Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

LUẬN VĂN: Quan điểm và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.04 MB, 115 trang )





LUẬN VĂN:

Quan điểm và đề xuất các giải pháp cụ thể
nhằm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên
địa bàn tỉnh Quảng Ngãi










Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử phát triển của các nước, doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) luôn
luôn có vai trò và tác dụng rất quan trọng. Gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học - công nghệ và xu hướng toàn cầu hóa kinh tế diễn ra khá sôi nổi, thực tiễn quản lý
kinh tế và quản lý doanh nghiệp (DN) có những chuyển biến sâu sắc, thì các DNVVN lại
càng được chú trọng.
ở nước ta, DNVVN cũng có vai trò quan trọng, do sự phát triển còn thấp của nền
kinh tế quốc dân, do tiềm năng còn lớn của nội lực dân tộc, do yêu cầu đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH). Trong 16 năm đổi mới vừa qua, nền kinh tế nước
ta đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng: cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến theo


hướng tiến bộ, tăng trưởng kinh tế ổn định trong một thời gian dài, Kết quả đó có sự
đóng góp của các DNVVN. Vì vậy, DNVVN ngày càng được coi trọng. Báo cáo chính trị
của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội lần thứ IX của Đảng một lần nữa chỉ rõ: "Chú
trọng phát triển các DNVVN ". Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 -
2010 cũng nhấn mạnh: "Phát triển mạnh các DNVVN ".
Quảng Ngãi là một tỉnh mới được tái lập từ năm 1989 sau gần 14 năm hợp nhất
với tỉnh Bình Định (từ 11/1975 đến 7/1989), là một tỉnh nghèo, với gần 90% dân số sống
ở nông thôn, lại chủ yếu sống bằng nghề nông và ở mức sống thấp, lao động nhàn rỗi và
dư thừa nhiều (tỷ lệ thất nghiệp chung khoảng 2,64%, tỷ lệ thất nghiệp thành thị:

5,74%) Song bên cạnh đó Quảng Ngãi lại có nhiều lợi thế để phát triển kinh tế: về điều
kiện tự nhiên, vị trí địa lý, có nhiều làng nghề truyền thống, có khu công nghiệp Dung
Quất, có nhiều nhà máy lớn, có lực lượng lao động dồi dào, Vì vậy, việc phát triển và
phát huy tiềm lực của các DNVVN trên địa bàn tỉnh là rất cần thiết bởi nó sẽ đóng một
vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội cho tỉnh. Muốn vậy, đòi
hỏi cần phải nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống về thực trạng DNVVN trên địa bàn
tỉnh để từ đó tìm ra định hướng, giải pháp phát triển DNVVN trên địa bàn, góp phần thực
hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Ngãi trong những năm tới.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong những năm gần đây, những vấn đề liên quan đến mô hình DNVVN luôn
được nhiều tổ chức và cá nhân quan tâm nghiên cứu. Điều đó có thể thấy rõ qua khối
lượng các tài liệu về chuyên đề này rất dồi dào, đa dạng được công bố hầu như hàng
ngày, hàng tuần, từ các luật lệ của Chính phủ, các chiến lược, chương trình phát triển
DNVVN của quốc gia, đến các sách hướng dẫn, các công trình nghiên cứu và các bài báo
về DNVVN. Có thể nêu một số công trình và tài liệu chủ yếu như sau:
- Định hướng chiến lược và chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
Việt Nam đến năm 2010 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
- Nghị định 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Dự án US/VIE/95/007 "Hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở
Việt Nam" do UNIDO tài trợ.

- Dự án "Chính sách hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam"
do PGS.TS Nguyễn Cúc - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ dự án.
- PGS.TS Nguyễn Cúc (chủ biên), Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển
doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam đến năm 2005, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2000.
- Vương Liêm - Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Hà
Nội, 2000.

- Vũ Quốc Tuấn - Hoàng Thu Hà, Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa: Kinh
nghiệm nước ngoài và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam, Nhà xuất bản
Thống kê, Hà Nội, 2001 v.v
Tuy vậy, vấn đề DNVVN đối với cả nước ta và đối với tỉnh Quảng Ngãi vẫn còn
là vấn đề mới, đặc biệt trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế, thực hiện chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội thời kỳ 2001 - 2010 và thực hiện đường lối CNH, HĐH do Đại hội Đảng
lần thứ IX đề ra thì việc nghiên cứu DNVVN vẫn là vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực
tiễn.
Đối với địa bàn tỉnh Quảng Ngãi chưa có tác giả, chưa có công trình nào đặt vấn đề
nghiên cứu về DNVVN. Đây là vấn đề lớn, mới mẻ và có ý nghĩa thiết thực đối với tỉnh,
đang đòi hỏi cần có những đầu tư nghiên cứu cụ thể, có hệ thống.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế đó, tôi lựa chọn đề tài này với mong muốn đi sâu
nghiên cứu, học hỏi những vấn đề về lý luận, đồng thời tiến hành tổng hợp số liệu kết
hợp với quá trình khảo sát thực tiễn trên địa bàn, để từ đó đề xuất ý kiến của mình về phát
triển DNVVN ở tỉnh Quảng Ngãi.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
- Mục đích:
Luận văn hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về quá trình hình thành và
phát triển của DNVVN, cũng như luận giải rõ vai trò của DNVVN trong nền kinh tế ở Việt
Nam trong thời kỳ mới, đẩy mạnh CNH, HĐH và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nói
chung, đặc biệt là trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nói riêng. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp
phù hợp nhằm phát triển DNVVN có hiệu quả, đóng góp vào tăng trưởng và phát triển kinh

tế - xã hội của tỉnh Quảng Ngãi.
- Nhiệm vụ:
Thứ nhất, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về DNVVN trong nền kinh tế Việt
Nam, đặc biệt trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

Thứ hai, phân tích thực trạng DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
Thứ ba, nêu những quan điểm và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm phát triển
DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
- Phạm vi nghiên cứu:
Vấn đề DNVVN là vấn đề rộng và phức tạp, tồn tại trong mọi lĩnh vực của nền
kinh tế quốc dân. Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, luận văn tập trung chủ yếu phân
tích thực trạng của các DNVVN trong công nghiệp - dịch vụ trên địa bàn tỉnh, từ đó đề
xuất các giải pháp để phát triển DNVVN trên địa bàn. Luận văn không đề xuất các giải
pháp để phát triển DNVVN trong từng ngành cụ thể cũng như trong từng DN cụ thể.
Thời gian nghiên cứu chủ yếu từ năm 1996 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư
tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; kế thừa
một cách có chọn lọc, hợp lý các công trình nghiên cứu có liên quan.
- Phương pháp nghiên cứu:
Vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học, trong đó chủ yếu sử
dụng phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, để phân tích đối tượng nhằm đạt
được mục đích luận văn đề ra.
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận của DNVVN, trên cơ sở phân tích
rõ thực trạng của các DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi ở nhiều khía cạnh, luận văn
sẽ mang lại một bức tranh tổng quát, toàn diện về DNVVN trên địa bàn, về những kết
quả đạt được, về những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân. Từ đó đề xuất được các giải
pháp chủ yếu nhằm phát triển DNVVN trong quá trình CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh

Quảng Ngãi.

6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, giúp các cơ quan nghiên
cứu, các ban ngành liên quan của tỉnh Quảng Ngãi tham khảo để hoạch định chính sách và
chỉ đạo thực tiễn trong việc khuyến khích phát triển DNVVN trên địa bàn tỉnh.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các trường đào tạo và các lớp tập
huấn cho cán bộ quản lý kinh tế của tỉnh.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài ra mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của
luận văn được trình bày trong 3 chương, 7 tiết.




Chương 1
Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

1.1. Sự phát triển lý luận và quan điểm về doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt
Nam
1.1.1. Quá trình nghiên cứu về DNVVN ở Việt Nam
- Tính tất yếu khách quan của sự phát triển của DNVVN ở Việt Nam
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, DNVVN ra đời sớm hơn DN lớn.
Tiền thân của các DNVVN là các hộ gia đình sản xuất tự cung tự cấp.
DNVVN không chỉ là một phạm trù phản ánh độ lớn của DN mà là một phạm trù
bao hàm nội dung tổng hợp về kinh tế tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý, tiến bộ khoa học
- công nghệ. DNVVN tồn tại và phát triển là tất yếu khách quan phù hợp với yêu cầu của
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ, tính chất phát triển của lực lượng sản
xuất.

Lịch sử ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hóa gắn với sự hình thành và
phát triển của các DN. Nền sản xuất hàng hóa xuất hiện khi sự phân công lao động đạt
đến một trình độ nhất định, cùng với chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất được xác lập.
Trong giai đoạn tiền sử (Các Mác gọi là sản xuất hàng hóa giản đơn) không có sự
phân biệt giữa giới chủ và giới thợ. Người sản xuất hàng hóa vừa là người chủ sở hữu tư liệu
sản xuất, vừa là người lao động trực tiếp, vừa là người điều khiển (quản lý) công việc của
mình (gia đình mình), vừa là người trực tiếp mang sản phẩm của mình ra trao đổi thị
trường. Đó là loại DN cá thể, DN gia đình.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh (SXKD), có một số người gặp một số vận
may và đặc biệt là nhờ tài ba, biết chớp thời cơ, có sáng kiến cải tiến kỹ thuật, biết cách
điều hành tổ chức công việc, để thành đạt, ngày càng giàu lên, tích lũy vốn, mở rộng

được quy mô SXKD và do đó cần phải thuê thêm người làm và trở thành ông chủ. Ngược
lại, một bộ phận lớn người sản xuất hàng hóa nhỏ khác thua lỗ triền miên, buộc phải bán
tư liệu sản xuất, đi làm thuê cho người khác.
Theo các nhà kinh tế học hiện đại, thông thường đại đa số những người khi mới
trưởng thành đều muốn thử sức mình trong nghề kinh doanh. Bắt đầu sự nghiệp với số
vốn ít ỏi của mình phần lớn họ đều thành lập DN nhỏ chỉ của riêng mình, tự SXKD.
Trong quá trình kinh doanh của mình, một số người thành đạt đã phát triển DN của mình
bằng cách mở rộng quy mô SXKD và như vậy, nhu cầu về vốn đòi hỏi sẽ nhiều hơn. Từ
đó, thôi thúc các nhà DN hoặc là vài ba người cùng nhau góp vốn liên doanh thành lập xí
nghiệp liên doanh, hoặc phát hành cổ phiếu thành lập công ty cổ phần (CTCP), bằng cách
thành lập "liên kết dọc", "liên kết ngang" để phát triển DN. Các DN lớn ra đời phát
triển từ các DNVVN và thông qua liên kết với các DNVVN. Nền kinh tế của một quốc
gia là do tổng thể các DN lớn, nhỏ tạo thành.
Ngày nay, khi cách mạng khoa học - công nghệ diễn ra như vũ bão và tác động
sâu sắc tới sự thay đổi của sản xuất, quản lý và đời sống thì DNVVN cũng có sự thay đổi
về chất so với DNVVN của các thế kỷ trước: có kỹ thuật và công nghệ hiện đại, sản xuất
sản phẩm đạt chất lượng cao, DNVVN không phát triển rời rạc mà gắn bó và "nấp dưới
bóng" của các DN lớn.

Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, mô hình DNVVN ngày càng được
mở rộng và phổ biến không chỉ ở các nước công nghiệp phát triển mà cả ở những nước
đang phát triển và kém phát triển. Vì thế, dù mang cái tên rất khiêm tốn "vừa và nhỏ"
song sức sống và vai trò của nó thật sự không nhỏ.
- Sự ra đời của các DNVVN ở Việt Nam
Theo các tài liệu lịch sử, DNVVN ở Việt Nam đã được hình thành cùng với quá
trình ra đời nghề thủ công và làng nghề truyền thống trong nông thôn. Những nghề và
làng nghề thủ công truyền thống quan trọng, nổi tiếng phần lớn đã ra đời từ rất lâu, vài
trăm đến hàng nghìn năm ở đồng bằng sông Hồng rồi sau đó lan ra cả nước. Hình thành
tổ chức SXKD của nghề thủ công và làng nghề truyền thống trước đây chủ yếu là kinh tế

hộ gia đình hoặc liên gia đình trong từng làng xã, vừa mang tính chất sản xuất hàng hóa,
vừa mang tính chất sáng tạo nghệ thuật.
Trong thời kỳ bị thực dân Pháp đô hộ, nghề thủ công truyền thống vẫn được tiếp
tục tồn tại và phát triển. Dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật và phương thức
kinh doanh tư bản chủ nghĩa (TBCN), các DNVVN đã được hình thành.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công và đất nước bước vào cuộc
trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, các DNVVN vẫn phát triển. Vùng bị tạm
chiếm, nhiều chủ DN chủ yếu ở các thành phố lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài
Gòn bỏ vốn ra kinh doanh. Trong vùng tự do, chính quyền cách mạng thành lập các DN
để sản xuất các mặt hàng phục vụ kháng chiến và đáp ứng nhu cầu của nhân dân, đồng
thời khuyến khích nhân dân lập xưởng sản xuất sản phẩm phục vụ tiêu dùng. Các
DNVVN ở vùng tự do đã có tác dụng to lớn trong việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của bộ
đội, nhân dân và phục vụ cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp đến thắng lợi vẻ vang.
Từ năm 1954 đến năm 1975, các DNVVN ở hai miền Bắc - Nam phát triển theo
hai đường lối, cơ chế khác nhau. ở miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội
(CNXH), hàng loạt xí nghiệp quốc doanh có quy mô lớn ra đời, đồng thời các xí nghiệp
quốc doanh của cấp huyện được phát triển mạnh, còn DNVVN của tư nhân bị cải tạo, xóa
bỏ. ở miền Nam, một mặt các cơ sở công nghiệp lớn, chủ yếu tập trung ở các thành phố
lớn như Đà Nẵng, Sài Gòn, được phát triển, mặt khác các DNVVN chủ yếu thuộc sở

hữu tư nhân cũng ra đời và phát triển mạnh.
Từ năm 1975 - 1985, các DNVVN ở miền Nam hoặc là bị quốc hữu hóa, hoặc được
cải tạo, xóa bỏ. DNVVN ngoài quốc doanh không được khuyến khích phát triển, phải
hoạt động dưới hình thức hộ gia đình, tổ hợp, hợp tác xã (HTX), công tư hợp doanh,
Nói chung, ở thời kỳ này các DNVVN ở hai miền được phát triển theo cơ chế kế hoạch
hóa tập trung, số lượng DNVVN chưa nhiều và tồn tại dưới hai loại hình: xí nghiệp quốc
doanh, HTX.
Sau năm 1986, nhờ tác động của các chủ trương và chính sách phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thừa nhận sự tồn tại và lâu dài của các hình thức sở

hữu khác nhau, đã tạo điều kiện cho hàng loạt cơ sở sản xuất tư nhân, cá thể, hộ gia đình
ra đời, phát triển.
- Quá trình nghiên cứu về DNVVN ở Việt Nam
Nhìn lại quá khứ, chúng ta nhận thấy, trên thực tế các DNVVN ở nước ta đã ra
đời, tồn tại cách đây hàng trăm, nghìn năm. Song trước đây do chúng ta quan niệm và
vận dụng máy móc chế độ sở hữu, chỉ chú trọng phát triển kinh tế quốc doanh, coi nhẹ
việc sử dụng kinh tế ngoài quốc doanh, muốn xóa bỏ nhanh kinh tế tư nhân, cá thể (hầu
hết là DNVVN) nên Chính phủ đã áp dụng nhiều chính sách và biện pháp nhằm hạn chế
tối đa sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Có thể nói, về mặt nhận thức, chúng ta
không chính thức thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tư nhân. Từ đó làm cho bộ phận kinh tế
ngoài quốc doanh phát triển rất thấp, không tương xứng với tiềm năng của nó trong nền
kinh tế, làm cho nền kinh tế Việt Nam liên tục rơi vào các cuộc khủng hoảng trầm trọng.
Để khắc phục khủng hoảng kinh tế, bắt nguồn từ năm 1986, Đảng Cộng sản Việt
Nam và Nhà nước Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, trên phạm vi toàn
quốc, trong đó đổi mới kinh tế được chú trọng đặc biệt, sự đổi mới kinh tế này đã tạo ra
những cơ sở pháp lý, chính trị và kinh tế cho sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
tại Việt Nam, bao gồm khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (bao
gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân). Nhờ đó, hàng loạt các DN (chủ yếu là
DNVVN) đã được hình thành, phát triển và đóng góp một phần đáng kể cho sự tăng
trưởng của nền kinh tế. Tuy nhiên, theo nhận định của các nhà kinh tế thì DNVVN còn

gặp nhiều khó khăn trong SXKD, chưa phát huy được hết tiềm năng của mình bởi nhiều
nguyên nhân: do bản thân của các DN, do hiểu biết về loại hình DN này còn nhiều hạn chế,
Mặt khác, các chuyên gia cùng nhận định, khu vực DNVVN ở Việt Nam sẽ trở thành một
động lực quan trọng cho sự phát triển của kinh tế đất nước. Chính vì vậy, đòi hỏi cần phải
tiến hành nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện về DNVVN, để từ đó tạo điều kiện cho
các DNVVN phát huy hết khả năng của mình cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.
Việc nghiên cứu loại hình DNVVN đã được Nhà nước quan tâm và được các tổ
chức của nhiều nước trên thế giới ủng hộ, hỗ trợ. Nhiều cơ quan khoa học, cơ quan quản lý

và nhiều địa phương đã tiến hành nghiên cứu về DNVVN: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện
Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội (Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hội
đồng Liên minh các HTX Việt Nam, Tổ chức phát triển công nghiệp Liên Hợp quốc
(UNIDO), Trung tâm kinh tế châu á - Thái Bình Dương, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh
Ngay từ những năm 1990, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương đã tiến
hành hai cuộc hội thảo về DNVVN có sự tài trợ của Cộng hòa Liên bang Đức, sau đó tiến
hành khảo sát 135 DNVVN ở tỉnh Hà Bắc.
Năm 1991, Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội (Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội) cùng với Trung tâm xúc tiến việc làm châu á (ARTEP-
ILO) và các cộng tác của trường Đại học kinh tế Stockholm (Thụy Điển) đã tiến hành
khảo sát điều tra 1.000 DN nhỏ ở Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh, Vĩnh Phú,
Quảng Ninh, Long An (theo chương trình của dự án VIE 90/MO).
Năm 1993, Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội phối hợp với Viện
Khoa học lao động Nhật Bản thực hiện cuộc khảo sát 300 DNVVN ở Hải Phòng, thành
phố Hồ Chí Minh, Quảng Nam - Đà Nẵng
Việc nghiên cứu về DNVVN ở Việt Nam cũng được thuận lợi bởi Việt Nam
trong những năm qua liên tục nhận được sự ủng hộ rộng rãi của quốc tế. Trước hết, Việt
Nam tiếp nhận nhiều dự án phát triển DNVVN của Liên Hợp Quốc như dự án VIE/86-
054 về đào tạo bồi dưỡng kiến thức cho các DNVVN, Liên minh châu Âu (EU) - Việt

Nam xây dựng "Quỹ phát triển các DNVVN", năm 1996 Viện FRIEDRICH EBERT của
Cộng hòa Liên bang Đức hợp tác với Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tài trợ
cho dự án: "Chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN ở Việt Nam", năm 1997 Công ty Tài
chính quốc tế chuyên trách khu vực tư nhân thuộc Ngân hàng Thế giới xây dựng
"Chương trình dự án Mê Kông MPDF" nhằm thành lập và phát triển DNVVN khu vực tư
nhân cho ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia. Các nước Vương quốc Anh, Hàn Quốc,

Nhật Bản, Đài Loan, đã cử chuyên gia, giúp tư vấn cũng như tài trợ về vốn cho khảo
sát, lập quỹ bảo lãnh tín dụng, để nghiên cứu và phát triển DNVVN ở Việt Nam.
Có thể nói, mặc dù thời gian nghiên cứu DNVVN ở Việt Nam chưa nhiều song
được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự hỗ trợ của các tổ chức trên thế giới, quá trình
nghiên cứu này đã thu hút được nhiều nhà khoa học, nhiều chuyên gia trong nước và
ngoài nước tham gia, do đó hàng loạt các tài liệu, các sách hướng dẫn, các bài báo, các
công trình nghiên cứu về DNVVN được công bố. Các vấn đề về lý luận và thực tế liên
quan đến DNVVN đều được đưa ra nghiên cứu và ngày càng sáng tỏ: khái niệm, tiêu chí
xác định, ý nghĩa của DNVVN ở Việt Nam, các chính sách liên quan đến DNVVN,
Song vì đây là vấn đề nghiên cứu rất rộng và phức tạp, nên quá trình nghiên cứu về
DNVVN vẫn luôn là vấn đề cấp thiết, luôn cần sự quan tâm của các nhà khoa học để từng
bước tháo gỡ những vướng mắc, những vấn đề mới nảy sinh nhằm tạo điều kiện cho các
DNVVN phát triển, khai thác tốt tiềm năng, góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh
tế đất nước.
1.1.2. Những vấn đề lý luận đã đạt được về DNVVN ở Việt Nam
Như đã trình bày phần trên, việc nghiên cứu DNVVN ở Việt Nam mặc dù chỉ
mới thực hiện trong thời gian ngắn so với thực tế tồn tại DNVVN ở Việt Nam, song kết
quả đạt được rất lớn, hàng loạt các vấn đề về DNVVN ở Việt Nam đã được làm sáng tỏ.
Cụ thể:
- Từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, bắt đầu đã hình thành khái niệm
DNVVN, thuật ngữ DNVVN bước đầu đã đi vào cuộc sống, đi vào các tài liệu khoa học,
các văn kiện của Đảng và Nhà nước.
- Từng bước hoàn chỉnh định nghĩa về DNVVN. Mỗi cơ quan nghiên cứu đều

đưa ra định nghĩa về DNVVN. Trên cơ sở những định nghĩa đó, trong Nghị định số
90/2001/NĐ-CP của Chính phủ đã đưa ra định nghĩa DNVVN ở Việt Nam: DNVVN là
các cơ sở SXKD, đã ĐKKD theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ
đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Theo định nghĩa thì
DNVVN ở Việt Nam bao gồm:

+ Các DN thành lập và hoạt động theo Luật DN.
+ Các DN thành lập và hoạt động theo Luật DNNN.
+ Các HTX thành lập và hoạt động theo Luật HTX.
+ Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03
tháng 02 năm 2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh (ĐKKD).
- Khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của các DNVVN trong sự nghiệp phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
- Phân tích làm rõ những ưu thế, hạn chế cũng như khuyết điểm của các
DNVVN.
- Xác định những điều kiện kinh tế - xã hội cũng như vai trò quản lý của Nhà
nước, của các tổ chức phi chính phủ đối với sự phát triển nhanh, mạnh và có hiệu quả của
các DNVVN.
- Nghiên cứu hình thành và hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô cũng như các
chính sách hỗ trợ để phát triển DNVVN.
Với kết quả đạt được của quá trình nghiên cứu, đặc biệt là với sự ra đời của Nghị
định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển DNVVN đã làm thay đổi
quan niệm của các cấp ủy Đảng và Nhà nước cũng như nhận thức của mọi người nói
chung về loại hình DNVVN, từ chỗ không chấp nhận sự tồn tại, phân biệt đối xử, kỳ
thị, đến chỗ thừa nhận, khuyến khích hỗ trợ DNVVN phát triển. Trên cơ sở kết quả
nghiên cứu, nhiều kiến nghị, giải pháp được trình bày cho các nhà hoạch định chính sách,
cho Chính phủ, tạo cơ sở ban hành những chính sách nhằm khuyến khích phát triển
DNVVN.
Bên cạnh những kết quả nghiên cứu đã đạt được, đứng trước tình hình biến đổi
phức tạp và sôi động của đời sống kinh tế - xã hội nhiều vấn đề mới đối với DNVVN tiếp

tục phát sinh, đòi hỏi cần được tiếp tục nghiên cứu để phục vụ chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội trong thời kỳ CNH, HĐH.

1.1.3. Những quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước về DNVVN
Trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam, các DN có quy mô vừa và nhỏ
đã được Đảng và Nhà nước quan tâm, song trong từng giai đoạn khác nhau sự quan tâm,
tạo điều kiện cũng khác nhau bởi sự khác nhau về quan điểm đối với loại hình DN này.
- Giai đoạn từ 1986 trở về trước
Trong giai đoạn này, Đảng và Nhà nước ta quan niệm về chế độ sở hữu XHCN
gồm hai bộ phận quốc doanh và tập thể, còn kinh tế tư nhân thuộc diện cải tạo. Xét về
quy mô, cả quốc doanh và tập thể đều là loại vừa và nhỏ, nhất là các HTX tiểu thủ công
nghiệp, nhưng chưa có khái niệm về DNVVN.
- Giai đoạn từ 1986 đến nay
Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn
diện mà trọng tâm là đổi mới kinh tế, thừa nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài của các
thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Nghị quyết Đại hội VI khẳng định: cùng
với việc phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, cần sử dụng
khả năng tích cực của kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa, kinh tế tư bản tư nhân, mở rộng
nhiều hình thức liên kết giữa các thành phần kinh tế theo nguyên tắc cùng có lợi và bình
đẳng trước pháp luật. Đường lối này lại được củng cố thêm ở Đại hội Đảng VII, VIII, IX,
các văn kiện của Đảng tại các kỳ Đại hội này đều nêu rõ chủ trương xuyên suốt là thực
hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành
phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là các bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN. Theo đó các DN thuộc bất cứ thành phần kinh tế
nào kinh doanh đúng pháp luật, theo định hướng chung của Nhà nước đều được khuyến
khích, tạo điều kiện để phát triển. Vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, thuật ngữ
DNVVN bắt đầu du nhập vào nước ta, cũng có ý kiến cho rằng, đây là loại hình kinh tế
của chủ nghĩa tư bản. Nhưng qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn đã khẳng định rằng, sự
tồn tại của DNVVN là tất yếu khách quan đối với nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta. Từ đó, đã tác động lớn đến quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với

DNVVN. DNVVN không còn coi là phụ trợ như trước, mà giờ đây là công cụ hữu hiệu,

là nhà thầu phụ quan trọng cho các DN lớn góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII nhấn mạnh: "Trong phát triển mới, ưu tiên
quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh; đồng thời
xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả" [10, tr. 28]. Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp tục nhấn mạnh: "Chú trọng phát triển các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, xây dựng một số tập đoàn lớn đi đầu trong cạnh tranh và hiện đại
hóa" [12, tr. 27].
Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để từng bước hình
thành hệ thống thể chế chính sách khuyến khích phát triển DNVVN. Có thể kể ra đây
những văn bản quan trọng như:
+ Hiến pháp năm 1992 công nhận quyền tự do kinh doanh của mọi công dân theo
quy định của pháp luật, công nhận quyền được đối xử của các thành phần kinh tế, trong
đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
+ Nghị định 66-HĐBT ngày 2-3-1992 của Hội đồng Bộ trưởng về cá nhân và
nhóm kinh doanh có vốn thấp hơn mức vốn pháp định quy định trong Nghị định 221-
HĐBT ngày 23-7-1991
+ Luật Công ty và Luật DN tư nhân 1990 quy định khung pháp luật cho các DN
này hoạt động, tham gia thị trường trong nước và ngoài nước.
+ Luật Đất đai năm 1993, sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm
1998 và năm 2001 đã quy định các DN có quyền hợp pháp về sử dụng đất, có quyền
chuyển nhượng hoặc thế chấp quyền sử dụng đất.
+ Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994 quy định rõ những chính sách
ưu đãi cho các dự án kinh doanh thuộc các ngành nghề, các vùng khó khăn, đặc biệt khó
khăn cần được ưu đãi.
+ Luật HTX năm 1996 nhằm để phát huy vai trò quan trọng của kinh tế hợp tác,
tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của HTX.

+ Nghị định số 15/CP-1997 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển

HTX.
+ Luật Thuế thu nhập DN năm 1997 đơn giản hóa và thực hiện thống nhất một
sắc thuế thu nhập cho các loại hình kinh doanh trong nước.
+ Luật Thuế giá trị gia tăng - một sắc thuế giản đơn, công bằng thay thế Luật
Thuế doanh thu.
+ Luật Thương mại năm 1997 tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thương mại của
các DN.
+ Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) năm 1998 và Nghị định số 51
(7/1999) cụ thể hóa việc thực hiện luật đó, đã đề ra khá nhiều chính sách cụ thể áp dụng
cho tất cả các loại hình tổ chức SXKD, kể cả cá nhân và nhóm kinh doanh theo Nghị định
66/HĐBT (nay là Nghị định 02/2000/QĐ-TTg ngày 03-02-2000 của Chính phủ về đăng
ký kinh doanh).
+ Luật DN năm 1999 (có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2000) quy định việc tổ
chức hoạt động của bốn loại hình DN: công ty TNHH, CTCP, DNTN, công ty hợp danh,
trên cơ sở hợp nhất Luật Công ty và Luật DNTN trước kia.
+ Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg ngày 24/11/2000 của Thủ tướng Chính phủ
về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn.
+ Quyết định số 46/2001 ngày 4/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ về xuất, nhập
khẩu thời kỳ 2001-2005 đề ra một cơ chế 5 năm thay cho cơ chế hàng năm trước đây,
giảm bớt các biện pháp phi quan thuế, tăng các biện pháp kinh tế.
+ Các chính sách về tín dụng ngân hàng cho đầu tư phát triển như Quyết định
67/1997/QĐ-TTh, Nghị định 43/1999/NĐ-CP
+ Đặc biệt là Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển
DNVVN.

Rõ ràng là, trải qua 16 năm đổi mới của Đảng, thể chế kinh tế nước ta đã từng
bước chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường, một hệ thống các chính
sách theo thể chế kinh tế thị trường đã từng bước hình thành, tuy chưa thật sự hoàn chỉnh,
song hệ thống chính sách hiện hành này đã bao quát hầu hết các lĩnh vực liên quan đến
hoạt động của DNVVN như: chính sách về hành nghề và tạo lập DN, chính sách về thuế,

chính sách về vốn và tín dụng, chính sách thương mại, chính sách đất đai, chính sách
công nghệ,
Nhờ hệ thống chính sách này mà kinh tế dân doanh bước đầu bùng nổ, mọi lực
lượng sản xuất được giải phóng đã đem lại sức phát triển mới của nền kinh tế nước ta, tạo
thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Một ví dụ nổi bật, là từ khi Luật DN có
hiệu lực thi hành, chỉ riêng năm 2000 đã có thêm 13.891 DN mới ĐKKD, năm 2001
thêm 22.945 DN, 6 tháng đầu năm 2002 thêm khoảng 11.000DN nhưng đáng chú ý nhất
là số DN mới này đã giải quyết được thêm 1 triệu lao động mới có việc làm (khoảng 30%
số lao động mới) (chưa kể hơn 300.000 hộ kinh doanh cá thể mới đăng ký thu hút khá
nhiều lao động) [21, tr. 62].
Song, như trên đã trình bày, đây là hệ thống chính sách chung cho DN chứ chưa
phải là hệ thống chính sách riêng đối với DNVVN (trừ Nghị định 90), vì thế mà cơ chế,
chính sách đối với DNVVN còn nhiều sơ hở, chồng chéo, thậm chí thiếu nhất quán.
Trong hệ thống chính sách đã đưa ra các quan điểm bình đẳng nhưng trong thực tế điều
hành thì vẫn còn có sự đối xử phân biệt giữa các thành phần kinh tế, các loại hình DN. Vì
vậy cần phải tiếp tục nghiên cứu và ban hành các chính sách phù hợp với đặc điểm
DNVVN, nhất là trong tình hình hiện nay.
1.2. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta
1.2.1. Tình hình phát triển DNVVN trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam
Trước năm 1986, DNVVN ngoài quốc doanh nói chung, DNTN, cá thể nói riêng
chưa thật sự được quan tâm khuyến khích phát triển, do vậy họ phải tổ chức hoạt động

núp bóng dưới các hình thức như tổ hợp, hộ gia đình, HTX, xí nghiệp công tư hợp
doanh
Từ năm 1986 đến nay, quan điểm, đường lối, chủ trương mới về chính sách cơ
cấu kinh tế và cơ chế quản lý dẫn đến sự thay đổi cơ bản hệ thống DN trong nền kinh tế
quốc dân. Các thành phần kinh tế được chính thức thừa nhận và khuyến khích phát triển.
Từ đó hàng loạt các DN, nhất là các DN ngoài quốc doanh (trong đó phần lớn là
DNVVN) đã ồ ạt ra đời và phát triển. Trong thời kỳ đổi mới số lượng DN của các thành

phần kinh tế có sự biến động rất lớn: số lượng DNNN giảm liên tục, từ 12.300 DN năm
1990 sau ba đợt sắp xếp, đổi mới đã giảm xuống còn 5.655 DN (tháng 5/2001), giảm
55% về số lượng, chủ yếu là các DN nhỏ và do địa phương quản lý, số lượng DNVVN
thuộc DNNN giảm từ 90% xuống còn 75% trong tổng số DNNN [2, tr. 7]. Trong khi đó
thì số lượng DN trong khu vực kinh tế tư nhân tăng mạnh, nếu như năm 1991 chỉ có 123
DN (bao gồm DNTN, công ty TNHH, CTCP) đăng ký theo Luật, thì đến năm 1992 có
4.347 DN, năm 1993 là 12.131 DN, năm 1994 có 18.412 DN, năm 1998 có 28.708 DN,
năm 1999 có 37.557 DN, đặc biệt từ khi Luật DN ra đời (01/01/2000) số lượng DN khu
vực kinh tế tư nhân tăng nhanh cả về tốc độ và vốn ĐKKD, năm 2000 có 51.448 DN
(tăng 36,9%), năm 2001 có 74.393 DN (tăng 44,6%) và tính đến cuối tháng 6/2002 tổng
số DN thuộc khu vực này đã lên đến 85.393 DN với số vốn ĐKKD bình quân là 970 triệu
đồng/DN (năm 2000), 1,25 tỷ đồng/DN (năm 2001), 1,5 tỷ đồng/DN (6 tháng đầu năm
2002) [30, tr. 91] [21, tr. 62].
Hiện nay, qua các cuộc điều tra cho thấy DNVVN chiếm đến 95-98% số DN cả
nước. DNVVN có mặt trong hầu hết các ngành kinh tế quốc dân, trong đó phần lớn tập
trung vào các lĩnh vực chính: thương mại, dịch vụ sửa chữa, vận tải, công nghiệp chế
biến, xây dựng, và được phân bổ rộng khắp trong phạm vi cả nước từ thành phố, thành
thị đến vùng nông thôn.
Hiện nay, DNNN đang trong giai đoạn tiếp tục xử lý, củng cố lại và tiến hành cổ
phần hóa, cho thuê, bán cho các thành phần kinh tế khác theo tinh thần Nghị quyết Trung
ương 3 (khóa IX), đồng thời thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về việc tiếp

tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân,
DNVVN sẽ có xu hướng và điều kiện để phát triển mạnh hơn nữa.
1.2.2. Vai trò của các DNVVN trong thời kỳ CNH, HĐH ở nước ta
Về tiêu chí phân loại DNVVN, có những ý kiến khác nhau nhưng trong đánh giá
về vai trò của DNVVN có thể nói là khá tập trung và thống nhất: DNVVN có vai trò đặc
biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, thể
hiện qua các mặt sau đây:
- Đóng góp vào việc tăng trưởng nền kinh tế

Theo số liệu thống kê và đánh giá của các chuyên gia thì mỗi năm DNVVN đóng
góp 25% - 26% GDP của cả nước [41]. Song trong những năm gần đây với sự phát triển
mạnh mẽ của loại hình DNVVN này khả năng đóng góp vào GDP của cả nước ngày càng
tăng. Trong năm 2000, tỷ trọng của khu vực kinh tế tập thể trong GDP là 8,5%, khu vực kinh
tế tư nhân 32%, khu vực kinh tế hỗn hợp 3,9%, như vậy tổng của 3 khu vực trên chiếm
khoảng 44,2% GDP của cả nước (mà đây là các khu vực DN tồn tại chủ yếu là DNVVN)
[12, tr. 229]. Theo Tổng cục thống kê, năm 2000 khu vực kinh tế tư nhân nộp Ngân sách
11.003 tỷ đồng, năm 2001 là 11.075 tỷ đồng, chiếm 14,8% tổng thu Ngân sách [21, tr. 62].
Do số lượng DNVVN tăng nhanh nên mặt hàng phong phú, đáp ứng ngày càng
tốt hơn nhu cầu xã hội. DNVVN góp phần khai thác tiềm năng của đất nước để phát triển
kinh tế, đặc biệt trong việc phát triển ngành nghề truyền thống, thực hiện CNH, HĐH
nông nghiệp và nông thôn. Việc phát triển DNVVN trong các ngành nghề truyền thống trong
nông thôn hiện nay là một trong những hướng quan trọng để sử dụng tay nghề tinh xảo của
các nghệ nhân mà hiện đang có xu hướng mai một dần, thu hút lao động nông thôn, phát
huy lợi thế từng vùng để phát triển kinh tế, đồng thời đang là một thế mạnh của ta trong
quá trình hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.
- Tạo việc làm cho người lao động
Khu vực DNVVN thuộc các thành phần kinh tế hiện thu hút một lượng lao động
khá lớn, chiếm khoảng 79,2% tổng số lao động phi nông nghiệp và bằng 22,5% lực lượng

lao động cả nước, nhưng so với các nước trong khu vực (chiếm 50-60%) thì còn quá thấp
[3, tr. 6]. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, năm 2000, cả nước có tới 1.447.000 người
đang trong độ tuổi lao động không có việc làm, trong đó khu vực thành thị có 692.000
người, chiếm 48% và khu vực nông thôn có 755.000 người, chiếm 52%. Theo dự báo, từ
năm 2000 đến năm 2010, mặc dù dân số có thể tăng chậm lại (từ 1,43% năm 1999 xuống
1,17% năm 2010) [48, tr. 247], nhưng nguồn lao động của nước ta vẫn tăng (đến năm
2010 có khoảng 56,8 triệu người trong độ tuổi lao động, tăng
11 triệu người so với năm 2000) [12, tr. 210]. Đây là cơ hội lớn về nguồn nhân lực và
cũng là thách thức rất lớn về giải quyết việc làm. Các DNVVN đang là nơi có triển vọng
thu hút lao động rất lớn, là nơi có nhiều thuận lợi để tiếp nhận số lao động, nhất là lao

động ở nông thôn tăng thêm mỗi năm, vì vậy, để thực hiện mục tiêu giảm tỷ trọng lao
động nông nghiệp đến năm 2010 còn 50% thì phải phát triển mạnh DNVVN. Đồng thời,
DNVVN còn là nơi tiếp nhận số lao động từ các DNNN và DN có vốn đầu tư nước
ngoài. Sở dĩ DNVVN có khả năng thu hút lao động lớn là vì suất đầu tư cho một chỗ làm
việc ở DNVVN thấp hơn rất nhiều so với DN lớn, chủ yếu là do chi phí thấp và thu hút
được các nguồn vốn rải rác trong dân.
- Nâng cao thu nhập cho dân cư.
Thu nhập của nhân dân ta còn quá thấp, do nền kinh tế phát triển chậm. Thu nhập
của dân cư nông thôn (chiếm trên 80% tổng dân số) lại chủ yếu phụ thuộc vào nền nông
nghiệp thuần nông, mà trong nông nghiệp, dù sản lượng thóc có tăng nhanh nhưng nếu
không có công nghiệp chế biến thì không thể làm giàu. Kết quả điều tra của các nhà
nghiên cứu cho thấy, thu nhập của vùng dân cư có các DN phát triển gấp 4 lần thu nhập
của các vùng dân cư thuần nông; thu nhập bình quân của lao động trong các DNVVN là
300.000đ - 400.000đ/tháng so với thu nhập của lao động nông thôn thuần nông là
100.000đ - 200.000đ/tháng. Do đó việc phát triển DNVVN là biện pháp chủ yếu để tăng
thu nhập, đa dạng hóa thu nhập của các tầng lớp dân cư có thu nhập thấp ở các vùng
trong nước.
- Làm cho nền kinh tế năng động hiệu quả hơn.

Với sự góp mặt của các DNVVN làm cho số lượng các DN trong nền kinh tế
tăng lên rất lớn, kéo theo sự tăng lên về chủng loại, mặt hàng, dịch vụ, phương thức phục
vụ, quá trình này làm tăng thêm mức độ cạnh tranh trong nền kinh tế, người tiêu dùng
được hưởng phần sản phẩm, dịch vụ với chất lượng tốt hơn, giá cả rẻ hơn, phương thức
phục vụ văn minh, tiện lợi hơn. Với quy mô nhỏ, vốn ít, sự thích nghi nhanh, các
DNVVN có nhiều khả năng thay đổi mặt hàng, đổi mới công nghệ, làm cho nền kinh tế
năng động hơn. Ngoài ra các DNVVN còn có tác dụng hỗ trợ, làm chân rết cho các DN
lớn kinh doanh có hiệu quả thông qua các hoạt động như làm đại lý, vệ tinh, tiêu thụ hàng
hóa hoặc cung cấp vật tư đầu vào, thâm nhập vào hết các ngóc ngách của thương trường
mà các DN lớn không với tới được.
- Thu hút vốn.

Vốn là yếu tố cơ bản của quá trình SXKD, nó có vai trò quan trọng trong phát
triển kinh tế của cả nước cũng như đối với từng DN. Nhưng thực tế hiện nay đang có một
nghịch lý là hầu hết các DN của ta đang thiếu vốn trầm trọng trong khi đó vốn nhàn rỗi
trong dân cư còn rất lớn nhưng không thể huy động được cho SXKD. Có nhiều nguyên
nhân dẫn đến tình trạng này, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do môi trường kinh doanh
chưa ổn định, tính pháp lý chưa cao. Trong tình hình đó, chính các DNVVN với đặc điểm
hình thành của nó gắn liền với các điều kiện thực tế của các dân cư nên dễ tiếp xúc trực
tiếp với các nguồn vốn này để huy động vốn hoặc chính người chủ sở hữu vốn đầu tư vốn
để trực tiếp kinh doanh. Thực tế cho thấy, các DNVVN đã huy động ngày càng nhiều vốn
trong xã hội đầu tư vào SXKD. Năm 2000, chỉ tính riêng khu vực kinh tế tư nhân, vốn
ĐKKD tăng gấp hơn 4,5 lần so với năm 1995, vốn đầu tư tăng 13% so với năm 1999,
chiếm khoảng 24,3% tổng số vốn đầu tư xã hội. Tính đến tháng 3/2002 vốn đăng ký của
khu vực kinh tế tư nhân đã lên tới 55.000 - 60.000 tỷ đồng, tương ứng 4 tỷ USD.
- Góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH
Các DNVVN có vai trò to lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc
biệt đối với khu vực nông thôn. Sự phát triển của các DNVVN ở nông thôn đã thúc đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm cho công nghiệp phát triển mạnh, đồng

thời thúc đẩy các ngành thương mại - dịch vụ phát triển. Sự phát triển của các DNVVN ở
thành thị cũng góp phần làm cho tỷ trọng dịch vụ tăng thêm và làm cho tỷ trọng khu vực
nông nghiệp thu hẹp lại trong cơ cấu kinh tế quốc dân, làm dịch chuyển từ một nền kinh
tế sản xuất nhỏ thuần nông sang một nền kinh tế đủ cơ cấu theo hướng tiến lên xã hội văn
minh, hiện đại, thể hiện trên các mặt:
+ Cơ cấu thành phần kinh tế: Chuyển hướng theo đúng các quy luật của cơ cấu
kinh tế hàng hóa theo định hướng XHCN, các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên
nhanh chóng, phát huy được tiềm năng cho tăng trưởng đất nước, các DNNN được sắp
xếp, củng cố lại, kinh doanh có hiệu quả để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
+ Cơ cấu ngành: Phát triển nhiều ngành, nghề đa dạng và phong phú theo hướng
lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo.
Thực tế qua 16 năm đổi mới, cơ cấu kinh tế ở nước ta thay đổi theo hướng tiến

bộ, tỷ trọng giá trị nông nghiệp giảm liên tục, còn tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ
tăng lên, trong đó có sự đóng góp của DNVVN.
+ Cơ cấu vùng, lãnh thổ: Các DN được phân bổ rộng khắp trên mọi vùng lãnh
thổ: cả vùng nông thôn, đô thị, miền núi, đồng bằng. Tuy nhiên, hiện nay, các DNVVN
vẫn chủ yếu tập trung ở thành thị. Đây là vấn đề cần lưu tâm trong việc hoạch định chính
sách.
- Góp phần đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện trong thực tế một đội ngũ doanh
nhân mới trong kinh tế thị trường
Các DNVVN là nơi đào tạo, rèn luyện cho các nhà quản lý DN. Với quy mô vừa
và nhỏ là môi trường thuận lợi cho các nhà quản lý DN làm quen với môi trường kinh
doanh. Bắt đầu từ đây một số nhà quản lý DN đã trưởng thành lên những nhà quản lý DN
lớn, tài ba, biết đưa DN của mình nhanh chóng phát triển. Đây là vấn đề rất quan trọng
bởi ở Việt Nam trong nhiều năm đội ngũ các nhà quản lý DN gắn liền với cơ chế bao cấp
nên chưa có kinh nghiệm với kinh tế thị trường.

Tóm lại, DNVVN có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất
nước và vai trò này ngày càng được tăng lên cùng với quá trình CNH, HĐH, bởi
DNVVN đang là động lực cho phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm, huy động vốn
trong nước, chuyển dịch cơ sở kinh tế, Do tầm quan trọng của các DNVVN đang ngày
càng tăng và tiềm năng của DNVVN trong nền kinh tế, nên quyết định của Chính phủ về
xây dựng chiến lược phát triển cho các DNVVN, theo Công văn số 681/CP-KTH và Nghị
định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNVVN, rõ ràng là những quyết định kịp
thời.
1.2.3. Khái quát những vướng mắc và hạn chế của DNVVN
Bên cạnh những ưu thế vốn có của bản thân DNVVN, những thuận lợi do chính
sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, sự phát triển của các DNVVN đang gặp phải những
hạn chế và vướng mắc sau:
- Quan điểm của xã hội về DNVVN
Cho đến nay, tư duy cũ của cơ chế kế hoạch hóa tập trung không công nhận thị
trường, không công nhận kinh tế dân doanh vẫn đang còn là rào cản khá lớn để đưa doanh

nhân thời kinh tế thị trường trở về với vị trí của họ, vẫn còn sự kỳ thị phân biệt đối xử đối
với doanh nhân, nhất là doanh nhân trong khu vực ngoài quốc doanh kể cả trong cán bộ,
công chức nhà nước (mà DNVVN chủ yếu là khu vực ngoài quốc doanh). Nhiều người vẫn
còn thích làm việc trong các DNNN hơn, bởi họ quan niệm làm việc trong DNNN mới
được coi là có việc làm, có trong biên chế. Hơn nữa, trong khu vực tư nhân bảo hiểm xã
hội và những vấn đề phúc lợi xã hội khác chưa được đảm bảo đầy đủ.
- Vốn và tín dụng.
Hiện nay, 75% số DNVVN có số vốn dưới 50 triệu đồng, thiếu vốn đang là khó
khăn phổ biến, nhưng số DNVVN được vay vốn của ngân hàng rất ít. Theo báo cáo của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư về việc thực hiện cấp tín dụng từ quỹ trợ giúp đầu tư theo Luật
Khuyến khích đầu tư trong nước từ 1/12/1999 đến 30/6/2000, đã có 164 dự án với tổng số
vốn vay ưu đãi 424 tỷ đồng, trong đó 61 dự án thuộc khu vực quốc doanh (39% tổng dự

án) được vay 294 tỷ đồng (69% tổng giá trị khoản tín dụng ưu đãi); có 103 dự án thuộc
khu vực dân doanh được vay ưu đãi 130 tỷ đồng. Nếu nghiên cứu sâu hơn nữa, phần lớn
tín dụng tập trung chủ yếu vào các DNTN lớn, chứ không phải là các DNVVN [41, tr.
102].
Do vậy để đáp ứng nhu cầu tín dụng của mình, các DNVVN thường phải vay vốn
chủ yếu từ các tổ chức phi chính thức, cụ thể là từ thân nhân và bạn bè, với lãi suất đôi
khi cao gấp 3 đến 6 lần so với lãi suất chính thức. Các DNVVN gặp nhiều khó khăn trong
việc tiếp cận các khoản tín dụng từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng chính thức
khác. Mặt khác, các khoản vay có bảo lãnh rất hiếm khi dành cho các DNVVN. Lý do:
thủ tục vay phức tạp, chi phí giao dịch cao, việc phải trả hoa hồng là phổ biến, những quy
định khắt khe về tài sản thế chấp,
- Đất đai.
Hiện nay, hầu hết các DNVVN đều thiếu đất đai làm mặt bằng SXKD, để lập cơ
sở mới hoặc mở rộng SXKD. Đó là do các quy định về quyền sử dụng đất đai thường
không rõ ràng, các quyền mua bán, thế chấp, chuyển nhượng đất công nghiệp vẫn chưa
được thừa nhận.
- Trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ.

Phần lớn công nghệ các DNVVN sử dụng đã trở nên lạc hậu. Do DN thiếu vốn,
do thiếu thông tin về thị trường công nghệ lại không được tiếp cận đầy đủ với những dịch
vụ tư vấn để có sự hỗ trợ, việc chuyển giao công nghệ còn gặp nhiều khó khăn và tốn
kém,
- Sức cạnh tranh và khả năng tiếp cận với thị trường thế giới.
Thị trường của DNVVN đang bị thu hẹp bởi sức mua quá thấp của nông dân, do
hàng hóa nhập lậu qua biên giới không thể nào kiểm soát được, do khả năng cạnh tranh
của hàng hóa của DN này càng yếu nên lại càng khó khăn hơn khi xuất khẩu. Ngoài ra
sức cạnh tranh trên thị trường trong nước của DNVVN bị suy giảm còn bởi do phải gánh
chịu những thông lệ và điều kiện cạnh tranh không bình đẳng như nhãn hiệu, bản quyền

chưa được thực hiện nghiêm túc, chưa có luật cạnh tranh, nạn tham nhũng, vụ lợi của một
số cán bộ quản lý thị trường chưa được ngăn chặn triệt để,
- Trình độ tay nghề của lao động và đội ngũ quản lý thấp.
Lao động trong các DNVVN chủ yếu là lao động phổ thông, ít được đào tạo. Đội
ngũ các nhà quản lý DN có trình độ và khả năng quản trị kinh doanh yếu so với nhu cầu,
do đó rất lúng túng trước sự biến động của thị trường. Số liệu điều tra cho thấy có đến
48,4% số chủ DN ngoài quốc doanh không có bằng cấp chuyên môn.
Sở dĩ các DNVVN có những hạn chế và vướng mắc đối với sự phát triển như
trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có thể khái quát thành ba nguyên nhân chính:
- Do bản thân DN: Do quy mô vừa và nhỏ nên vốn ít, công nghệ lạc hậu, trình độ
tay nghề kém, trình độ quản lý kinh doanh hạn chế, ý thức chấp hành pháp luật và đạo
đức trong kinh doanh còn nhiều yếu kém.
- Môi trường kinh doanh: Thị trường còn sơ khai, chưa đầy đủ lại thiếu ổn định
và lành mạnh; cơ chế chính sách và cả luật pháp chưa thật thuận lợi cho sự hoạt động và
phát triển của DNVVN.
- Tác động quản lý của Nhà nước: Ngoài cơ chế chính sách còn nhiều vướng
mắc thì quản lý nhà nước đối với DNVVN còn nhiều hạn chế: chưa có chiến lược rõ
ràng, chưa có hệ thống chính sách riêng áp dụng cho DNVVN, thủ tục phiền hà, quan
liêu còn nặng nề gây khó khăn cho việc thành lập, hoạt động và phát triển của DNVVN.

Cùng với việc nhận thức được tầm quan trọng của DNVVN, việc xác định được
những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế vướng mắc mà DNVVN gặp phải, Nhà nước,
các cơ quan chức năng có liên quan và cả bản thân các DNVVN sẽ sớm có những giải
pháp thích hợp để khắc phục, tạo điều kiện thuận lợi để các DNVVN phát triển theo đúng
tiềm năng sẵn có của mình.

×