Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

luận văn Đặc điểm tiêu đề trên báo điện tử Đồng Nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 113 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ LÝ THIÊN TRƯỜNG

ĐẶC ĐIỂM TIÊU ĐỀ TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HÀ NỘI, 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ LÝ THIÊN TRƯỜNG

ĐẶC ĐIỂM TIÊU ĐỀ TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ ĐỒNG NAI

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 02 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS. NGUYỄN VĂN HIỆP

HÀ NỘI, 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trích
dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.

TÁC GIẢ

VŨ LÝ THIÊN TRƯỜNG


LỜI CẢM ƠN
Lời cảm ơn đầu tiên và sâu sắc nhất của em xin được gửi tới thầy giáo, GS.TS.
Nguyễn Văn Hiệp, người đã rất quan tâm và tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình
làm luận văn. Thầy đã cho em thêm nhiều kiến thức về ngôn ngữ học cũng như giúp
em rèn luyện kỹ năng nghiên cứu khoa học.
Em cảm ơn gia đình, bạn bè và các bạn đồng nghiệp đã động viên giúp đỡ em
trong suốt quá trình học tập và hoàn thành đề tài.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều trong học tập, nghiên cứu, hoàn thiện luận văn
nhưng chắc chắn đề tài còn có thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của các thầy cô giáo, đồng nghiệp để đề tài được tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2017

Tác giả

VŨ LÝ THIÊN TRƯỜNG



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN ............................................................................. 6
1.1. Hệ thống phong cách và phong cách ngôn ngữ báo chi ...................................... 6
1.1.1 Hệ thống phong cách tiếng Việt ..................................................................... 6
1.1.2 Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí .................................................................... 6
1.1.3 Chức năng và đặc trưng của phong cách ngôn ngữ báo chí ......................... 8
1.2. Giao tiếp báo chí .................................................................................................. 9
1.2.1 Quan điểm về hoạt động giao tiếp ................................................................. 9
1.2.2 Quan điểm giao tiếp báo chí ........................................................................ 10
1.2.3 Báo điện tử Đồng Nai .................................................................................. 11
1.3. Chuẩn ngôn ngữ báo chí và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt..................... 13
1.3.1. Chuẩn ngôn ngữ .......................................................................................... 13
1.3.2. Chuẩn ngôn ngữ báo chí và giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt ............ 14
1.4. Các thể loại báo chí ........................................................................................... 21
1.4.1. Các thể loại báo chí .................................................................................... 21
1.4.2 Tiêu đề báo chí ............................................................................................. 25
CHƯƠNG 2: KHÁI NIỆM TIÊU ĐỀ VÀ ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA TIÊU ĐỀ
BÁO ĐIỆN TỬ ĐỒNG NAI .................................................................................. 27
2.1 Khái quát về tiêu đề văn bản (TĐVB) ................................................................ 27
2.2. Cấu trúc ngữ pháp của TĐVB ........................................................................... 29
2.3. Cấu trúc ý nghĩa của TĐVB .............................................................................. 30
2.4. Cấu trúc ngữ pháp của tiêu đề trên báo điện tử Đồng Nai ................................ 31
2.4.1. Câu xét theo mục đích nói........................................................................... 34
2.4.2 Cách tổ chức thông tin trong câu ................................................................ 40
2.4.3 Một số kiểu câu đặc trưng của ngôn ngữ báo chí ....................................... 42
CHƯƠNG 3 ĐẶC ĐIỂM TIÊU ĐỀ NHÌN TỪ BÌNH DIỆN PHONG CÁCH NGỮ DỤNG ............................................................................................................ 45
3.1. Tiêu đề với phần còn lại của văn bản báo chí ................................................... 45

3.1.1. Cấu tạo văn bản tin ..................................................................................... 46


3.1.2. Bố cục hình thức thể loại ký........................................................................ 46
3.2. Liên kết giữa tiêu đề và văn bản ........................................................................ 47
3.2.1. Quy chiếu .................................................................................................... 47
3.2.2. Tỉnh lược ..................................................................................................... 48
3.2.3. Phương thức lặp từ vựng ............................................................................ 48
3.2.4. Phương thức thế đồng nghĩa: ..................................................................... 49
3.3 Sự tương hợp giữa tiêu đề và văn bản ................................................................ 50
3.3.1 Những yêu cầu về cái đúng với tiêu đề ........................................................ 50
3.3.2.Những yêu cầu về cái hay đối với tiêu đề .................................................... 51
3.4 Nghệ thuật ngôn từ trong tiêu đề ........................................................................ 55
3.4.1 Những đặc điểm về từ ngữ của tiêu đề ........................................................ 55
3.4.2 Những kết hợp từ ngữ thông dụng ............................................................... 61
3.5. Đặc điểm ngữ dụng của tiêu đề văn bản Tin tức ............................................... 64
3.5.1 Tính hấp dẫn ................................................................................................ 64
3.5.2 Tính thẩm mĩ ................................................................................................ 65
3.5.3 Tính sáng tạo ............................................................................................... 66
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................... 72
PHỤ LỤC ................................................................................................................ 75


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CN

Chủ ngữ


ĐT

Điện tử

PC

Phong cách

PCCN

Phong cách chức năng

PS

Phóng sự



Tiêu đề

TĐBC

Tiêu đề báo chí

TĐBP

Tiêu đề bộ phận

TĐPVB


Tiêu đề phi văn bản

TĐVB

Tiêu đề văn bản

TL

Thể loại

VB

Văn bản

YNHÂ

Ý nghĩa hàm ẩn

YNHH

Ý nghĩa hiển hiện


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghiên cứu tiêu đề của bài báo là lĩnh vực thuộc giao thoa giữa ngôn ngữ học và
báo chí học . Nghiên cứu tiêu đề nói chung và tiêu đề ở báo điện tử ở địa phương là
một đề tài chưa được tiến hành trước đây.
Giao tiếp là một trong những chức năng chính của ngôn ngữ. Con người dùng
ngôn ngữ một cách rất tự nhiên. Nhưng từ góc độ khoa học, để giúp cho ngôn ngữ có

hiệu quả hơn, với những ứng dụng ngày càng phong phú, đa dạng, nhà nghiên cứu
phải nghiên cứu sâu về ngôn ngữ, tiến hành cập nhật đồng thời hệ thống hóa những
cách dùng, vốn từ mới. Báo chí chính là mảnh đất thể hiện sự tìm tòi và sáng tạo từ
mới của các nhà báo trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan, thực tiễn xã hội.
Đánh giá cao tính năng động trong sử dụng và tận dụng những vốn quí trong ngôn
ngữ, chúng tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu này, tập trung nghiên cứu tiêu đề của
thể loại tin tức và phóng sự trên báo điện tử Đồng Nai
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tầm quan trọng của tiêu đề văn bản là vấn đề đã được đặt ra từ lâu. Trong tác
phẩm Thánh Thán toàn tập, nhà phê bình lừng danh thời Thanh (Trung Quốc) Kim
Thánh Thán đã có nhận định: "Tiêu đề là cái đẻ ra văn". Nhà văn Nga Chekhov thì
cho rằng: "Toàn bộ thực chất nằm ngay trong tiêu đề tác phẩm". Nhiều nghiên cứu
ngữ văn ở Việt Nam những năm gần đây đều dành một phần để khảo sát tiêu đề tác
phẩm. Chẳng hạn, trong Luận văn thạc sĩ của Đỗ Thái Hà (Khoa Ngữ văn, Đại học sư
phạm Hà Nội, 2012) mang tên Đặc điểm tiếng Việt thể hiện trong phần lời ca của ca
khúc trữ tình cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954-1975 dành riêng một tiểu mục để
bàn về Đặc điểm cấu trúc ngữ nghĩa của nhan đề các ca khúc.
Trong lĩnh vực báo chí vốn được khai sinh từ phương Tây, tầm quan trọng của
tiêu đề bài báo được nhà báo danh tiếng Loic Hervouet, Tổng Giám đốc Đại học báo
chí Lille nhận định: "Tít hấp dẫn làm cho ngay cả độc giả lười nhất cũng cảm thấy
không cưỡng lại nổi (...) Số phận bài báo tùy thuộc rất nhiều vào tít". Trong giới Việt
ngữ học, những người tiên phong trong nghiên cứu tiêu đề báo chí phải kể tới là Bùi
1


Khắc Việt và Hồ Lê qua những bài viết trên Tạp chí Ngôn ngữ vào những thập niên 70
và 80 của thế kỷ trước. Năm 1978, tác giả Bùi Khắc Việt công bố bài viết Phong cách
ngôn ngữ trong tên các bài báo của chủ tịch Hồ Chí Minh trên Tạp chí Ngôn ngữ số 3,
từ trang 1 đến trang 8. Bốn năm sau, 1982, Hồ Lê lại có bài viết Nhờ đâu những tiêu
đề bài báo có sức hấp dẫn trên Tạp chí Ngôn ngữ số phụ, tháng 1, từ trang 21 đến

trang 22, trong đó ông quan niệm tiêu đề bài báo chính là một phát ngôn, một biến thể
của câu cơ sở như những phát ngôn khác. Sang đến đầu thập niên 90, Cao Xuân Hạo
trong công trình Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng (1991) khi phân loại câu theo
quan điểm ngữ pháp chức năng đã xếp tiêu đề văn bản (trong đó có tiêu đề tác phẩm
báo chí ) vào loại câu đặc biệt. Ông viết: "Xét về chức năng thông báo, tiêu đề là một
thứ chủ đề mà phần thuyết là cả bài văn, bài báo kia". Trần Ngọc Thêm trong Hệ
thống liên kết văn bản tiếng Việt (1999) thì phân tiêu đề ra thành ba loại: tiêu đề nêu
luận điểm, tiêu đề nêu chủ đề và tiêu đề gợi ý. Một chuyên luận đi sâu vào nghiên cứu
tiêu đề là tác phẩm của Trịnh Sâm mang tên Tiêu đề văn bản tiếng Việt (1996), trong
đó ông chia ra các vấn đề nhỏ của tiêu đề gồm: khái niệm, cấu trúc, chức năng và đặc
điểm của tiêu đề trong các loại văn bản khác nhau. Trong hai chuyên luận khác,
Nguyễn Đức Dân với Ngôn ngữ báo chí - Những vấn đề cơ bản (NXB Giáo dục, HN,
2007) có đề cập đến tiêu đề bài báo và khẳng định tầm quan trọng của tiêu đề báo. Vũ
Quang Hào trong công trình Ngôn ngữ báo chí (NXB Thông tấn, HN, 2012, 330tr)
dành hẳn một chương (từ trang 135 tới trang 152) để bàn về tiêu đề bài báo mang tên
Ngôn ngữ tít báo. Trong đó, ông chỉ ra tít báo có thể là một từ, một ngữ, một câu, một
kết cấu cố định hoặc một kết cấu đặc biệt. Ông cũng đưa ra nhiều ví dụ sinh động về
các loại tít thường gặp và những lỗi thường mắc phải trong việc đặt tít.
Trên đây là một số công trình tiêu biểu trong giới Việt ngữ học có bàn tới vấn đề
nghiên cứu nhan đề tác phẩm báo chí. Bên cạnh đó, có thể kể tới một số bài viết đăng
rải rác trên các tạp chí chuyên ngành những năm qua và một số khóa luận tốt nghiệp
của sinh viên cũng nghiên cứu về tiêu đề bài báo. Ở khu vực các bài viết, có thể kể tới
hai bài viết của Hoàng Anh mang tên: Thử phân loại tiêu đề trên các tiêu đề văn bản
báo chí (Ngôn ngữ và đời sống, số 9/1999 ) và Về cách sử dụng thành ngữ tục ngữ
trên báo chí (Ngôn ngữ và đời sống, số 10/2003). Tác giả Trần Thanh Nguyên (Ngôn
2


ngữ và đời sống, số 10/2003) cũng có bài Về kiểu tiêu đề mô phỏng trên các văn bản
báo chí.

Ở khu vực khóa luận tốt nghiệp, theo trình tự thời gian có thể kể tới các khóa
luận tiêu biểu như sau: Đầu đề bài báo trên báo Nhân dân chủ nhật của Trần Thu Nga
(Phân viện báo chí và tuyên truyền, HN, 1993), Về những khiếm Khuyết của một số
tít báo tiếng Việt theo cách nhìn của ngôn ngữ học của Nguyễn Thu Hà (Khoa Báo
chí, Đại học Tổng hợp, HN, 1994), Tính hấp dẫn của tít báo Việt ngữ của Nguyễn Đức
Thắng (Khoa Báo chí, Đại học Tổng hợp, HN, 1995), Khảo sát tiêu đề trên báo Thanh
Niên của Đinh Thị Thanh Hải (Khoa Ngữ văn, Đại học Cần Thơ, 2007) và Khảo sát
tiêu đề trên báo Tuổi Trẻ của Vũ Thị Bích Thuận (Khoa Ngữ văn, Đại học Cần Thơ,
2008)
Trên đây là những công trình, tác phẩm, bài viết, khóa luận có liên quan ở các
mức độ khác nhau đối với việc nghiên cứu nhan đề tác phẩm nói chung và tác phẩm
báo chí nói riêng, là cơ sở về mặt lí thuyết cũng như thực tiễn hỗ trợ chúng tôi thực
hiện đề tài luận văn của mình
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Nỗ lực mà luận văn hướng tới là nhận diện các đặc điểm hình thức ngữ pháp, nội
dung ngữ nghĩa và chức năng giao tiếp của TĐVB ở hai thể loại có những nét riêng, có
tầm quan trọng và ưu thế, sức nặng nhất định đối với báo điện tử Đồng Nai. Cụ thể,
chương 1 tập trung nêu cơ sở lí luận cho các khảo sát ở các chương còn lại, chương 2
nêu đặc điểm cấu tạo của tiêu đề, chương 3 làm rõ các đặc điểm phong cách và ngữ
dụng của tiêu đề.
Luận văn mong muốn cung cấp cơ sở cho các nhà báo địa phương cái nhìn chung
về tiêu đề và sự hành chức của các loại tiêu đề dưới góc nhìn ngôn ngữ học, từ đó có
các hướng khai thác các chủ đề và tiêu đề mới nhằm thực hiện tốt hơn chức năng của
báo chí.
Từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về sự hành chức của ngôn
ngữ, xu hướng sử dụng từ ngữ trên các tờ báo chính thống và báo điện tử. Trong giới
hạn về thời gian, người thực hiện cố gắng đánh giá, minh xác thêm những tiền đề lý
luận đã có trên 2 thể loại của một tờ báo địa phương cụ thể. Qua đó, xác định được vị
3



trí của ngôn ngữ báo chí trên con đường phát triển của ngôn ngữ, qua đó phản ánh tác
động của các thể loại báo chí đến bức tranh phát triển của xã hội, tinh thần địa phương
trong thời điểm khảo sát.
Số liệu thống kê là nguồn tư liệu đáng tin cậy cho những ai quan tâm.
Trong quá trình thực hiện đề tài do đối tượng chỉ giới hạn ở hai thể loại nên tính
khái quát của luận văn có thể không như mong đợi.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là 450 tiêu đề ở 2 thể loại tin tức và phóng sự trên báo điện
tử Đồng Nai từ năm 2015 đến 2017
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thống kê: Được sử dụng để thống kê 450 tiêu đề ở hai thể loại
chính mà đề tài quan tâm là phóng sự và tin tức.
Phương pháp phân tích: Phân loại các văn bản có cùng một chủ đề thành nhóm
và phân tích ý nghĩa nội dung tiêu đề trên các bình diện phong cách, ngữ dụng
Phương pháp miêu tả: Miêu tả các loại nghĩa tình thái, ẩn dụ
Việc trích dẫn các dẫn chứng được tuân theo nguyên tắc: đúng nguyên bản và
nếu cần thiết thì đặt trong ngữ cảnh để người xem có thể hiểu được vấn đề.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn
Báo chí là chiếc cầu nối giữa nhân dân và các cơ quan quyền lực, đội ngũ lãnh đạo nên
chủ đề giao tiếp trên báo chí là không giới hạn vào một số ít các lĩnh vực phản ánh.
Khảo sát cách đặt tiêu đề dựa trên nguồn ngữ liệu này có đặc điểm mang tính ứng
dụng cao trong hoạt động giao tiếp báo chí và lĩnh vực lân cận là truyền thông.
Theo khảo sát của Lý Tùng Hiếu trong công trình “Ngôn ngữ- văn hóa vùng đất
Sài Gòn và Nam bộ”, có thể nói Đồng Nai mang những đặc điểm thế mạnh như nằm ở
một vị trí thuận lợi về địa lí, thuộc vùng văn hóa Nam bộ, là vùng bán sơn địa giáp các
tỉnh Bình Phước, Bà Rịa Vũng Tàu và TPHCM, ở vị trí gần trung tâm trong tiểu vùng
Đông Nam Bộ cạnh tiểu vùng Sài Gòn.
Về địa hình, miền Đông Nam Bộ có độ cao 50m-20m, có kênh rạch thuộc hệ
thống sông Đồng Nai. Đây là vùng bán sơn địa, chuyển tiếp giữa cao nguyên với đồng

bằng, vì vậy có một số đồi núi thấp.
4


Về thủy văn hệ thống sông Đồng Nai có lưu vực lớn thứ ba cả nước chiếm
11,27% diện tích lưu vực các hệ thống sông của Việt Nam nhưng có lượng phù sa khá
thấp, tốc độ bồi lắng ven biển khá chậm, lòng sông sâu và là nơi tập trung các cảng
chính của khu vực như cảng Sài Gòn.
Là vùng đất đa tộc người, dân số cao chiếm 16% dân số toàn quốc.
Là một vùng đất đang trên đà phát triển về kinh tế, đời sống tinh thần ngày được
nâng cao. Báo chí và cụ thể là báo địa phương góp phần thúc đẩy tạo đà thuận lợi cho
việc cung cấp thông tin phục vụ phát triển mọi mặt. Các tin tức trên ngữ liệu báo điện
tử chúng tôi cũng phản ánh rõ sự năng động của các hoạt động kinh tế văn hóa địa
phương. Việc nghiên cứu lĩnh vực báo chí hi vọng góp phần thêm vào cho quá trình
đổi mới trong hoạt động báo chí bên cạnh những hoạt động khác nhằm tiềm lực sẵn có
tại địa phương.
Báo chí và tiêu đề báo chí là địa hạt thú vị mà đã từ lâu nằm trong mối quan tâm
đặc biệt của cá nhân người viết. Quan sát thấy bất kì diễn ngôn viết,Thật vậy, trong
hoạt động thực tiễn của mình nhà báo và các biên tập viên sau quá trình thâm nhập
thực tiễn cộng với góc nhìn riêng hứa hẹn tạo ra những bài viết chứa cách dùng ngôn
từ sáng tạo, linh hoạt, mới mẻ. Thật vậy, trong hoạt động thực tiễn của mình bất kì
diễn ngôn viết, tác phẩm báo chí nào cũng là sản phẩm của một quá trình lao động trí
óc vất vả. Nhưng sự hấp dẫn độc giả có từ đâu ngoài những góc nhìn và cách sử dụng
từ ngữ có chọn lọc. Từ những nghiên cứu khảo sát trên ngữ liệu báo chí dưới góc nhìn
ngữ pháp văn bản và phong cách đối với ngữ vực nhất định là báo chí để tìm hiểu đặc
điểm ngôn ngữ, chúng tôi quyết định thực hiện đề tài nghiên cứu này, và mong rằng
các kết quả nghiên cứu có thể làm tư liệu tham khảo cho những cách diễn đạt, nhất là
ứng dụng để đặt tiêu đề cho những văn bản có bối cảnh giao tiếp tương tự.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và thư mục tham khảo, luận văn gồm 3

chương Trong đó:
Chương 1 nêu cơ sở lí luận
Chương 2 nêu cấu tạo ngữ pháp của các tiêu đề
Chương 3 nêu đặc điểm phong cách và ngữ dụng của tiêu đề.
5


CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Hệ thống phong cách và phong cách ngôn ngữ báo chi
1.1.1 Hệ thống phong cách tiếng Việt
Cho đến nay, số lượng phong cách ngôn ngữ, cơ sở lý luận và việc vận dụng tiêu
chí để phân loại phong cách chức năng là chưa thống nhất và rất khác nhau.
Nhìn chung các công trình quan niệm có từ 4 đến 6 phong cách. Trong đó, phong
cách ngôn ngữ báo chí được nhìn nhận như một phong cách độc lập và được đưa vào
danh sách miêu tả muộn hơn so với các phong cách khác.
Chúng tôi chọn cách phân chia các phong cách chức năng theo quan điểm của tác
giả Đinh Trọng Lạc trong công trình Phong cách học tiếng Việt, theo đó các PCCN
của hoạt động lời nói trong tiếng Việt gồm
+Phong cách hành chính – công vụ
+Phong cách khoa học
+Phong cách báo chí – công luận
+PC chính luận
+Phong cách sinh hoạt hàng ngày.
1.1.2 Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí
Ngôn ngữ báo chí có tính khuôn mẫu
Văn học nghệ thuật và báo chí đều dùng tới ngôn từ như là thành tố số một trong
việc xây dựng tác phẩm. Nhưng chúng khác nhau ở lí do trong khi báo chí thực hiện
thông tin thì chức năng cơ bản của văn học là thẩm mĩ. Do đó ngôn ngữ báo chí nói
chung không quá đòi hỏi sự đổi mới mà đầu tiên hướng đến mục tiêu sao cho người
đọc dễ tìm kiếm và tiếp nhận thông tin, điều này được thực hiện nhờ tính khuôn mẫu.

Đó là những công thức, ngôn từ có sẵn được dùng lặp đi lặp lại nhằm tự động hóa quy
trình thông tin. Khuôn mẫu này có trong nhiều phong cách chức năng. Nhờ khuôn mẫu
các nhà báo mới thuận lợi trong phản ánh hiện thực, sự kiện nóng hổi, có kèm theo
nhận định của họ về hiện tượng gần như tức thời.
Theo Hoàng Anh, khi nói về các đặc điểm của ngôn ngữ báo chí, không thể nào
không đề cập tới tính khuôn mẫu khó trộn lẫn của nó. Tác giả dẫn ra nhận định của
nhà nghiên cứu hàng đầu của Nga hiện nay M.Shostac về nguyên do tính khuôn mẫu
6


của báo chí như sau: “Báo chí có khuynh hướng thiên về việc lựa chọn các phương
tiện ngữ pháp, rồi các điều kiện văn hóa-xã hội đặc biệt mà tờ báo đang tồn tại trong
đó (chẳng hạn như phải dành cho một lượng độc giả đông tới mức không xác định
được, và đồng thời phải thích ứng với những thói quen, những phong cách sử dụng
ngôn từ đa dạng nhất của mọi tầng lớp trong xã hội) đã khiến cho các kiểu thông tin cơ
bản thường gặp của báo chí như phỏng vấn, tin vắn,... được xây dựng theo những hình
mẫu có sẵn, được chế định bởi những khuôn ngôn từ hình thành trong quá trình sản
xuất tờ báo.” [dẫn theo Hoàng Anh, 2003, 58]
Ngôn ngữ báo chí còn phải là một thứ ngôn ngữ văn hóa chuẩn mực
Vũ Quang Hào cho rằng vấn đề sử dụng ngôn ngữ báo chí có tác dụng trực tiếp
và quyết định nhất tới hiệu quả của thông tin báo chí, do vậy ngôn ngữ báo chí trước
hết phải là một thứ ngôn ngữ văn hóa chuẩn mực. Bên cạnh đó, báo chí là phương tiện
truyền thông đại chúng, tác động sâu rộng đến hầu hết mọi thành phần trong xã hội.,
hội đủ điều kiện cần để cùng với các lực lượng tầng lớp trí thức như các nhà giáo, nhà
nhân văn, nhà ngôn ngữ học lí thuyết góp phần cho công cuộc giữ gìn sự trong sáng
của tiếng Việt, cho nên ngôn ngữ sử dụng trên báo chí phải đạt tiêu chí nhất định về
ngôn ngữ. Liên quan đến khái niệm chuẩn, dù có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng
đầu tiên chuẩn ngôn ngữ nói chung được hiểu bao gồm hai nội dung căn bản là cái
đúng và sự thích hợp. Một hiện tượng ngôn ngữ được coi là đúng phải thỏa mãn được
những đòi hỏi của cấu trúc nội tại của ngôn ngữ và phù hợp với truyền thống ngôn

ngữ. Cái đúng là yêu cầu bắt buộc trong việc sử dụng ngôn ngữ ở mọi cấp độ, mỗi cấp
độ có những yêu cầu và tiêu chuẩn riêng. Bên cạnh cái đúng chuẩn mực còn đòi hỏi sự
thích hợp vì chuẩn không loại trừ sáng tạo (chuẩn chỉ là cái “cẩm nang” chỉ dẫn người
sử dụng quyết định lựa chọn đơn vị này hay đơn vị khác) và thực tế giao tiếp báo chí
có đặc điểm đa dạng ở đối tượng, tùy vào từng đối tượng mà có sự điều chỉnh và sáng
tạo đối với ngôn ngữ đôi khi được gọi là chệch chuẩn để các chức năng trong giao tiếp
báo chí đảm bảo hiệu quả của nó. Nhưng sự sáng tạo phải được thực hiện trong những
điều kiện nhất định.
Vậy chuẩn ngôn ngữ cần được xét trên hai phương diện: phải mang tính quy ước
xã hội tức được xã hội chấp nhận và sử dụng, và phù hợp với quy luật phát triển nội tại
7


của ngôn ngữ trong từng giai đoạn. Chuẩn ngôn ngữ báo chí cũng tương tự, tuy nhiên
nó chỉ có mối quan hệ với chệch chuẩn tích cực trong đó chệch chuẩn tích cực được
xem như không hoàn toàn là cái sai mà thuộc về “thủ pháp sáng tạo, cách tân phù hợp
với chuẩn, với cái đúng, cái thích hợp và được thói quen dùng chấp nhận” [6, 21]
Ngôn ngữ báo chí có tính biểu cảm
Để thực hiện được chức năng tác động thì cần tới các yếu tố biểu cảm trong diễn
đạt, giao tiếp báo chí. Độc giả không chỉ đọc để lấy thông tin mà còn cần sự định
hướng và lối thuyết phục dễ gây hiệu quả nhất là tác động vào tình cảm của con người.
Trên báo chí tồn tại nhiều phong cách chức năng trong đó phong cách nghệ thuật có
đặc điểm giúp người đọc đề cao và hướng đến giá trị thẩm mĩ, thái độ nhân văn nhân
bản.
Ngôn ngữ báo chí có tính đại chúng
Đối tượng độc giả của báo chí là đa dạng. Ngôn ngữ sử dụng trên báo chí là
hướng đến chuẩn mực và sự phù hợp với mọi đối tượng, tức là có tính phổ cập rộng
rãi. “Ngôn ngữ báo chí phải thích ứng với mọi tầng lớp công chúng sao cho một nhà
bác học với kiến thức uyên thâm nhất cũng không thấy chán và một em bé trình độ
non nớt cũng không thấy khó hiểu”(V.G. Kostomarov). Đặc điểm này xuất phát từ

chức năng tác động, định hướng toàn xã hội của báo chí và vì lí do này, trên mặt báo ít
xuất hiện thuật ngữ chuyên ngành hẹp, từ ngữ địa phương, tiếng lóng, các từ vay mượn
nước ngoài.
1.1.3 Chức năng và đặc trưng của phong cách ngôn ngữ báo chí
Theo Hữu Đạt [4,7] Phong cách báo chí có các đặc điểm chính như sau:
- Chức năng thông báo
- Chức năng hướng dẫn dư luận và tác động
- Chức năng tập hợp và tổ chức quần chúng
- Tính chiến đấu mạnh mẽ
- Tính thẩm mỹ và giáo dục
- Tính hấp dẫn và thuyết phục
- Tính ngắn gọn và biểu cảm
- Có những đặc điểm riêng về cách sử dụng từ ngữ.
8


Tóm lại, đặc trưng của phong cách ngôn ngữ báo chí trong các thể loại phong
cách học thường có 3 đặc điểm: thời sự, ngắn gọn, sinh động hấp dẫn. Tuy nhiên trong
xu hướng vận động phát triển về cả nội dung và hình thức, những tác giả chuyên
ngành báo chí có sự bổ sung và cho rằng phong cách ngôn ngữ báo chí đang mang
những đặc điểm mới đó là tính sự kiện, ngắn gọn và công luận.
Ngôn ngữ sự kiện mang tính định lượng cao: chính xác về thời gian không gian
của sự kiện, định lượng cả về mặt ngôn từ. Ngôn ngữ sự kiện mang tính hấp dẫn gây ra
bởi bản chất phản ánh được vấn đề và giá trị của thông tin.
Tính ngắn gọn đó nói lên năng lực của một nhà báo giỏi. “Thật ra viết ngắn
không phải là mục đích tự thân của báo chí, trong thực tế câu dài hay ngắn tùy thuộc
vào nội dung phản ánh. Nhưng viết ngắn thể hiện được tài của nhà báo và làm người
đọc dễ tiếp thu”.
Tính công luận nghĩa là tờ báo mang dấu ấn của mọi tầng lớp, độ tuổi, giới. Mỗi
tờ báo đều phục vụ đối tượng độc giả xác định và ngược lại, mọi người đều có thể

phản hồi trước những thông tin được tiếp cận từ các bài báo ngay trong khuôn khổ của
tờ báo. Tính công luận còn thể hiện ở sự đánh giá của công chúng cho nỗ lực của nhà
báo. Đặc điểm của báo chí không chỉ ở một số thể loại là chịu sự chi phối và áp lực về
mặt thời gian khiến báo chí đi theo những khuôn phản ánh sẵn có. Do vậy, những tác
phẩm báo chí nào có hiệu quả, khiến được đông đảo người đọc đón nhận, được đánh
giá tốt của giới chuyên môn thì chính là kết quả sự lao động và hi sinh không nhỏ từ
đó làm nên uy tín thực sự của tờ báo và được nhìn nhận bởi công chúng.
1.2. Giao tiếp báo chí
1.2.1 Quan điểm về hoạt động giao tiếp
Giao tiếp là hoạt động trao đổi thông tin của con người, đã gắn với con người từ
rất xa xưa. Nhắc đến lí thuyết thông tin phải kể đến lí thuyết thông tin của
C.E.Shannon và W. Weaver vào thế kỉ XX. Từ góc nhìn của lí thuyết thông tin giao
tiếp được xem như quá trình lập mã và giải mã. Sau này ứng dụng lí thuyết thông tin
vào nghiên cứu ngôn ngữ, R.Jacobson, một đại diện thuộc trường phái Praha cho mỗi
hành vi giao tiếp ngôn ngữ gồm các yếu tố như:
Tuy vậy muốn hiểu được một thông điệp người ta phải dựa vào
9


1. người phát

2. thông điệp

3.người nhận

4. bộ mã

5. sự tiếp xúc

6.bối cảnh giao tiếp


Đây là 6 nhân tố không thể thiếu trong một cuộc giao tiếp.
Ngữ cảnh
Người nói

Thông điệp

Người Nhận

Tiếp xúc

Sơ đồ giao tiếp của Jacobson
Nguồn : Jacobson 1960 (Dẫn theo Đỗ Hữu Châu, 49)
Trên thực tế giao tiếp là nhu cầu. Marx đã nhận định, “ngôn ngữ sinh ra là do nhu
cầu cần thiết phải giao dịch với người khác”. Nhưng mỗi lời nói ra đều phải gắn với
một phong cách chức năng nhất định. Bởi nếu không lời nói hoàn toàn không có giá trị
giao tiếp.
Một lời nói có hiệu quả là một lời nói được đặt trong một quy trình giao tiếp
khép kín được hiểu như sơ đồ sau:
Hoạt động giao tiếp trở thành quy trình khép kín khi hội tủ các điều kiện
+ A và B phải cùng nói một ngôn ngữ
+A và B phải có tập quán ngôn ngữ, thói quen sử dụng các quy tắc của ngôn ngữ
đang được sử dụng làm công cụ giao tiếp
+A và B phải có sự tương xứng về hiểu biết trong lĩnh vực đặt ra giao tiếp
+A và B phải có sự gần gũi nhau về tâm lý và mối quan tâm tới vấn đề đặt ra
(sơ đồ tr78)
Nếu như các điều kiện không đáp ứng đủ, chúng ta thấy xảy ra hiện tượng “lệch
pha” và lời nói ra không đem lại kết quả.
Khi đủ các điều kiện, kết quả vẫn có thể khác nhau phụ thuộc vào mối quan hệ xã
hội về vai vế quyền lực giữa người nói và người nghe.

1.2.2 Quan điểm giao tiếp báo chí
Giao tiếp báo chí cũng có những đặc điểm trên ngoài ra còn có những đặc thù
riêng. Dựa vào mô hình giao tiếp của R.Jacobson, chúng ta có thể hiểu quá trình giao
tiếp báo chí như sau:
10


Sơ đồ Quy trình giao tiếp
B
Người nói

Hướng giao tiếp

B
Người nghe

Lời nói ra

Viết

Đọc

Hướng phản hồi

(Đinh Trọng Lạc, Phong cách học tiếng Việt, 2008)
Nhà báo có vai trò thực hiện hành động quan sát, suy xét về thế giới bên ngoài
chứa vô số những sự kiện diễn ra, sau đó sử dụng ngôn ngữ để mã hóa thông tin thành
thông điệp của bài viết. Thông điệp này như vậy vừa phản ánh thế giới bên ngoài vừa
thể hiện quan điểm của người viết (về sự kiện phản ánh). Muốn làm được điều này,
nhà báo phải dùng ngôn ngữ để thuyết phục trong đó bao gồm việc sáng tạo lối hành

văn và dựng lại sự kiện ở góc độ quan sát nhận định của mình..
Thời đại thông tin bùng nổ, người đọc ngày càng tiếp nhận thông tin một cách
không thụ động. Do có nhiều nguồn để tiếp cận thông tin, họ có thể tiến hành so sánh
sau khi giải mã và phản hồi ý kiến của riêng mình theo hướng đồng tình hay không
đồng tình.
Như vậy giao tiếp báo chí một mặt nào đó là giao tiếp hai chiều, từ người tạo
ngôn đền người thụ ngôn. Sau đó, người thụ ngôn tiếp nhận thông điệp sẽ có thông tin
phản hồi. Sự phản hồi này có thể là thuận hoặc nghịch chiều với người tạo ngôn/ với
thông điệp đưa ra của người tạo ngôn.
Dựa vào lí thuyết giao tiếp và lí thuyết thông tin có thể xem TĐBC nói chung là
một cuộc giao tiếp giữa người đặt TĐ và người đọc, dù yếu tố người đọc là ẩn danh do
đó giao tiếp báo chí là loại giao tiếp khá đặc biệt. Bởi không phải biết cách dùng từ là
có thể viết báo. Văn bản báo chí đòi hỏi am hiểu và kiến thức đa dạng và thực tế cho
thấy không phải nhà báo nào cũng viết tốt ở nhiều thể loại.
1.2.3 Báo điện tử Đồng Nai
Các phát minh và sự phát triển vượt bậc trong khoa học công nghệ và thông tin
đã đưa lại cho con người các phương tiện cơ sở vật chất ngày càng hiện đại hơn, phục
11


vụ tốt hơn cho nhu cầu con người. Báo chí điện tử cũng là một trong những phương
tiện nếu khai thác hiệu quả có thể giúp con người nhanh chóng có được lượng thông
tin mới mỗi ngày, mỗi giờ, trong mọi lĩnh vực. Là một loại hình truyền thông đại
chúng đang có xu hướng phát triển mạnh cùng với sự bùng nổ của Internet, có thể coi
báo mạng điện tử là sự hội tụ những đặc điểm của các loại hình báo chí khác nhau.
Con người nhận diện thông tin không chỉ bằng chữ mà còn có các hỗ trợ hình ảnh âm
thanh qua các video clip.
Đặc điểm của Báo điện tử là sử dụng ngôn ngữ viết truyền tải thông tin, hình ảnh
qua đường truyền Internet. Báo có các đặc điểm cơ bản:
- Tính thời sự và tính phi định kỳ

- Khả năng tương tác cao
- Khả năng truyền đạt thông tin không hạn chế [10, 8]
Với sự phát triển của công nghệ hiện đại, báo điện tử sở hữu những lợi thế mà
báo in không có được hoặc khó cạnh tranh, đó là tính tương tác, tốc độ đưa tin.
Bên cạnh những đặc điểm chung của tiêu đề thì so với báo in. tiêu đề báo điện tử
có điểm riêng: Tiêu đề trên báo điện tử thường xuất hiện không gắn liền với ngữ cảnh:
không như báo viết, bài được in liên tục với tiêu đề của nó, các tiêu đề trên báo điện tử
được trưng dưới dạng một danh sách tên các bài/ tin. Mục đích của sự trình bày này là
nhằm phục vụ sự tiện lợi trong lựa chọn cho độc giả: nếu tiêu đề của tin hay một phần
của tiêu đề không nổi bật và liên quan đến nhu cầu thông tin thì họ không mở ra để
đọc cả bài.
Tuy nền báo chí nước ta so với thế giới xuất hiện muộn nhưng có sự phát triển
mạnh mẽ tiếp nhận thông tin cập nhật nhất. Báo điện tử Đồng Nai cũng mang nét tích
cực này. Xét riêng về phương diện phương tiện thông tin, có thể xem đây là biểu hiện
của sự phát triển và tiến bộ, nếu so với điều kiện thông tin ở những thời kỳ lịch sử
trước. Nhìn lại diện mạo báo chí ở thời kì đầu, “đến những năm 80 của thế kỷ 20 vẫn
còn 11 nước đang phát triển không có báo hàng ngày, 19 nước chỉ có 1 tờ báo, 35
nước không có hãng thông tấn và trên 50 nước không có hệ thống phát thanh và truyền
hình quốc gia. Chưa có một nước đang phát triển nào có khả năng phóng vệ tinh của
mình lên quỹ đạo để thu và phát thông tin.” Đây chính là tình trạng của báo chí các
12


nước đang phát triển và hệ quả tất yếu là “do đó báo chí ở các nước này cũng chưa tác
động tích cực tới sự phát triển của cơ sở hạ tầng”. (Báo chí Những vấn đề lí luận và
thực tiễn, Hà Minh Đức, Nxb GD)
1.3. Chuẩn ngôn ngữ báo chí và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt
1.3.1. Chuẩn ngôn ngữ
Chuẩn ngôn ngữ vừa là một phạm trù ngôn ngữ, vừa là một phạm trù xã hội lịch
sử. Có thể hiểu chuẩn là những cấu trúc diễn đạt vừa được cấu trúc ngôn ngữ cho

phép, vừa được xã hội chấp nhận và sử dụng rộng rãi.
Xung quanh khái niệm chuẩn ngôn ngữ có nhiều ý kiến khác nhau. Tác giả Vũ
Quang Hào trong giáo trình ngôn ngữ báo chí tổng hợp các cách hiểu về chuẩn ngôn
ngữ như sau:
Hướng nhấn mạnh đến tính chất xã hội của chuẩn ngôn ngữ: xem chuẩn là một
hiện tượng xã hội và có tính lịch sử.Quan niệm này phiến diện khi bỏ qua quy luật
phát triển bên trong của cấu trúc ngôn ngữ.
Xem chuẩn là tổng hợp những sự thể hiện các yếu tố trong cấu trúc ngôn ngữ đã
được tách ra và củng cố trong thực tế sử dụng
Trường phái ngôn ngữ học Praha coi chuẩn là một hiện tượng bên trong của cấu
trúc ngôn ngữ, còn việc thể hiện chuẩn là một hiện tượng ngoài ngôn ngữ có tính chất
xã hội. Từ đó họ phân biệt chuẩn với quy phạm: là những sự thể hiện của chuẩn bằng
các quy tắc trong từ điển, sách giáo khoa, sách ngữ pháp chính thống. Trường phái này
không chấp nhận có một cái gọi là chuẩn chung tổng hợp vì còn phải đánh giá dựa trên
chức năng hoạt động của các yếu tố ngôn ngữ trong bối cảnh cụ thể của giao tiếp.
Quan điểm trên gần với quan điểm của Koxtomarov, Leonchev. Các tác giả này
còn đề xuất luận điểm về “tính hợp lý trong giao tiếp” như tiêu chí đòi hỏi phải lựa
chọn được những phương tiện ngôn ngữ có hiệu suất cao nhất trong từng bối cảnh giao
tiếp. Nhóm này cho khái niệm chuẩn có tính chất cơ động, tùy thuộc nhiều biến số,
không thể nói đến tính tuyệt đối.
Phần lớn ý kiến trong các tài liệu ngôn ngữ của giới Việt ngữ cho rằng chuẩn
ngôn ngữ là mẫu ngôn ngữ đã được xã hội đánh giá, lựa chọn, sử dụng. Sự đánh giá đó
khó đạt được sự nhất trí hoàn toàn nên tính chất bắt buộc là tương đối. Chuẩn là sự khế
13


ước, là truyền thống, sự chỉ dẫn nên sự lựa chọn không mang tính bắt buộc, loại trừ sự
sáng tạo. Bởi ngôn ngữ trong thực tế gắn với kiểu hành chức đặc biệt là ở ngữ vực
giao tiếp báo chí, văn chương thường nảy sinh những kiểu dùng từ ngữ sáng tạo và
liên quan đến chệch chuẩn.

1.3.2. Chuẩn ngôn ngữ báo chí và giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt
Ngôn ngữ là linh hồn của dân tộc (Humbold). Việc giữ gìn sự trong sáng của
ngôn ngữ phải được nhận thức rõ bởi các lực lượng trí thức xã hội trong đó có cơ quan
báo chí. Song sự phong phú trong quan niệm thế nào là chuẩn ngôn ngữ ở phần trước
cho thấy chuẩn ngôn ngữ là điều hoàn toàn không dễ và khó đạt sự nhất trí cao, với
chuẩn ngôn ngữ báo chí tình hình cũng tương tự. Phục vụ cho đối tượng đa dạng độc
giả đòi hỏi báo chí có những sự điều chỉnh trong ngôn ngữ nhưng những sự điều chỉnh
đó không nên đi ra ngoài sự chuẩn mực. Giáo sư John Hohenberg đã nhấn mạnh:
“Không thể cẩu thả trong việc sử dụng ngôn ngữ ở các ngành truyền thông được. Ngôn
ngữ ở đây phải chuyển được tin tức, ý kiến và tư tưởng tới quần chúng càng hữu hiệu
càng tốt. Cũng không thể hạ giá văn phạm, trình độ văn phạm của báo chí ít ra cũng
phải cao bằng trình độ của học giả hoặc khán thính giả co học thức. Nếu không báo chí
mất ngay sự kính trọng của quần chúng[…]. Sự chuẩn xác của ngôn ngữ làm sắc bén
thêm ý nghĩa của sự kiện. Vì thế sự kiện và chuẩn xác phải luôn luôn đi đôi với nhau.”
Vấn đề sử dụng ngôn ngữ báo chí có tác dụng trực tiếp và quyết định nhất tới hiệu quả
thông tin báo chí, do vậy ngôn ngữ báo chí trước hết phải là một thứ ngôn ngữ văn hóa
chuẩn

mực.

Bên cạnh hai phương diện về chuẩn đã được đề cập, chuẩn ngôn ngữ trên báo chí còn
cần hai nội dung căn bản: cái đúng và cái thích hợp. Đúng ở đây được hiểu là “tất cả
những cái gì mới, đang phát triển được quy luật nội tại của quá trình phát triển ngôn
ngữ thừa nhận, phù hợp với cấu trúc của nó, dựa vào quá trình mang tính tích cực
trong ngữ pháp, ngữ nghĩa, sử dụng từ...”. Cái thích hợp bắt nguồn từ đặc điểm xuất
phát từ độc giả và tính thương mại của tờ báo. Để sản phẩm được đón nhận nhất thiết
phải sử dụng thứ ngôn ngữ quen thuộc với lời ăn tiếng nói của nhân dân, nơi mà có thể
xuất hiện hiện tượng chệch chuẩn nhất định. Cho nên ngôn ngữ báo chí phải luôn xem
xét giữa hai yếu tố chuẩn và chệch chuẩn để sử dụng sao cho phù hợp với đối tượng
14



độc giả tờ báo hướng đến. Mỗi tờ báo có đối tượng độc giả riêng và tính phù hợp trong
mỗi tờ báo là khác nhau. Liên quan đến chệch chuẩn và sự sáng tạo thì thử nghiệm
trên báo chí là chấp nhận được và đã tồn tại trong lịch sử để hướng tới diễn đạt hiệu
quả hơn, chẳng hạn vào thời điểm xưa người ta thường dùng câu ghép hơn so với ở
thời điểm hiện nay.
Có thể thấy, phong cách báo chí là nơi thường xuyên xuất hiện những hiện tượng
chệch chuẩn tích cực, đây là cách thu hút người đọc bên cạnh giải pháp cải tiến nội
dung. Để có một bài báo hay, phong cách cá nhân của người viết báo thể hiện rõ qua
cách sử dụng nguồn lực trong ngôn ngữ là vô cùng cần thiết.
Nhà báo dùng văn bản để tác động nhưng việc sử dụng từ cũng chính là bước
quan trọng trong đó chú ý 5 mặt như sau:
a. phải đúng về nghĩa
Khi dùng từ đòi hỏi phải đúng về nghĩa sự vật và cả nghĩa biểu thái, biểu cảm
trong từ. Sắc thái biểu cảm có độ chênh so với thực tế khiến văn bản mang tính chủ
quan, thiếu xác thực. Các quy luật chuyển nghĩa của từ cũng cần nắm để vận dụng
linh hoạt hợp lý trong giao tiếp văn bản.
b. đúng về quan hệ kết hợp
Đảm bảo mối quan hệ ngữ nghĩa -ngữ pháp nằm trong từ được thể hiện ra bằng
sự kết hợp của các từ.
c. dùng từ phải thích hợp với phong cách ngôn ngữ của văn bản
Mỗi phong cách văn bản đòi hỏi và cho phép việc dùng những lớp/ nhóm từ nhất
định nhằm thực hiện chức năng , mục tiêu giao tiếp nhất định. Để dùng đúng phải hiểu
các khái niệm về màu sắc phong cách, có những từ trung tính về màu sắc dùng được
trong mọi phong cách văn bản, nhưng có những từ chỉ thích hợp cho một phong cách
ngôn ngữ.
Với sự đa dạng về thể loại của phong cách trong báo chí thường có việc sử dụng
có chủ ý các từ thuộc phog cách này vào văn bản thuộc phong cách khác nhằm tạo
hiệu quả riêng. Nhưng cần chú ý tránh dùng từ không đúng phong cách vì chẳng

những không có hiệu quả diễn đạt mà làm giảm giá trị văn bản và ảnh hưởng đến sự
chuẩn mực của tiếng Việt.
15


d. dùng từ phải đảm bảo tính hệ thống của văn bản
Văn bản là chỉnh thể được tổ chức chặt chẽ trong đó các từ có nhiệm vụ phối hợp
diễn đạt chú đề chung tạo thành chỉnh thể chung. Muốn vậy người viết phải đảm bảo
tính thống nhất của các từ về trường nghĩa, phong cách văn bản, sắc thái.
e. tránh hiện tượng trùng, thừa, sáo rỗng theo công thức.
Diễn ngôn viết là kết quả của quá trình lao động nhưng đặc thù báo chí là áp lực
thời gian. Vấn đề diễn đạt sao cho hấp dẫn mà vẫn đảm bảo tính chính xác của báo chí
đòi hỏi người viết sự quan sát và tìm tòi, và có sự luyện tập để lối dùng từ trong văn
bản không mắc lỗi rất dễ mắc phải đặc biệt là thừa từ, sáo rỗng.
1.3.3 Các hiện tượng trên báo chí cần hướng đến chuẩn hóa
Thứ nhất các yếu tố ngoại trong đó có ngôn ngữ đi vào Việt Nam nhanh và đa
dạng hơn. Việc cho phép nhập hệ các từ nước ngoài để nguyên dạng, một mặt phản
ánh tốc độ làm việc của các nhà báo phù hợp với khối lượng công việc tăng cao bởi
quá trình hội nhập. Mặt khác, cũng là một trong những biểu hiện về một thái độ cởi
mở của Việt Nam trong quá trình hội nhập với thế giới (ít nhất là về mặt ngôn ngữ).
Bởi khi sử dụng từ nước ngoài để nguyên dạng, những người làm báo một mặt có tính
đến những phản ứng đồng thuận của công chúng, mặt kia, theo chủ quan họ đã thấy
được xu thế tất yếu về sự tiếp nhận mảng từ ngoại lai. Có thể thấy các nhà làm báo
không để sự câu nệ vào mục đích thông tin tuyên truyền của báo để làm mất đi cơ hội
tự nâng cao trình độ dân trí của người dân. Vì khác với những thời đoạn trước, lực
lượng công chúng của Việt Nam ngày nay đang sống trong thời đại của nền “kinh tế tri
thức”- thời đại mà chúng ta phải tự nâng cao khả năng của mình trong đó bao gồm
việc cập nhật thông tin.
Thứ hai là vấn đề sử dụng ngôn ngữ viết tắt .
Ngôn ngữ của chữ tắt cũng thuộc phương thức cấu tạo từ. “Chữ tắt là một ứng xử

văn hóa rất thông minh của loài người đối với ngôn ngữ...Lượng thông tin con người
tìm kiếm và tích lũy ngày một nhiều. Hiện nay các sự vật mới, hiện tượng mới, khái
niệm mới xuất hiện cần có tên gọi trong khi đó khả năng tạo ra các tên gọi ngắn gọn
của ngôn ngữ ngày một giảm sút [...] Mặt khác, nhu cầu thông tin lại tăng, chưa kể đến
những tình hình liên quan như giá cả thông tin thay đổi. Trong điều kiện đó, ngôn ngữ,
16


với tư cách là một phương tiên chuyển tải thông tin, phải tự hoàn thiện, tìm cách tối ưu
hóa ngôn ngữ của mình theo hướng tiết kiệm sao cho với khối lượng ký hiệu tối thiểu,
trong thời gian tối thiểu, có thể nhận hoặc truyền được một lượng thông tin tối đa,
nhằm đạt được sự tối đa về hiệu quả giao tiếp và sự tối thiểu về thời gian, tiền của và
sức lực”[VQH, 121].
Việc sử dụng các kí hiệu để biểu thị thông tin nhằm giảm tối đa độ dài văn bản,
đặt ra yêu cầu trước hết là phải rút ngắn độ dài của các đơn vị mang tin tối thiểu, hay
nói khác là sử dụng biện pháp tắt. “Viết tắt chỉ tác động đến bình diện chính tả của
ngôn từ... Cho nên nội dung mà dạng tắt truyền đạt là hoàn toàn nguyên vẹn, chính xác
[27,8]
Chúng tôi tổng hợp nhận xét về viết tắt như sau
*Viết tắt là giải pháp tình thế tiện lợi. Những lí do cho việc viết tắt có thể liệt kê:
- Ghi số hiệu văn bản
- Ghi tên các tổ chức, cá nhân
- Danh xưng trước tên riêng
- Chú thích tên gọi tắt của một tổ chức, thương hiệu: cơ quan năng lượng
nguyên tử quốc tế (IAEA), Liên minh Châu Âu (EU)
- Tiết kiệm
- Tế nhị
*Điều kiện để một từ, một ngữ có thể được viết tắt là
- Được sử dụng phổ biến, có quy ước
- Có khả năng phục hồi đầy đủ từ và quy chiếu đúng đối tượng

- Là một biểu thức được lặp lại nhiều lần trong văn bản
- Giá trị thông tin không đồng đều, có thể lược bỏ yếu tố phụ
*Dạng tắt nảy sinh trong quá trình sử dụng:
Trong một văn bản các biểu thức ngôn ngữ lặp lại nhiều lần là điều kiện nảy sinh
nhu cầu sử dụng tắt tố cho các biểu thức đó. Sau đó tùy mục đích phổ biến của đơn vị,
nó có thể trở thành một dạng viết tắt cố định, hoặc bán cố định hoặc chỉ có tính lâm
thời với những mục đích sử dụng khác nhau như: khi thì dùng tương đối độc lập, khi

17


thì phải kèm theo ngữ cảnh hay hoàn cảnh xác định và có khi chỉ hạn chết trong một
văn bản duy nhất.
Tác giả Vũ Quang Hào cho rằng đối với mỗi loại hình truyền thông hiện tượng
chữ tắt cần phải được xử lí một cách khác nhau bởi ứng xử và sử dụng đúng quy luật
mới tăng tính tiết kiệm ngôn ngữ từ nó và giảm thiểu khó khăn từ nó.[6, 125]. Tác giả
đưa ra giải pháp cụ thể cho báo in như sau:
Thứ nhất, chỉ nên đăng tải những chữ tắt có tần số xuất hiện cao và tương đối
quen thuộc đối với số đông: UBND, HTX, Tp, ĐHSP...
Thứ hai là đối với những chữ tắt là tên các tổ chức kinh tế xã hội (cơ quan, công
ty, hãng, tổ hợp sản xuất...) nếu thuộc loại chưa nổi tiếng và đối với những chữ tắt
tiếng Anh ít quen thuộc thì cần phải in kèm tên đầy đủ của nó ít nhất là lần xuất hiện
đầu tiên trong bài báo.
Thứ ba là không dùng chữ tắt của riêng cá nhân hay riêng một tổ chức nào; cũng
như không dùng trên báo chí những chữ tắt vốn quen dùng trong các văn bản chuyên
môn hẹp.
Thứ tư là trong cùng một tác phẩm báo chí không nên dùng chữ tắt quá nhiều
khiến cho tỷ lệ giữa chữ tắt/ không tắt quá gần nhau sẽ gây rối và làm loãng thông tin,
chậm tốc độ đọc.
Thứ năm là không nên dùng chữ tắt ở tít báo (kể cả tít phụ và tít dẫn) ngoại trừ

những chữ tắt là tên các tổ chức kinh tế xã hội đã quá quen thuộc với số đông, hoặc
không trùng lặp với những tên tắt khác. Chẳng hạn Vinamilk, UNICEF...
Cuối cùng là đối với một số chữ tắt chỉ nên dùng trên báo chí khi chúng đi kèm
với một tên riêng.
*Vấn đề xử lí chệch chuẩn và chuẩn mực trên báo ĐT Đồng Nai
Trên báo điện tử Đồng Nai, các hiện tượng liên quan đến chuẩn như chính tả, viết
tắt, từ ngoại lai, từ Hán Việt được xử lí theo hướng tích cực, ít bắt gặp lỗi sai. Trường
hợp ngoại lệ là từ ngoại lai, từ tắt chủ yếu ở các TĐ lĩnh vực kinh tế vì phù hợp với xu
thế thời đại là công nghiệp hóa hiện đại hóa và tạo điều điện cho hợp tác giao lưu kinh
tế và thúc đẩy quá trình tự tìm hiểu nâng cao kiến thức của người dân. Đây cũng là
hướng xử lí của các tờ báo lớn khác ở TP HCM. Từ ngữ phản ánh các khái niệm liên
18


×