinh tế quốc doanh. Hình thức
này có nhiều ưu điểm trong việc thúc đẩy mối quan hệ làm ăn lâu dài giữa Ngân hàng và
khách hàng, giảm bớt quy trình tín dụng khi thực hiện món vay nhưng rủi ro mang theo là
rất lớn.
2.2: Bảo đảm đối vật.
Là hình thức bảo đảm tín dụng mà trong đó Ngân hàng đóng vai trò chủ nợ, được hưởng
một số quyền hạn nhất định đối với tài sản của khách hàng nhằm làm căn cứ để thu hồi nợ
trong trường hợp con nợ không trả hoặc không có khả năng hoàn trả.
Việc bảo đảm bằng tài sản được thể hiện dưới hai hình thức
*Thế chấp.
Thế chấp là việc bên vay vốn Ngân hàng dùng tài sản là bất động sản và một số động sản
thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ ( bao gồm nợ gốc, lãi và tiền
phạt quá hạn ) đối với bên cho vay. Đây là phương thức nhất thiết phải bảo đảm trong hoạt
động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ sản xuất, cá thể. Đối với doanh
nghiệp nhà nước hình thức thế chấp cũng có thể được áp dụng tuỳ thuộc vào mối quan hệ
với doanh nghiệp của Ngân hàng.
Tài sản được dùng để thế chấp là bất động sản và một số loại động sản nhất định được quy
định rõ với thời hạn bất kì ( tàu biển, máy bay ). Người ta có thể dùng TSTC để vay vốn
ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Đối với thế chấp, Ngân hàng bao giờ cũng nắm giữ các
giấy tờ sở hữu gốc.
* Cầm cố.
Cầm cố tài sản vay vốn Ngân hàng là việc bên vay vốn ( bên cầm cố ) có nghĩa vụ giao tài
sản là động sản thuộc sở hữu của mình cho bên cho vay vốn ( bên nhận tài sản cầm cố ) để
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ ( bao gồm nợ gốc, lãi và tiền phạt lãi quá hạn). Nếu tài
sản mà pháp luật quy định đăng ký quyền sở hữu hoặc có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu
thì các bên có thể thoả thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản cầm cố và giao bản gốc giấy tờ
quyền sở hữu tài sản cầm cố để vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
B: Tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay và xử lý TSTC hình thành từ vốn vay trong hoạt
động kinh doanh của nhtm.
I: Tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay và vai trò của nó.
Tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay là tài sản mà giá trị của nó do một phần hoặc toàn
bộ khoản vay Ngân hàng tạo nên được khách hàng sử dụng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ
trả nợ cho chính khoản vay đó đối với Ngân hàng bằng cách giao giấy tờ sở hữu tài sản và
xác nhận cho Ngân hàng quyền phát mại tài sản khi khách hàng không hoàn trả được nợ
vay. Tài sản hình thành từ vốn vay gồm : Nhà cửa, công trình xây dựng ; Máy móc, thiết
bị, phương tiện vận tải, tàu biển, máy bay ; Hàng hóa nhập khẩu.
Hình thức bảo đảm này đặc biệt có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp không đủ tài sản thế
chấp, nhất là đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nó vừa góp phần quan trọng giải
quyết nhu cầu về vốn để mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, vừa
giúp Ngân hàng mở rộng phạm vi cho vay bằng nhiều loại tài sản nhằm tăng lợi nhuận,
đảm bảo các yếu tố về mặt pháp lý, hạn chế được những quy định khắt khe của NHNN,
giảm bớt được rủi ro tín dụng và duy trì mối quan hệ khách hàng tiềm năng để cung cấp
dịch vụ Ngân hàng.
II: Điều kiện đối với khách hàng vay và TSTC hình thành từ vốn vay khi bảo đảm tiền vay
bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
Ngân hàng lựa chọn áp dụng việc bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốnvay khi
cho vay trung hạn, dài hạn đối với các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ, đời sống nếu khách hàng vay và tài sản hình thành từ vốn vay đáp ứng được các điều
kiện quy định sau:
1; Đối với khách hàng.
Khách hàng vay được sử dụng TSTC hình thành từ vốn vay làm tài sản đảm bảo phải là
khách hành có tín nhiệm đối với Ngân hàng, có khả năng tài chính và có các nguồn thu hợp
pháp trong thời hạn vay vốn để thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng. Đồng thời các
khách hàng này phải đưa ra dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi, có
khả năng hoàn trả nợ; hoặc các dự án,phương án phục vụ đời sống khả thi, phù hợp với quy
định pháp luật. Ngoài ra, khách hàng phải đảm bảo có mức vốn tự có ( vốn chủ sở hữu )
tham gia dự án đầu tư và giá trị tài sản đảm bảo tiền vay bằng các biện pháp thế chấp, cầm
cố, bảo lãnh của bên thứ ba tối thiểu bằng 30% tổng vốn đầu tư của dự án.
2; Đối với tài sản hình thành từ vốn vay.
Tài sản hình thành từ vốn vay dùng làm bảo đảm tiền vay phải xác định được:
Thứ nhất : Quyền sở hưũ của khách hàng vay. Đối với tài sản là quyền sử dụng đất thì phải
xác định quyền sử dụng của khách hàng vay và được thế chấp theo quy định của pháp luật
về đất đai. Đối với tài sản của doanh nghiệp nhà nước phải xác định được quyền quản lý,
sử dụng tài sản là bất động sản gắn liền với đất, thì khách hàng vay phải có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của khu đất mà trên đó tài sản sẽ được hình thành và phải hoàn
thành các thủ tục về đầu tư xây dựng theo quy hoạch của pháp luật.
Thứ hai : Phải xác định danh mục, số lượng, giá trị, đặc điểm của tài sản. Việc xác định
yếu tố này dựa vào dự án đầu tư hoặc phương án phục vụ đời sống.
Thứ ba : Tài sản được phép giao dịch và không có tranh chấp.
Đối với tài sản hình thành từ vốn vay mà pháp luật quy định phải mua bảo hiểm thì khách
hàng vay phải cam kết mua vảo hiểm trong suốt thời hạn vay vốn khi tài sản đã được hình
thành đưa vào sử dụng.
III: Quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan trong hoạt động cho vay có TSTC hình thành
từ vốn vay.
Trong hoạt động cho vay có TSTC hình thành từ vốn vay, cả khách hàng và Ngân hàng đều
có những quyền lợi và nghĩa vụ nhất định.
1; Về phía khách hàng vay.
Khách hàng vay có quyềnlợi sau:
Một là : Được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản, trừ trường hợp hoa lợi
và lợi tức cùng thuộc tài sản bảo đảm tiền vay.
Hai là : Khách hàng thuê, cho mượn tài sản nếu có thoả thuận với Ngân hàng cho vay.
Đồng thời khách hàng cũng phải thực hiện các nghĩa vụ như:
Phải giao cho Ngân hàng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cuả khu đất mà tài sản
là bất động sản sữ được hình thành khi kí kết hợp đồng thế chấp bằng tài sản hình
thành từ vốn vay.
Thông báo cho Ngân hàng về quá trình hình thành và tình trạng tài sản đảm bảo, tạo
điều kiện để Ngân hàng kiểm tra tài sản đảm bảo tiền vay.
Đối với TSTC mà pháp luật quy định đăng kí quyền sở hữu trước khi đưa vào sử
dụng phải đăng kí sở hữu tài sản và giao cho Ngân hàng giữ bản chính giấy chững
nhận sở hữu đó.
Không được bán, chuyển nhượng, tặng, cho, góp vốn liên doanh, hoặc dùng tài sản
hình thành từ vốn vay để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ khác khi chưa trả hết nợ cho
Ngân hàng, trừ trường hợp Ngân hàng đồng ý cho bán để trả nợ cho chính khoản
vay được đảm bảo.
2; Về phía Ngân hàng.
Ngân hàng có các quyền và nghĩa vụ sau:
Quyền yêu cầu khách hàng vay thông báo tiến độ hình thành tài sản đảm bảo và sự
thay đổi của tài sản đảm bảo tiền vay.
Quyền tiến hành kiểm tra và yêu cầu khách hàng vay cung cấp các thông tin để
kiểm tra, giám sát tài sản hình thành từ vốn vay.
Quyền thu hồi nợ trước hạn nếu phát hiện vốn vay không được sử dụng để hình
thành tài sản như đã cam kết.
Quyền xử lý tài sản hình thành từ vốn vay để thu nợ khi khách hàng vay không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ.
Nghĩa vụ thẩm định, kiểm tra để đảm bảo khách hàng vay và tài sản hình thành từ
vốn vay đáp ứng các điều kiện quy định.
Nghĩa vụ hoàn trả cho khách hàng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận quyền sở hữu tài sản ( nếu có ) sau khi khách hàng hoàn thành nghĩa vụ trả nợ.
IV : Quy trình cho vay có TSTC hình thành từ vốn vay trong hoạt động kinh doanh của
NHTM.
Là một loại hình trong bảo đảm tiền vay bằng tài sản, quy trình cho vay có thế chấp bằng
tài sản hình thành từ vốn vay đều có những đặc trưng chung của quy trình nghiệp vụ cho
vay như: Xem xét yêu cầu vay vốn của khách hàng, nghiên cứu và đánh giá hoạt động của
doanh nghiệp, đàm phán về tiền vay, gia hạn nợ và lãi suất kí kết hợp đồng tín dụng và
cuối cùng là khách hàng hoàn trả nợ vay và thanh lý hợp đồng.
Ngoài ra, quy trình cho vay này còn tiến hành một số công tác riêng biệt sau:
1: Định giá tài sản thế chấp.
Sau khi nhân viên tín dụng đã phân tích hồ sơ vay vốn của khách hàng, năng lực vay nợ,
mục đích vay vốn, khả năng tài chính và uy tín.Tất cả đều phù hợp với chính sách của Nhà
nước và mức độ rủi ro có thể chấp nhận được thì Ngân hàng tiến hành giám định về hồ sơ
của tài sản và định giá TSTC.
1.1; Giám định tính chất pháp lý của tài sản.
Tài sản đảm bảo phải đủ điều kiện do pháp luật quy định cụ thể : Tài sản thuộc sở hữu hợp
pháp của người đem thế chấp, không có tranh chấp, được phép giao dịch theo quy định
của pháp luật.
1.2;Kiểm tra tính dễ chuyển nhượng của TSTC.
Tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay phải là loại tài sản dễ chuyển nhượng được trên thị
trường. Ngân hàng không chấp nhận các loại tài sản thuộc loại ứ đọng, kém phẩm chất,
hàng hoá đặc chủng hoặc dễ bị phá huỷ do tác động của môi trường, thời gian làm tài
sản đảm bảo. Cán bộ tín dụng phải có trách nhiệm khảo sát, nghiên cứu kỹ lưỡng trên thị
trường về các loại hàng hóa mà khách hàng đề nghị dùng làm tài sản đảm bảo để kết luận
về tính dễ tiêu thụ của hàng hóa.
1.3; Định giá TSTC.
Việc định giá TSTC do cán bộ tín dụng chuyên trách về định giá TSTC tiến hành. Với
TSTC hình thành từ vốn vay là nhà cửa, công trình xây dựng thì giá trị tài sản được xác
định căn cứ vào dự toán chi phí xây dựng do bên thế chấp xác định trên cơ sở các quy định
hiện hành của Nhà nước hoặc phải phù hợp với mức giá thực tế trên thị trường.Với TSTC
hình thành từ vốn vay là máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, tàu biển,máy bay giá trị
tài sản được xác định căn cứ vào mức giá ghi trên hoá đơn chứng từ hoặc hợp đồng mua
bán giữa bên thế chấp với người cung cấp máy móc ,thiết bị, phương tiện vận tải và kiểm
tra, đối chiếu với mức giá thị trường của tài sản cùng loại. Với hàng hoá nhập khẩu : Giá
trị tài sản thế chấp được xác định căn cứ vào giá trị ghi trên hoá đơn chứng từ hàng hoá
nhập khẩu nếu tiền vay dùng để thanh toán tiền mua hàng nhập khẩu hoặc căn cứ vào mức
giá ghi trên chứng từ hàng nhập khẩu cộng tiền thuế nếu tiền vay dùng để thanh toán tiền
mua hàng nhập khẩu và nộp tiền thuế nhập khẩu.
2: Xác định mức cho vay dựa vào TSTC.
Sau khi đã xác định được giá trị TSTC thì Ngân hàng xác định mức cho vay dựa vào
TSTC . Một trong những nhân tố quan trọng đảm bảo an toàn của tín dụng thế chấp là tỉ lệ
giữa giá trị khoản vay và giá thị trường của tài sản dùng làm thế chấp. Nói chung tỉ lệ giá
trị khoản vay trong giá trị TSTC càng lớn thì khả năng vi phạm các cam kết của người vay
càng lớn vì phần tài sản bỏ ra của người vay trong giá trị tài sản dùng làm thế chấp là
nhỏ.Vì vậy, để phòng trường hợp người vay không mất khả năng trả nợ, về mặt quy định,
mức cho vay của Ngân hàng bao giờ cũng thấp hơn giá trị tài sản theo định mức ( thông
thường là 70% giá trị TSTC ). Tuy nhiên,giá trị của tài sản thường xuyên biến động theo
thị trường, vì vậy tuỳ theo mức độ biến động của từng loại tài sản mà ấn định tỉ lệ cho vay
thích hợp. Loại tài sản ít biến động giá, mức cho vay có thể lên đến 80% giá trị tài sản.
Còn tài sản có mức biến động lớn, tỉ lệ cho vay có thể là 50%. Ngoài ra việc quy định tỉ lệ
cho vay còn tuỳ thuộc và từng thời kỳ phát triển kinh tế.
3: Kí kết hợp đồng và quản lý TSTC.
3.1; Lập giấy thế chấp tài sản hoặc hợp đồng TSTC và lưu giữ giấy chứng nhận
quyền sở hữu tài sản.
Sau khi đã thoả thuận mức cho vay và các điều kiện về tín dụng, khách hàng vay vốn phải
lập giấy TSTC đồng thời chuyển giao giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản cho Ngân
hàng. Tuỳ theo quy định cụ thể của pháp luật mà thực hiện các thủ tục về hành chính thích
hợp như : xác nhận của cơ quan công chứng và đăng ký với cơ quan quản lý tài sản thích
hợp.
3.2; Giải toả TSTC và trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản.
Sau khi khách hàng đã thanh toán nợ, cả vốn gốc và lãi thì Ngân hàng lập hồ sơ để giải toả
TSTC. Giấy đề nghị giải quyết TSTC phải chuyển đến cơ quan thích hợp ( Cơ quan công
chứng, cơ quan quản lý tài sản ).Đồng thời Ngân hàng trả lại giấy chứng nhậnvề quyền sở
hữu tài sản cho khách hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng của Ngân hàng rất đa dạng và phức tạp, từ các
doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp tư nhânđến các hộ gia
đình; từ khu vực sản xuất vật chất đến các hoạt động du lịch.Vì vậy yếu tố đầu tiên mà các
Ngân hàng dựa vào để đánh giá mức độ rủi ro tín dụng, từ đó quyết định có cấp tín dụng
hay không là sự hiểu biết nhất định về khách hàng. Do đó trong quy trình cho vay ( có tài
sản đảm bảo và không có tài sản đảm bảo ) dù có những điểm khách biệt song một nội
dung chung mà các Ngân hàng đều phải đặc biệt quan tâm đến là tư cách đạo đức, khả
năng lãnh đạo, năng lực hoàn trả của doanh nghiệp vì đó chính là cơ sở quan trọng nhất để
Ngân hàng bảo đảm an toàn khoản tiền cho vay.
V:Vấn đề xử lý TSTC hình thành từ vốn vay trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
1;Thời điểm phát sinh xử lý TSTC.
Cho vay có tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay không còn là một hoạt động kinh doanh
mới của Ngân hàng nhưng nó lại có tính đặc thù cao bởi lẽ khi Ngân hàng thực hiện những
khoản cho vay này đồng nghĩa với việc Ngân hàng nhận chính tài sản hình thành do một
phần hoặc toàn bộ khoản vay đó làm tài sản đảm bảo. Khi cho vay có TSTC loại này,
Ngân hàng đã phải thực hiện quy trình cấp tín dụng tương đối chặt chẽ thông qua quá trình
thẩm định tín dụng một cách kĩ càng, thường xuyên theo dõi, giám sát khách hàng và tiến
độ hình thành tài sản. Tuy vậy, bản thân Ngân hàng cũng không loại bỏ hết được những
rủi ro tiềm ẩn bên trong đó. Do vậy, việc khách hàng không hoàn trả nợ vay dẫn đến các
khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi là không tránh khỏi. Vì thế vấn đề đặt ra là Ngân hàng xử lý
TSTC loại này như thế nào để thu hồi vốn và giảm bớt thiệt hại trong quá trình kinh doanh
Ngân hàng.
Có thể nói, xử lý TSTC nói chung và xử lý TSTC hình thành từ vốn vay nói riêng là một
biện pháp để thu hồi các khoản nợ mà khách hàng không có khả năng hoàn trả khi đến
hạn. Đối với trường hợp khách hàng không trả được nợ đúng hạn, Ngân hàng vẫn tiếp tục
xem xét khả năng trả nợ của khách hàng và cho gia hạn nợ nếu xét thấy khách hàng vẫn
còn khả năng thanh toán. Mục tiêu của Ngân hàng không phải là bắt nợ khách hàng mà cố
gắng tối đa để giúp khách hàng trả nợ được cho Ngân hàng. Ngân hàng có thể cấp thêm
vốn cho khách hàng để tiếp tục duy trì sản xuất nếu dự án còn khả thi và nguyên nhân
không trả được nợ là do khách hàng thiếu vốn để sản xuất kinh doanh.
Chính vì vậy, việc xử lý TSTC chỉ nên áp dụng sau khi đã thẩm định, phân tích kỹ khả
năng tồn tại để tiếp tục sản xuất, kinh doanh của đơn vị vay. Nếu xét thấy nhu cầu thị
trường vẫn chấp nhận được các sản phẩm và dịch vụ mà đơn vị đó cung ứng với giá đảm
bảo kinh doanh thì tốt hơn hết là Ngân hàng không nên xử lý TSTC để thu nợ, mà nên tiếp
tục gia hạn, hoặc điều chỉnh kỳ hạn trả nợ đối với đơn vị đó. TSTC chỉ nên xử lý bằng
phát mại khi doanh nghiệp không còn khả năng hoàn trả cho Ngân hàng do dự án vay vốn
không khả thi hoặc doanh nghiệp bị phá sản.
2; Phương thức xử lý TSTC.
Trong trường hợp đã đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên thế chấp không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên nhận thế chấp có quyền xử lý tài sản đem thế
chấp.
Đối với các loại tài sản thông thường: Ngân hàng có thể có các phương pháp như yêu cầu
bán đấu giá TSTC để thực hiện nghĩa vụ. Với những tài sản có giá trị nhỏ, Ngân hàng có
thể trực tiếp quản lý tài sản đó. Khi đó việc xử lý tài sản do Ngân hàng quyết định đứng ra
phát mại. Ngân hàng được ưu tiên thanh toán từ số tiền bán TSTC, sau khi trừ đi chi phí
bảo quản, bán đấu giá tài sản. Với những tài sản lớn, có giá trị cao và theo quy định của
pháp luật thì sẽ do cơ quan trung gian đứng ra quản lý. Khi xử lý TSTC, Ngân hàng phải
làm đơn kiện lên cơ quan có thẩm quyền đòi xử lý bồi thường. Ngoài ra, Ngân hàng có thể
áp dụng các hình thức khác như: để bên thế chấp tự đứng ra bán tài sản, hai bên cùng bán
tài sản, uỷ quyền cho tổ chức tín dụng khác bán tài sản
Trong trường hợp phải xử lý TSTC để thực hiện một nghĩa vụ đến hạn, thì các nghĩa vụ
khác tuy chưa đến hạn cũng được coi là đến hạn. Thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định
theo thứ tự đăng ký thế chấp.
Đối với quyền sử dụng đất đã thế chấp: Khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm
bằng thế chấp quyền sử dụng đất mà bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ thì quyền sử dụng đất được xử lý. Trong trường hợp đất nông nghiệp, đất
lâm nghiệp để trồng rừng đã thế chấp tại Ngân hàng thì bên nhận thế chấp có quyền yêu
cầu cơ quan Nhà nước có quyền tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất để thu hồi vốn và lãi,
trong trường hợp quyền sử dụng đất ở đã thế chấp với tổ chức kinh tế, cá nhân thì bên
nhận thế chấp có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tổ chức đấu giá quyền
sử dụng đất để thu hồi vốn và lãi.
Chấm dứt TSTC : Thế chấp tài sản chấm dứt trong trường hợp nghĩa vụ được bảo đảm
bằng thế chấp đã được thực hiện, việc tài sản thế chấp được huỷ bỏ hay được thay thế
bằng biện pháp bảo đảm khác và trường hợp TSTC đã được xử lý.
Khi thế chấp chấm dứt, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã đăng ký việc thế chấp xác
nhận việc giải trừ thế chấp.
3; Yêu cầu về xử lý TSTC.
Dù là xử lý TSTC hình thành từ vốn vay hay TSTC là tài sản của người đi vay thì cũng
luôn là một vấn đề khó khăn và phức tạp, đòi hỏi phải có sự thận trọng lựa chọn chính
sách và taọ môi trường cho các giải pháp xử lý. Để đảm bảo tính khả thi cao của giải pháp
xử lý, cần đảm bảo các yêu cầu sau:
Một là: Các giải pháp phải có tính dân chủ và xã hội hoá cao; Dưới sự chỉ đạo của Chính
phủ, các giải pháp có sự thống nhất từ luật pháp, cơ chế, chính sách đến tổ chức thực hiện
đòi hỏi phải thu hút được sự hợp tác đầy trách nhiệm của các doanh nghiệp, các tổ chức tín
dụng, các nhóm khách hàng cũng như của nhân dân.
Hai là: Cần có các giải pháp vĩ mô của Chính phủ để tạo ra thị trường lưu thông nợ và tài
sản nhằm đưa tài sản và tiền vốn bị kẹt vào sử dụng sinh lợi, tạo đà đẩy nhanh tiến trình
lành mạnh hoá hoạt động tài chính của các khoản vay có thế chấp.
Ba là: Các giải pháp xác định được phạm vi,mục tiêu lâu dài để áp dụng và động viên thu
hút sự tham gia xử lý ở phạm vi rộng.
Bốn là: Các giải pháp phải mang tính đa dạng, có khả năng kết nối, tôn trọng quyền lựa
chọn của các bên và xử lý được nhiều tình huống.
Năm là: Các giải pháp phải hướng tới việc tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước, đặc biệt
là của Ngân hàng Nhà nước, quy định các điều kiện bảo đảm tính an toàn các nghiệp vụ và
ổn định toàn hệ thống, khung giám sát và luật lệ cần được củng cố lại.
4; Các yếu tố ảnh hưởng đến việc xử lý TSTC.
4.1; Các yếu tố thuộc về Ngân hàng.
4.1.1: Chất lượng đội ngũ cán bộ thẩm định.
Con người luôn là yếu tố quan trọng quyết định tới sự thành bại của công việc. Đối với
ngành Ngân hàng, để đạt được qui mô và chất lượng của hoạt động tín dụng thì trước tiên
phải kể đến chất lượng đội ngũ cán bộ thẩm định . Với một đội ngũ cán bộ thẩm định có
năng lực, có trách nhiệm, có chuyên môn vững sẽ góp phần nâng cao hiệu quả công tác
thẩm định, giúp Ngân hàng tránh được những rủi ro có thể xảy ra. Ngoài ra, đội ngũ cán
bộ có khả năng chuyên sâu từng lĩnh vực, phân tích được tình hình biến động của thị
trường sẽ giúp cho việc định giá TSTC được đúng, giảm bớt thiệt hại cho Ngân hàng khi
phải phát mại TSTC để thu hồi nợ. Đội ngũ cán bộ thẩm định có đạo đức tốt, trong sáng và
nhiệt tình trong công việc sẽ tránh được tình trạng cấu kết với khách hàng để lừa đảo Ngân
hàng thông qua việc nhận TSTC không có giá trị hoặc giá trị thấp, gây khó dễ cho Ngân
hàng nếu phải xử lý TS này.
4.1.2:Công tác quản lý, tổ chức, kiểm soát hoạt động Ngân hàng.
Tài sản hình thành từ vốn vay không phải là tài sản thực có của doanh nghiệp, mà nó được
hình thành từ chính vốn vay Ngân hàng. Do đó, nghĩa vụ quản lý tài sản và quản lý khoản
tiền cho vay của Ngân hàng gắn kết với nhau. Chính điều đó đòi hỏi công tác quản lý, tổ
chức, kiểm soát hoạt động Ngân hàng phải được thực hiện tốt. Công tác này dược tiến
hành chặt chẽ, có trình tự và thường xuyên sẽ khuyến khích các hoạt động thẩm định được
diễn ra lành mạnh, ngược lại sẽ tạo khe hở cho một số cán bộ tín dụng gây hậu quả
nghiem trọng cho Ngân hàng.
Công tác quản lý, tổ chức, kiểm soát hoạt động tốt sẽ giúp Ngân hàng nắm rõ thông tin về
khoản vay, thực trạng TSTC để tránh tình trạng khách hàng sử dụng tiền vay sai mục đích,
lừa đảo Ngân hàng.
4.2: Các yếu tố thuộc về khách hàng.
4.2.1; Năng lực của khách hàng.
Năng lực của khách hàng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với Ngân hàng trong việc ra
quyết định cho vay và thu hồi nợ. Các Ngân hàng khi thực hiện khoản cho vay đều muốn
sau một thời gian nhất định sẽ thu hồi lại khoản vay đó và tiền lãi. Tuy nhiên, nếu năng lực
khách hàng kém, phương án kinh doanh không khả thi, những yếu kém trong công tác
quản lý dẫn đến làm ăn thua lỗ, không hoàn trả được nợ vay cho Ngân hàng, tác động
nghiêm trọng đến chất lượng tín dụng Ngân hàng.
4.2.2;Đạo đức khách hàng.
Thái độ của khách hàng đối với việc sẵn sàng hoàn trả nợ vay cho Ngân hàng là hết sức
quan trọng. Nếu khách hàng tôn trọng và hợp tác với Ngân hàng, đưa ra các báo cáo tài
chính rõ ràng, lành mạnh, trung thực khi xin cấp tín dụng để giúp Ngân hàng thực hiện
thẩm định dễ dàng và có hiệu quả, do đó có thể đáp ứng tốt nhu cầu về vốn cho khách
hàng. Khi phát sinh xử lý TSTC, khách hàng có trách nhiệm phối hợp tốt với Ngân hàng
để đưa ra các biện pháp xử lý cho phù hợp với quy định và yêu cầu của hai bên thì việc xử
lý TSTC sẽ diễn ra thuận lợi hơn. Ngược lại, khi khách hàng gây khó dễ cho Ngân hàng
trong việc xử lý TSTC sẽ ảnh hưởng xấu đến tiến trình thu nợ của Ngân hàng, làm giảm
hiệu quả hoạt động tín dụng Ngân hàng.
4.3: Các yếu tố khách quan.
4.3.1; Môi trường kinh tế.
Môi trường kinh tế tác động đến hoạt động Ngân hàng trên nhiều khía cạnh. Các chủ
trương, chính sách kinh tế của Nhà nước trực tiếp ảnh hưởng đến quy mô và chất lượng tín
dụng của Ngân hàng cũng như công tác xử lý TSTC. Nhà nước với chủ trương khuyến
khích phát triển các lĩnh vực ngành nghề kinh doanh đã tạo ra nhu cầu lớn về vốn cho
Ngân hàng, giúp Ngân hàng mở rộng cho vay ra nền kinh tế. Những quy định , cơ chế với
từng ngành nghề của Nhà nước có thể tạo cơ hội nâng cao hiệu quả hoạt động của các
doanh nghiệp nhưng cũng có thể gây ra những khó khăn, do đó tác động đến kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả vốn vay cho Ngân hàng.Những
chủ trương chính sách trong từng thời kỳ của Đảng và Nhà nước có thể ảnh hưởng rất lớn
đến việc phát mãi tài sản thế chấp, thu hồi nợ của Ngân hàng. Ngoài ra, vấn đề về thị hiếu,
nhu cầu dân chúng cũng tác động đến việc phát triển thị trường vật thế chấp như thị trường
bất động sản, thị trường đất đai, thị trường máy móc, thiết bị tạo điều kiện cho các Ngân
hàng phát mãi tài sản thế chấp được dễ dàng.
4.3.2; Môi trường pháp lý.
Môi trường pháp lý ổn định sẽ thuận tiện hơn rất nhiều cho việc kinh doanh của Ngân
hàng cũng như của khách hàng. Các văn bản luật và các quy địnhvề cho vay có tài sản
đảm bảo, về đăng ký giao dịch đảm bảo, về xử lý TSTC vẫn còn nhiều bất cập, thiếu
đồng bộ, gây khó khăn cho Ngân hàng khi xét duyệt cho vay và xử lý TSTC thu hồi nợ.
Các thủ tục pháp lý rườm rà nhiều khi khiến các doanh nghiệp ít có cơ hội vay vốn phát
triển sản xuất. Nhiều kẽ hở pháp luật bị các doanh nghiệp lợi dụng để không thực hiện
đúng cam kết với Ngân hàng, gây ra tổn thất cho Ngân hàng.
4.3.3; Môi trường chính trị.
Môi trường chính trị ổn định, các doanh nghiệp sẽ mạnh dạn đầu tư, nâng cao hiệu quả
hoạt động, thực hiện hoàn trả nợ cho Ngân hàng đúng hạn. Ngoài ra, môi trường chính
trị ổn định sẽ tạo thuận lợi cho việc ban hành các văn bản pháp luật có tính đồng bộ cao,
giúp Ngân hàng giải quyết những vướng mắc trong cho vay và xử lý TSTC thu hồi nợ
đồng thời nâng cao trách nhiệm của khách hàng.
VI: ý nghĩa của việc xử lý TSTC trong hoạt động tín dụng của NHTM.
Đối tượng kinh doanh của Ngân hàng thương mại là tiền tệ. Mục tiêu hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng là nhằm đạt được lợi nhuận. Đồng tiền không được luân chuyển sẽ không
đem lại cho Ngân hàng nguồn thu, do đó không đạt được mục tiêu đề ra. Tuy vậy, hoạt
động Ngân hàng luôn chứa đựng đầy các yếu tố bất ngờ, rủi ro là không lường trước được,
Ngân hàng thường xuyên phải đối mặt với sự tồn đọng của các khoản vốn cho vay và đứng
trước nguy cơ không thu hồi được đủ giá trị ban đầu của nguồn vốn. Vì vậy, việc xử lý
TSTC để thu hồi nợ có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ riêng đối với Ngân hàng, mà nó
còn giúp khách hàng giảm bớt gánh nặng nợ nần.
1; Đối với Ngân hàng.
Xử lý TSTC sẽ giúp Ngân hàng thương mại khai thông nguồn vốn bị ứ đọng, tạo điều kiện
phát huy tác dụng của nó, mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng. Phát mại TSTC sẽ giúp các
Ngân hàng thu hồi được một phần lượng vốn đã mất do khách hàng không trả được nợ và
giảm chi phí do nguồn vốn cho vay không thu được lãi nhưng vẫn phải trả lãi cho nguồn
tiền gửi của dân cư, đồng thời có thể đầu tư các nguồn vốn này vào các dự án khác mang
lại lợi nhuận cho Ngân hàng.
Xử lý TSTC cũng sẽ giúp các Ngân hàng thương mại giảm chi phí do việc phải bảo quản,
bảo dưỡng TSTC khi các tài sản này phải ngừng hoạt động để đưa vào diện xử lý thu nợ.
Đối với những NHTM mà khối lượng TSTC lớn do nhiều khách hàng không trả được nợ,
bán TSTC sẽ giúp các Ngân hàng thu hồi nợ, tránh rơi vào tình trạng phá sản do không đủ
khả năng thanh toán cho khách hàng gửi tiền. Xử lý TSTC sẽ là một biện pháp tạo đà đẩy
nhanh tiến trình lành mạnh hoá hoạt động tài chính của các tổ chức tín dụng.
2; Đối với khách hàng.
Tâm lý khách hàng vay vốn Ngân hàng để muốn kinh doanh có hiệu quả, thu được lợi
nhuận để trả nợ vay cho Ngân hàng, không ai muốn bị rủi ro, dẫn đến phải bán TSTC để
trả nợ cho Ngân hàng. Tuy nhiên, điều đó lại thường xuyên xảy ra và đưa các khách hàng
vào tình trạng buộc phải bán TSTC để trả nợ. Có những khách hàng do nguồn lực tài chính
hùng mạnh,họ tin tưởng vào khả năng kinh doanh của mình và rủi ro là do yếu tố khách
quan thì có xu hướng xin Ngân hàng điều chỉnh kỳ hạn nợ hoặc gia hạn nợ để tiếp tục kinh
doanh nhằm trả nợ Ngân hàng. Dù vậy, số lượng khách hàng này rất ít và chủ yếu số khách
hàng còn lại thường rơi vào tình trạng không thể trả nợ Ngân hàng, hoặc nếu trả được thì
dây dưa, kéo dài trong thời gian lâu. Và vì vậy, Ngân hàng buộc phải bán TSTC của họ để
thu nợ. Việc bán TSTC nếu đủ trả nợ sẽ giúp các khách hàng hoàn thành được nghĩa vụ trả
nợ của mình và nếu chưa đủ trả nợ cũng giúp khách hàng giảm bớt được nợ đối với Ngân
hàng . Và quan trọng hơn sẽ giúp các khách hàng tránh phải ra hầu toà do không trả được
nợ cho Ngân hàng.
Mặc dầu xử lý TSTC là một yêu cầu bắt buộc nếu khách hàng không thực hiện nghĩa vụ trả
nợ của mình đối với Ngân hàng. Song không vì thế các Ngân hàng thực hiện xử lý một
cách nguyên tắc mà có tình có lý đối với khách hàng đặc biệt là đối với TSTC là nhà ở của
các cá nhân. Ngân hàng vẫn sẽ phát mãi TSTC nhưng số tiền thu được một phần được sử
dụng để đảm bảo nơi ăn chốn ở cho khách hàng. Phần còn lại mới là phần thu nợ của Ngân
hàng. Như vậy khách hàng vừa đảm bảo được nghĩa vụ trả nợ lại vừa đảm bảo được nơi ăn
chốn ở cho mình.
Do đó, đối với cả Ngân hàng và khách hàng, mặc dù xử lý TSTC thu hồi nợ không phải là
một giải pháp tối ưu nhưng nó đáp ứng được yêu cầu cấp bách là thu hồi nợ cho Ngân
hàng, đảm bảo an toàn cho người gửi tiền năng.