Tải bản đầy đủ (.ppt) (33 trang)

Tuần 24. Đọc thêm: Tương tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.08 MB, 33 trang )

Tương Tư
(Nguyễn Bính)

Trình bày: Tổ 3


I. Tác giả- Nguyễn Bính.
1. Cuộc đời.

-Nguyễn Bính (1918 – 1966)
tên khai sinh Nguyễn Trọng
Bính.
-Quê ở làng Thiện Vịnh, xã
Đồng Đội (nay là xã Cộng
Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh
Nam Định.
-Ông biết làm thơ từ khi mới 13
tuổi và năm 19 tuổi (1937)
được nhận giải Khuyến
khích về thơ của Tự lực văn
đoàn.
-Năm 1943, Nguyễn Bính vào
Nam Bộ rồi ở lại tham gia
kháng chiến chống thực dân
Pháp.
-Năm 1954, ông tập kết ra Bắc,
tham gia công tác văn nghệ
và báo chí ở Hà Nội, Nam


2. Sự nghiệp sáng tác.


-Thơ của Nguyễn Bính có một điệu riêng.
-Bằng lối ví von mộc mạc mà duyên dáng mang phong vị dân gian,
thơ của Nguyễn Bính đem đến cho người đọc những hình ảnh thân
thương của quê hương, đất nước và tình người đằm thắm, thiết tha
=> ông được coi là “ thi sĩ của đồng quê”.
-Ông được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn
học nghệ thuật (2000)
-Những tác phẩm tiêu biểu:
+ Trước cách mạng: Tâm hồn tôi (1937), Lỡ bước sang ngang
(1940), Hương cố nhân (1941), Mười hai bến nước (1942),…
+ Sau cách mạng: Ông lão mài gươm (1947), Gửi người vợ
miền Nam (1955), Tiếng trống đêm xuân (truyện thơ-1958), Cô
Son (chèo-1961),…



II. Tác phẩm-Tương tư.
* - Xuất xứ: trích từ tập “Lỡ bước sang
ngang”.
- Thể thơ: thơ lục bát.
- Đề tài: viết về tình yêu đôi lứa.
- Chủ đề: bài thơ giãi bày nỗi lòng một
cách chân thực tinh tế của một chàng trai
thôn quê
- Bố cục: 3 phần.
+ Phần 1: 4 câu thơ đầu: khởi nguồn
cho tâm trạng tương tư.
+ Phần 2: 12 câu tiếp theo: giãi bày
tâm sự tương tư.
  + Phần 3: còn lại: ước mơ muôn đời

của tình yêu đôi lứa.



1.    Khởi nguồn cho tâm trạng tương tư.
-Mở đầu bài thơ bằng hình ảnh hóa dụ “ thôn Đoài,
thôn Đông” -> Ám chỉ đôi trai gái, hình ảnh mang
dám dấp đồng quê mộc mạc.
“Một người chín nhớ mười mong một người”
-Điệp từ “ một người” diễn tả sự xa cách nhớ mong.
-Thành ngữ “chín nhớ mười mong”: sự mong nhớ da diết, bệnh nhớ
thương của một người dành cho một người.
“Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.”
-Sự liên tưởng độc đáo, bất ngờ. Nhà thơ sử dụng những hiện tượng
vốn có của thiên nhiên để nói lên quy luật tất yếu của tình yêu.
=>Bốn câu thơ đầu nhà thơ nói lên giới thiệu lên nhân vật trữ tình và
căn bệnh tương tư. Nó là một căn bệnh tự nhiên như chuyện nắng mưa
của trời. Nhân vật trữ tình là chàng trai thôn Đoài hay chính nhà thơ?


2.  Sự giãi bày tâm sự về căn bệnh tương tư
“Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?”
-Nhân vật trữ tình mang một nỗi buồn băn khoăn thắc mắc.
-Từ ngữ chỉ số đếm: hai, một.
-”Hai thôn-một làng”, “bên ấy-bên này”, tuy hai mà một, tuy
riêng mà chung tuy xa mà gần.
-Câu hỏi tu từ như lời trách móc nhẹ nhàng. =>Tình cảm nồng
thắm của chàng trai dành cho cô gái.

“Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.”
-Từ “ngày” được lặp lại ba lần kết hợp với từ “qua” để diễn tả
nỗi buồn triền miên giằng giặc từ ngày này qua ngày khác mãi
không dứt.
-Cách diễn tả lá xanh chuyển thành lá vàng -> vừa diễn tả
được thời gian vừa diễn tả được tâm trạng. Thời gian luân hồi
ngày qua ngày, một khắc trôi qua dài tựa ba thu, tâm trạng nhớ
nhung mong đợi thành ra thấy thời gian trôi qua rất nhanh.


 -Chàng trai trách móc buồn tủi rồi tự bâng khuâng trách móc, dày vò mình.

“Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi…”
+Hình ảnh: “cách trở đò giang”: tự lí giải, tự an ủi bản thân mình.
+Hình ảnh: “cách một đầu đình” >< “tình xa xôi”: tâm trạng giận hờn
trách móc đau khổ. Không gian cách nhau chỉ có một đầu đình mà sao xa
xôi quá. Chàng càng thấy băn khoăn thì lại càng thấy buồn tủi.
“Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?”
-Sự mong đợi khát vọng đến bao giờ thì mới gặp được người mình yêu như
bến gặp đò, hoa khuê các gặp bướm giang hồ -> những hình ảnh rất chân
quê.
-Tác giả sử dụng lối nói ước lệ, ẩn dụ trong ca dao và trong thơ truyền
thống.
=> Đoạn thơ diễn tả nỗi niềm ước mong khát vọng về tình yêu hạnh phúc
đôi lứa, chàng trai tương tư nhớ người yêu đó là một tình cảm hết sức thiêng

liêng và đẹp đẽ.


3.    Ước mơ muôn đời của hạnh phúc đôi lứa.
“Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phong.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”
-Có một giàn giầu, có một hàng cau, nhà anh, nhà em:
thể hiện sư đơn côi, lẻ bóng. Cả anh và em vẫn đang
trong trạng thái đôi nơi, vẫn xa xôi cách trở quá chừng.
-Hình ảnh: “Giầu-cau” : biểu tượng cưới hỏi, biểu hiện
kết thúc tốt đẹp nhất của một tình yêu.
-Hình ảnh nhân hóa: “Cau” nhớ “giầu”: Trong nỗi nhớ
ấy là ước mơ muôn thủa của tình yêu. Ước mơ được hợp
nhất với người mình yêu.
- Cấu trúc song hành gợi tả mối quan hệ gắn bó với đôi
trai gái trong một tình yêu đẹp.


III. Tổng kết.
-Nhận xét chung về bài thơ: Giữa phong trào thơ mới rộn ràng, Nguyễn
Bính luôn giữ riêng cho mình một lối thơ không tàu mà cũng không tây,
mang đậm hồn dân tộc, mộc mạc quê hương, đó là tất cả cái đặc sắc của
thơ Nguyễn Bính. Và có thể xem "Tương tư" của Nguyễn Bính là một
trong số những bài ca dao hay nhất nói về tình yêu. Bởi vậy giá trị của nó
vẫn sống mãi cho đến ngày nay. Và giáo sư Hà Minh Đức đã nhận xét: "
“Tương tư” là một khúc ca dân gian có sự tương ứng về ý về lời, mạch
thơ mở ra và kết thúc vừa mang tâm trạng cá nhân lại mang tình cảm và
tâm lí cộng đồng của làng quê trong sinh hoạt đời thường.“

-Nghệ thuật:
+Ngôn ngữ thơ giản dị, hồn nhiên, dân dã nhưng vẫn pha chất lãng
mạn.
+Giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết, chân thành.
+Sử dụng các biện pháp tu từ ẩn dụ-hoán dụ- ước lệ một cách đặc sắc
và sáng tạo.
+Sử dụng nhiều cặp hình tượng trưng cho hạnh phúc lứa đôi.
+Âm điệu lục bát trong bài thơ được vận dụng một cách chậm rãi, rất
phù hợp với trạng thái tình cảm của một chàng trai đang yêu.
















×