Tải bản đầy đủ (.ppt) (9 trang)

Tuần 3. Thương vợ.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.34 MB, 9 trang )

BAØI 3

THÖÔNG VÔÏ
Traàn Teá Xöông


TIỂU DẪN
A.Tác giả Trần Tế Xương
+ Sinh năm 1870, mất năm 1907, thường gọi là Tú Xương,
quê ở làng Vò Xuyên, huyện Mó Lộc, Nam Đònh ( nay thuộc
phường Vò Hoàng, thành phố Nam Đònh).
+ Ông có cá tính rất phong túng nên dù có tài nhưng thi
đến tám lần chỉ đỗ tú tài.
+ Sáng tác của ông gồm 2 mảng: trữ tình và trào phúng.
+ Cũng như Nguyễn Khuyến, Tú Xương có công phát triển
tiếng việt văn học, Việt hóa thể thơ Đường luật thêm
một bước dài, góp phần đổi mới nghệ thuật dân tộc.
Ông để lại hơn 100 bài thơ đều bằng tiếng Việt.


TIỂU DẪN
B.Tác phẩm Thương vợTHƯƠNG V
+ Được viết khoảngQuanh
1896-1897.
năm buôn bán ở mom
sông,
+ Đề tài
là về người vợ của ông, bàø Phạm Thò Mẫn,
quê ở Hải Dương, là
người
hiền


đảm đang, tần
Nuôi
đủvợ
năm
conthục,
với một
tảo tần
tảo, rất mực yêu thương chồng con. Tú Xương rất
chồng
nể phục và yêu thương bà.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
+ Bài thơ thể hiện được cả hai mặt của nhà thơ Tú Xương:
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
ân tình và hóm hỉnh.
Môt
duyên
haibát
nợ âu
+ Thương vợ là bài thơ
thất
ngôn
cúđành
Đường Luật. Bài
phận,
thơ có 4
phần: đề, thực, luận, kết.
Năm nắng mười mưa dám quản
công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng Hờ hững cũng như

không
____________________________________________
(Thơ văn Trần Tế Xương,


PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
1.Hai câu đề
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Giới thiệu hoàn cạnh kiếm sống lam lũ, vất vả của bà Tú.
+ Thời gian: quanh năm có nghóa là ngày nào cũng vậy, liên tục
từ đầu năm đến cuối năm, không nghỉ một ngày nào
+Không gian: mom sông, một nơi kiếm sống lam lũ có khi còn nguy
hiểm, nhất là đối với người phụ nữ.
Nhưng chính trong hoàn cảnh buôn bán khó khăn, vất vả đó, bà
Tú, đã nuôi đủ năm con với một chồng không thiếu một ai. Hai
chữ nuôi đủ đã nói lên sự vất vả, lam lũ lại ca ngợi sự đảm
đang, tần tảo của bà Tú.
Cách nói năm con/với/một chồng cho thấy ông tự đặt mình ngang
hàng với năm đứa con, là kẻ ăn bám, gánh nặng cho vợ. Tuy khá
ngược đời và mỉa mai, nhưng trong cái hóm hỉnh của câu thơ, ta
thấy sự tri ân sâu sắc của một người chồng đối với người vợ
chòu thương chòu khó.


PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
2.Hai câu thực
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đo øđông.
Hai câu thực tô đậm thêm sự vất vả lam lũ của bà Tú trong

việc kiếm sống.
Nhà thơ mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói lên nỗi vất
vả của người vợ. Đặc biệt tác giả không dùng từ con cò mà
nói thân cò, tức thân phận con cò, khiến ý thơ càng thêm sâu
sắc.
Khi bình thường là Thân cò lặn lội thì ở đây có sự đảo ngược
để nhấn mạnh, rõ ràng cái ý lặn lội để kiếm sống của người
vợ nơi đầu bến sông nước được nổi bật hơn.
Cả hai câu đều dùng thủ pháp đảo ngữ để khắc họa rõ nét
hình ảnh của bà Tú.
Lặn lội/thân cò/khi quãng vắng
Eo sèo/mặt nước/buổi đo øđông


PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
3.Hai câu luận
Môt duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Bốn câu trên tác giả đã khắc họa đầy đủ và gợi cảm bức
chân dung người vợ tần tảo đảm đang của mình. Thì đến đâu, nhà
thơ bằng sự cảm thông của người chồng, đã khái quát lại số
phận của người bạn đời trong hai câu luận.
Vân dụng hai thành ngữ Một duyên hai nợ và Năm nắng mười
mưa.
+ Người xưa cho rằng vợ chồng lấy nhau là do có sắp đặt từ kiếp
trước, nếu tốt đẹp thì là duyên, còn xấu thì là nợ. Dùng một
duyên hai nợ rất đúng với sự vất vả của bà trong bốn câu trên.
Và đã là số phận nên đành chòu.
+ Nhưng trước số phận đó, bà vẫn chòu thương, chòu khó, để lo
toan cho chồng con (năm nắng mười mưa dám quản công) không

hề phàn nàn cho số phận của mình.
Nghệ thuật đối tróng hai câu thơ càng làm nổi bật phẩm chất
đẹp của bà Tú, và đó cũng chính là phẩm chất tần tảo đảm
đang cuả người phụ nữ Việt nam.


PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
4.Hai câu kết
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng Hờ hững cũng như không
Đây là hai câu kết mang đậm chất Tú Xương. Nhà thơ mượn lời
người vợ để tự “chửi” mình.
Ông tự coi mình là món nợ đời mà bà tú phải gánh chòu, đã
thế lại không biết làm gì để đỡ đần cho bà.
Tú Xương đã ý thức được sâu sắc cái vô tích sự của mình nên
mới có lời “tự chửi” như thế. Một người chồng dám tự chửi như
thế hẳn phải rất thương yêu và kính trọng vợ. Đó là một nhân
cách đẹp của ông.
Đồng thời qua đó, ông cũng phê phán cái xã hội phong kiến
trọng nam khinh nữ, coi phụ nữ như nô lệ.


PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
Nghệ Thuật

Với tình cảm thương yêu, quý trọng, tác
giả đã ghò lại một cách xúc động, chận
thực hình ảnh người vợ tần tảo, giàu đức
hi sinh. Thương vợ là bài thơ tiêu biểu cho
thơ trữ tình của Trần Tế Xương: cảm xúc

chân thành, lời thơ giản dò mà sâu sắc.




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×