Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

GIÁO DỤC NGỮ VĂN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CON NGƯỜI CÔNG DÂN MANG ĐẬM CÁ TÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.05 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................2
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG.....................................................................3
1.1 Sản phẩm sau cùng của giáo dục Ngữ Văn.........................................................3
1.2 Khái niệm con người công dân mang đậm cá tính..............................................4
1.3 Tầm quan trọng của việc hình thành và phát triển con người công dân mang
đậm cá tính................................................................................................................5
1.3.1 Tầm quan trọng giáo dục trong việc hình thành và phát triển con người
công dân mang đậm cá tính....................................................................................5
1.3.2 Tầm quan trọng giáo dục Ngữ Văn trong việc hình thành và phát triển con
người công dân mang đậm cá tính..........................................................................6
CHƯƠNG 2: GIÁO DỤC NGỮ VĂN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CON
NGƯỜI CÔNG DÂN MANG ĐẬM CÁ TÍNH.......................................................8
2.1. Những khía cạnh của con người công dân mang đậm cá tính............................8
2.1.1. Con người công dân mang đậm cái tôi cá nhân............................................8
2.1.2. Con người công dân có thế giới quan cá nhân và lí tưởng cách mạng.........9
2.1.3 Con người công dân có tri thức, kĩ năng.....................................................11
2.2 Một số nguyên tắc xây dựng con người cá tính trong giáo dục Ngữ văn..........13
2.2.1. Tính đa dạng và thống nhất của sản phẩm giáo dục Ngữ văn....................13
2.2.2. Dạy học Ngữ văn hướng về tính đa dạng với các cá thể độc đáo...............14
2.2.3 Người học cần được tôn trọng, khuyến khích tự do suy tư, tự do biểu đạt từ
những gì mình cảm thụ được qua giờ học............................................................16
2.3. Vai trò của giáo dục Ngữ văn trong việc hình thành con người công dân mang
đậm cá tính..............................................................................................................17
2.4. Mối quan hệ giữa con người công dân mang đậm cá tính và cộng đồng.........19
KẾT LUẬN.............................................................................................................22

1


2




MỞ ĐẦU
Từ xưa đến nay, giáo dục luôn được xem là một hoạt động quan trọng trong
cuộc sống con người. Ngày nay, khi khoa học công nghệ ngày càng phát triển, nhu
cầu về vật chất, tinh thần, trí tuệ của con người tăng lên thì vai trò của giáo dục
ngày càng được đề cao và có ý nghĩa quyết định không chỉ đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội mà cả đối với công cuộc bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước.
Hoạt động giáo dục nói chung và dạy học Ngữ Văn nói riêng đều nhằm một
mục tiêu chung là sự tác động có hệ thống, có kế hoạch đến con người để hình
thành cho họ những phẩm chất nhân cách, nhằm giúp người học nhận thức, phát
triển trí tuệ thông qua một lực lượng giáo dục. Cung cấp cho người học hệ thống
kiến thức khoa học, bồi dưỡng phương pháp tư duy sáng tạo và kỹ năng hoạt động
thực tiễn, nâng cao trình độ học vấn, hình thành lối sống văn hoá mà mục đích cuối
cùng là tạo ra những người công dân mang đậm cá tính của thời đại, nghĩa là hội tụ
đầy đủ các yếu tố về tri thức, kỹ năng và phẩm chất.
Muốn như vậy, đòi hỏi hệ thống giáo dục nói chung phải thay đổi từng ngày
theo hướng tích cực nhằm đáp ứng nhu cầu dạy học. Cần phải đổi mới căn bản,
toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá và phát triển nhanh
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi
mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân. Trong đó, dạy học Ngữ văn nói
riêng cũng cần phải đảm bảo một số yêu cầu, nguyên tắc nhất định trong quá trình
day và học nhằm một mục tiêu chung, tạo nên sản phẩm cuối cùng của dạy học
Ngữ văn - con người công dân mang cá tính.

3


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG
1.1 Sản phẩm sau cùng của giáo dục Ngữ Văn

Giáo dục (education) theo nghĩa chung là hình thức học tập theo đó kiến thức,
kỹ năng, và thói quen của một nhóm người được trao truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo, hay nghiên cứu. Giáo dục hoàn toàn là một
quá trình, nên điểm đến cuối cùng luôn là những mục tiêu nhất định. Từ những
năm 70, UNESCO luôn khẳng định: “Xét từ bản chất của nó, giáo dục là một định
hướng mà con người sáng tạo ra, sử dụng để tác động đến chính bản than mình, để
tạo ra con người thứ hai từ con người thứ nhất có tính tự nhiên”; “Xuất phát từ
những không gian, thời gian cụ thể, do sự thay đổi liên tục của môi trường lịch sử
xã hội, các mục tiêu giáo dục luôn luôn được vạch ra cụ thể, phù hợp với định chế
và quan niệm của từng thời kỳ nhất định”. Ngày nay khi nền kinh tế thị trường phát
triển thì có sự hoán đổi về vai trò của các mục đích. Đặc biệt trong giai đoạn kinh
tế khó khăn và cạnh tranh khốc liệt như ngày nay ở Việt Nam, mục đích của giáo
dục hướng tới là giúp người học đặt nhiều kỹ năng tốt cho bản thân để có được một
công việc tốt.
Mỗi khu vực trên thế giới sẽ có những có những mục tiêu giáo dục cụ thể,
nhưng tựu chung, tất cả mọi nền giáo dục đều hướng đến thành quả cuối cùng
giống nhau: Sản phẩm của giáo dục là năng lực và chất lượng nguồn nhân lực
tương lai của một đất nước. Mục tiêu giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn
diện đã được xác định trong các chương trình trước đây, nhưng thường được quan
niệm đó là nhiệm vụ đào tạo những con người phát triển hài hòa đức, trí, thể, mỹ.
Nghĩa là giáo dục, đào tạo con người đáp ứng nhu cầu Công nghiệp hóa, Hiện đại
hóa đất nước, con người cho xã hội. Thực hiện công cuộc đổi mới, ngoài việc phát
triển con người cho xã hội, sẽ chú trọng thêm phần phát huy cao nhất tiềm năng
sẵn có của riêng mỗi người, đó là con người cá nhân. Ngay từ năm 1945, trong thư
4


gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên
những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam", chính là đào tạo con người xã

hội, và "một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các
em", chính là đào tạo con người cá nhân.
Giáo dục Ngữ Văn thuộc về phạm trù giáo dục bằng nghệ thuật. Con đường này
giúp phát triển tối đa khả năng sáng tạo và sự ý thức về phẩm cách, nhân cách của
con người ở giai đoạn sớm nhất thông qua ý thức về cái Đẹp. Người học sẽ không
còn được giáo dục phải là một công dân tốt nữa, mà với hình thức giáo dục này
chúng ta, cả người học và người dạy sẽ cũng gieo những hạt giống tốt đẹp và để nó
tự nảy nở trong quá trình trưởng thành và phát triển của người học. Tình yêu đất
nước được biểu hiện qua những hành động bé nhỏ hằng ngày, tình đoàn kết được
thể hiện qua những thói quen giúp đỡ người khác, … Ngoài những phẩm chất tốt
đẹp thiết yếu của một người công dân, con người còn được giáo dục thúc đẩy cá
tính của bản thân. Mỗi cá nhân là một cá thể độc lập, vì vậy sẽ không ai giống ai,
bằng hình thức riêng của mình, giáo dục Ngữ Văn hoàn toàn có thể làm tốt được
trọng trách này.
1.2 Khái niệm con người công dân mang đậm cá tính
Cá tính là từ Hán Việt được tạo bởi 2 từ cá nhân và tính cách, chỉ tính cách của
mỗi con người. Tương tự từ "cái tôi", cá tính của người này giúp ta phân biệt được
bản thân họ với những người khác, vì mỗi người đều có những có ý kiến, cách
hành xử riêng của mình, không ai giống ai.
Là một con người công dân mang đậm cá tính, trước hết phải là một người ý
thức đầy đủ về quyền lợi và trách nhiệm công dân của mình, phải là một công dân
tốt. Họ phải thể hiện mình thông qua hành động cụ thể để chứng tỏ mình là người
có ích cho cộng đồng, xã hội. Đồng thời, những cá nhân này còn ý thức được con
5


người cá nhân của mình, tiếp tục phát huy những thế mạnh và khắc phục những
nhược điểm của bản thân.
Nền giáo dục Việt Nam, từ bao nhiêu năm nay vẫn đặt mục tiêu “công dân tốt” để
giáo dục nhân cách của người học. Còn vấn đề con người cá nhân vẫn chưa được

hệ thống chú trọng nhiều. Điều này cho thấy giáo dục vẫn còn đóng khuôn, và chú
trọng quá nhiều vào hình thức.
1.3 Tầm quan trọng của việc hình thành và phát triển con người công dân mang
đậm cá tính.
Sự hình thành và phát triển con người là một quá trình lâu dài và phức tạp.
Trong quá trình đó, giữa các yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài, giữa cái sinh
học và cái xã hội thường xuyên tác động lẫn nhau và vai trò của mỗi yếu tố đó thay
đổi trong từng giai đoạn phát triển của mỗi người. Trong quá trình sống, con người
có được những kinh nghiệm sống, niềm tin, thói quen… và ngược lại, khi tiếp nhận
bất cứ việc gì, nhân cách cũng dựa trên chuẩn mực xã hội để điều chỉnh hành vi
của mình cho phù hợp. Không chỉ thế, mỗi cá nhân còn phải dựa vào những cái
bên trong, những kinh nghiệm của mình để đánh giá, tiếp nhận hay gạt bỏ cái bên
ngoài. Vì vậy, những yếu tố bên ngoài là khách quan, con người không thể/dễ dàng
cải tạo được, nhưng con người có thể xây dựng, tích lũy cho mình những nội dung,
kinh nghiệm, kiến thức ở bên trong. Giáo dục có vai trò quan trọng trong việc hình
thành những chuẩn mực đúng sai để con người có thể dựa vào đó mà thay đổi cá
nhân.
1.3.1 Tầm quan trọng giáo dục trong việc hình thành và phát triển con người
công dân mang đậm cá tính
Cuốn Tâm lý học đại cương đã chỉ ra năm vai trò cơ bản của giáo dục: Giáo
dục vạch phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách; đem lại cho
con người những cái mà yếu tố bẩm sinh – di truyền hay môi trường tự nhiên
6


không thể đem lại được; phát huy tối đa các mặt mạnh của các yếu tố khác chi phối
sự hình thành nhân cách (yếu tố sinh thể, hoàn cảnh sống…); giáo dục còn có thể
bù đắp những thiếu hụt, hạn chế do các yếu tố bẩm sinh – di truyền không bình
thường, hoàn cảnh bị tai nạn hay chiến tranh gây nên; cuối cùng là giáo dục có thể
đón trước sự phát triển, “hoạch định nhân cách tương lai” để tác động hình thành

và phát triển phự hợp với sự phát triển của xã hội. Tất cả các vai trò của giáo dục
đều trực tiếp hoặc gián tiếp thúc đẩy tích lực lên sự hình thành và phát triển
nhân cách, chính những điều này cũng sẽ giúp hình thành nên những công
dân có ích cho xã hội, đất nước.
Thời đại mới với nhiều những cơ hội và nhiều những khó khăn thách thức, giáo
dục nhân cách còn phải chú trọng phát huy, bảo vệ các cá tính bẩm sinh. Sản phẩm
của giáo dục chính là tương lai của đất nước, sự giáo dục tôn trọng tính đọc lập, tự
do của mỗi cá nhân ở Phương Tây cũng chính là một trong những nguyên nhân
đưa các nước này phát triển nhanh và ổn định. Ngoài những phẩm chất tốt cần phải
có, chú trọng phát triển các bản sắc cá nhân là hết sức quan trọng. Phẩm chất đạo
đức chỉ có một thang điểm chung để đánh giá, nhưng bản sắc cá nhân thì không.
Có những cá nhân có ưu điểm ở lĩnh vực này, lại có những cá nhân sẽ có những ưu
điểm vượt trội ở những lĩnh vực khác. Sự chuyên môn hóa các ngành nghề trong
xã hội ngày càng ở mức độ cao, và chính những yếu tố cá nhân này mới là bước
đệm thần kì giúp xã hội ngày càng văn minh, tiên tiến. Ngoài ra, tận dụng và phát
huy các yếu tố của từng cá nhân sẽ khiến những cá nhân thêm ý thức về vai trò của
mình đối với xã hội, càng ngày càng cố gắng phát huy thêm mạnh mẽ bản thân
mình.
1.3.2 Tầm quan trọng giáo dục Ngữ Văn trong việc hình thành và phát triển con
người công dân mang đậm cá tính
Ngữ Văn là một bộ môn của nghệ thuật, mà nghệ thuật thì hết sức coi trọng tinh
thần tự do của mỗi cá nhân, giúp con người ý thức mãnh liệt về làm đẹp bản thân
7


mình và xã hội. Nhà bác học nổi tiếng S. Đacuyn đã nói lên vai trò của nghệ thuật
trong phát triển nhân cách con người như sau: “Nếu tôi phải trải qua lần thứ hai
cuộc sống của mình, thi tôi sẽ tự đặt cho mình quy tắc là đọc các tác phẩm thi ca và
nghe âm nhạc, dù cho chỉ là một lần trong tuần lễ. Mất mát những thị hiếu đó là sự
mất mát một phần hạnh phúc của đời người và có thể là ảnh hưởng tai hại không

chỉ đến những năng lực trí tuệ và mà còn có thể đến tính cách đạo đức nữa, vì rằng
sự mất mát đó đã làm yếu đi mặt xúc cảm của bản chất người trong chúng ta”.
Giáo dục nghệ thuật trong nhà trường là một quá trình hoạt động chung của nhà
giáo dục và người được giáo dục nhằm giúp người được giáo dục có rung cảm
trước cái đẹp trong nghệ thuật, có kiến thức, quan điểm nhìn nhận cái đẹp trong
nghệ thuật, biết lựa chọn và chiêm ngưỡng nghệ thuật, có khả năng đồng sáng tạo
và sáng tạo nghệ thuật.
Học Văn không phải để trở thành nhà văn, nhà biên kịch, làm báo… mà trước
hết nó giúp con người cảm nhận cái Đẹp và hiểu về bản thân mình. Các tác phẩm
văn chương không có vai trò giáo dục, nhưng bằng cách riêng của nó, văn chương
chạm sâu vào tâm hồn của người đọc. Lúc này, môi trường giáo dục trở thành là
môi trường của cảm xúc, và cảm xúc chính là thứ định hướng tốt nhất và hiệu quả
nhất tại con người. Đó là sự hướng về và trân trọng các giá trị: Chân, Thiện, Mỹ.
Tính sáng tạo của các bộ môn nghệ thuật trong đó có Văn học giúp cá nhân
được là chính mình. Những nguyên tắc khuôn khổ chỉ có thế quy định ở bên ngoài,
nhưng những tình cảm, nhận định của mỗi cá nhân thì lúc nào cũng luôn chân thật
và những cái khuôn không thể nào có thể chạm được đến. Mặc dù vậy, nhưng giáo
dục Ngữ Văn hiện nay còn gặp nhiều những tiêu cực đáng buồn và chương trình
dạy học còn chưa thực sự tôn trọng tinh thần cá nhân. Chúng ta cần phải làm tốt
hơn nữa để xây dựng một chương trình hướng đến mỗi cá nhân và tôn trọng cá tính
của cá người học và người dạy. Chỉ điều này mới giúp cho xã hội bên cạnh trở nên
tốt đẹp còn là xã hội văn minh, với những gam màu phong phú, rực rỡ.
8


9


CHƯƠNG 2: GIÁO DỤC NGỮ VĂN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CON
NGƯỜI CÔNG DÂN MANG ĐẬM CÁ TÍNH

2.1. Những khía cạnh của con người công dân mang đậm cá tính
2.1.1. Con người công dân mang đậm cái tôi cá nhân
Quá trình giáo dục rất đề cao đến việc dạy dỗ và rèn luyện cho người học những
kĩ năng về giao tiếp, trong đó chú trọng đến việc thể hiện cái tôi cá nhân trong đời
sống xã hội, đối với bộ môn Ngữ văn thì nhiệm vụ này càng được quan tâm. Giao
tiếp gắn với cái tôi, mà cái tôi là sự thể hiện của một nền văn hóa. Nếu như văn hóa
phương Tây đề cao giá trị cá nhân thì văn hóa phương Đông lại chú trọng đến giá
trị cộng đồng. Có thể hiểu về cái tôi cái như sau, cái tôi hay còn gọi là bản ngã
chính là cái làm nên tính cách riêng biệt của mỗi người. Trong Triết học, cái tôi
được hiểu như là cái tôi ý thức hay đơn giản là tôi, bao hàm trong đó những đặc
tính để phân biệt tôi với những cá nhân khác. Trong phân tâm học, cái tôi (ego) là
phần cốt lõi của tính cách liên quan đến thực tại và chịu ảnh hưởng của tác động xã
hội. Trong triết lí Phật giáo, cái tôi hay thường gọi là ngã, là cái tôi được thiên
thuyết như là một thể tính trường tồn, không bị ảnh hưởng bới tụ tán, sinh tử.
Cái tôi vừa mang giá trị cá nhân vừa mang giá trị cộng đồng. Giá trị cá nhân
chú trọng tới giá trị của bản thân, là tinh thần tự chịu trách nhiệm với cuộc đời
mình. Tính cá nhân (Individualism) ở đây không phải là tính vị kỉ hay ích kỉ mà là
sự tự nhận thức được giá trị của bản thân, đề cao tính độc lập, tự do lựa chọn,
quyết định và tôn trọng sự riêng tư cá nhân. Còn giá trị cộng đồng (community) lại
chú trọng đến hài hòa nhóm và dư luận xã hội, hành vi của các cá nhân trong cộng
đồng được điều chỉnh thông qua dư luận xã hội. Từ giá trị cá nhân và giá trị cộng
đồng đã định hình tính cách, quan điểm, lòng tin, quy tắc giao tiếp.
Với ảnh hưởng của các cuộc vận động xã hội của cách mạng, “cái tôi” ở người
Việt Nam hiện nay đã có những biến đổi sâu sắc, được biểu hiện khá rõ rệt và rất
10


đa dạng. Quá trình xã hội hoá cá nhân ngày càng nhanh, quá trình dân chủ hoá xã
hội càng sâu sắc thì “cái tôi” ngày càng vững vàng và tự khẳng định mạnh mẽ.
Văn học Việt Nam từ thập kỷ đầu của thế kỷ XX đã bắt đầu đề cao cá nhân và

đề cao sự giải phóng con người. Ngôn ngữ văn học, bên cạnh những đại từ nhân
xưng ở ngôi thứ ba như “chàng”, “nàng”, “anh”, “em”, “ta”, “mình”… đã bắt đầu
xuất hiện bóng dáng của “cái tôi”. Qua câu thơ: “Nhà nàng ở cạnh nhà tôi / Cách
nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn”, có thể thấy một sự quá độ từ cộng đồng sang cá
nhân, từ chỗ chưa xác định đến chỗ xác định. Với nhiều tiểu thuyết và thi ca khác,
“cái tôi” xuất hiện nhiều hơn và rõ hơn. Cho đến câu thơ của Chế Lan Viên:
“Đường về thu trước xa xa lắm / Mà kẻ đi về chỉ một tôi” thì “cái tôi” ở đây mới
được biểu hiện ra một bản chất đích thực của nó: tự ý thức, tự chủ, tự thân, tự
khẳng định, độc lập, khác với người xung quanh, với đồng loại, đứng đối diện với
mọi người, chứ không phải nép vào bên cạnh, đứng đằng sau người khác như trước
đây. Từ chỗ chỉ dám dùng những từ “mình”, “ta”, “ai” không tách bạch, không xác
định giữa chủ thể và khách thể đến chỗ “mà kẻ đi về chỉ một tôi” là một bước
ngoặt lớn, một bước tiến trên con đường tự khẳng định, tự xác định, tự chủ của
“cái tôi”. Như vậy, tự khẳng định, tự xác định, tự chủ, tự thân, tự ý thức về chính
mình, về cá tính của mình đã có những biểu hiện rõ ràng hơn trong sự tiến hoá từ
cá thể đến con người, đến cá nhân, đến cá tính và nhân cách.
2.1.2. Con người công dân có thế giới quan cá nhân và lí tưởng cách mạng
Hành trang cuộc sống của mỗi người luôn luôn cần tới những tri thức, trí tuệ
sâu sắc. Thế giới quan là thứ không thể thiếu được trong hành trang trí tuệ ấy của
mỗi người. Nó là cái cần phải được từng người tự học hỏi, chăm lo, đổi mới để có
thể nhìn, hiểu và làm theo những luận điểm tổng quát góp phần như một chiếc la
bàn định hướng cuộc sống, làm cho cuộc sống thêm hiệu quả, hạnh phúc và thành
đạt. Quan trọng nhất là nó có mối quan hệ mật thiết trong quá trình phát triển, hình
thành và thể hiện cá tính của mỗi người.
11


Thế giới quan cá nhân có thể hiểu là các quan điểm về tự nhiên, xã hội, bản
thân được hình thành ở mỗi cá nhân. Nó quy định xu hướng chính trị, đạo đức và
các phẩm chất tư tưởng khác, nó chi phối cách nhìn, thái độ và hành động của mỗi

cá nhân. Thế giới quan đóng vai trò nhân tố sống động của ý thức cá nhân, giữ vai
trò chỉ dẫn cách thức tư duy và hành động của cá nhân. Nó đồng thời cũng thể hiện
lý luận và khái quát hóa các quan điểm và hoạt động của nhóm xã hội. Mỗi cá nhân
cũng luôn mong muốn tiếp nhận những thế giới quan khác nhau từ đó làm phong
phú thế giới quan cho mình, góp phần định hướng cuộc sống.
Xuất phát từ lập trường, biện giải thế giới quan đúng đắn, con người có thể có
được những cách giải quyết vấn đề đúng đắn do cuộc sống đặt ra. Ngược lại, xuất
phát từ lập trường sai lầm, con người khó có thể tránh khỏi hành động sai lầm. Vì
vậy để trở thành một người công dân mang đậm cá tính thì trong quá trình giáo dục
đòi hỏi người học phải hình thành cho mình một thế giới quan đúng đắn, phù hợp
với nhận thức của bản thân và xã hội. Khi đã hình thành cho mình được một thế
giới quan cá nhân đúng đắn thì đó sẽ là động lực, là kim chỉ nam cho việc đưa ra
những ý kiến, quan điểm, bày tỏ thái độ yêu, ghét, khen, chê của cá nhân mình đối
với những sự việc trong quá trình học tập, rèn luyện và trong cuộc sống thường
ngày. Đặc biệt, một thế giới quan phong phú, độc đáo sẽ giúp cho người học có
những cái nhìn mới lạ, phát huy được khả năng tư duy, sáng tạo của mình trong
mọi vấn đề trong cuộc sống. Điều này sẽ góp phần xây dựng, phát triển người học
mang đậm cá tính. Để thực hiện được nhiệm vụ đó thì đòi hỏi người học phải
không ngừng trau dồi, rèn luyện mình và giáo dục cần góp phần to lớn trong việc
xây dựng thế giới quan cá nhân cho người học một cách phù hợp.
Lí tưởng là biểu tượng của con người về cái mà họ cảm thấy cao đẹp và họ
mong muốn đạt tới. Vì vậy, nó là lẽ sống của con người, có sức lôi cuốn mạnh mẽ
toàn bộ cuộc sống của cá nhân vào những hoạt động để vươn tới mục tiêu cao cả
đã định, một mục tiêu cao đẹp, một hình ảnh mẫu mực tương đối hoàn chỉnh mà
12


con người mong muốn vươn tới, nó có tác dụng lôi cuốn toàn bộ hoạt động và cuộc
sống của cá nhân. Lý tưởng vừa có tính hiện thực, vừa có tính lãng mạn. đồng thời
lý tưởng còn mang tính xã hội lịch sử và tính giai cấp. Lý tưởng là biểu hiện tập

trung nhất của xu hướng nhân cách, nó có chức năng xác định mục tiêu, chiều
hướng phát triển của cá nhân, là động lực thúc đẩy điều khiển toàn bộ hoạt động
của con người, nó trực tiếp chi phối sự hình thành và phát triển nhân cách của cá
nhân.
Đối với người học thì việc giáo dục lí tưởng để xây dựng một con người mang đậm
cá tính là rất quan trọng. Khi đã có lí tưởng, có ước mơ thì người học sẽ dễ dàng
trong việc định hướng quá trình học tập và rèn luyện của mình. Từ những nền tảng
cơ bản để giáo dục lí tưởng cho người học thì đối với mỗi người học với những
quan điểm về thế giới quan, về năng lực, về nhận thức riêng sẽ tự hình thành cho
mình những lí tưởng riêng, đó là lí tưởng về nghề nghiệp, về đạo đức, về đam mê
hay về tất cả những vấn đề trong đời sống. Qua những lí tưởng, ước mơ mà người
học đặt ra, chúng ta có thể hiểu được phần nào nét cá tính trong bản thân người
học, qua đó chúng ta có cái nhìn đúng đắng và cụ thể hơn về họ và tạo điều kiện
nhất có thể để họ có thể thực hiện được những mong muốn và ước mơ.
2.1.3 Con người công dân có tri thức, kĩ năng
Đối với giáo dục nói chung và giáo dục Ngữ văn nói riêng thì việc cung cấp
những tri thức và kĩ năng cho người học là nhiệm vụ đã được định hướng từ lâu
nay. Tri thức cần trang bị cho người học trong quá trình giáo dục là tri thức, kỹ
năng khoa học và tri thức, kỹ năng đời sống. Qua vốn kiến thức này sẽ giúp người
học biết vận dụng để giải quyết những vấn đề trong nghề nghiệp và trong đời sống
thực tế. Mỗi người trong quá trình học tập sẽ tiếp cận được vốn tri thức và kỹ năng
khác nhau từ đó họ có những năng lực cá nhân khác nhau. Năng lực được hình
thành bằng chính hoạt động của cá nhân. Trong hoạt động mà những thành phần
của năng lực, các chức năng tâm lý được hình thành và phát triển. Năng lực luôn
13


gắn liền với lĩnh vực hoạt động chủ đạo của người đó, giúp cho cá nhân đạt kết quả
cao trong hoạt động của mình. Nó là chỉ số để so sánh nhân cách của người này với
người khác. Mỗi người sinh ra đều mang trong mình mầm mống của năng lực này

hay năng lực khác, nhưng không phải có mầm mống là sẽ có năng lực tương ứng,
kỹ xảo, kiến thức mà còn được thể hiện trong quá trình lĩnh hội tri thức. Để thể
hiện được cá tính của bản thân thì đòi hỏi người học phải có đầy đủ những tri thức
và kỹ năng cần thiết, khi đó người học sẽ có những cách giải quyết, thể hiện khác
nhau trong một tình huống chung, điều này phụ thuộc vào sự tiếp nhận tri thức, kỹ
năng đã được người đó tiếp nhận như thế nào trong quá trình được giáo dục. Từ đó
sẽ tạo nên sự khác biệt giữa cá nhân này với cá nhân khác trong hành vi, thái độ và
ứng xử.
Có nhiều người cho rằng, việc thể hiện một con người mang đậm cá tính chỉ
phụ thuộc vào việc thế hiện cái tôi của họ và cách mà họ ứng xử, giao tiếp theo
một cách đặc biệt với những người xung quanh. Vấn đề về tri thức và năng lực
không có sự tác động đến cá tính của mỗi người, bởi lẽ dù không có tri thức hay
không có kỹ năng thì con người vẫn có thể trở thành một người mang đậm cá tính
với những đặc điểm riêng biệt không nhầm lẫn với một ai. Những suy nghĩ và ý
kiến này hoàn toàn sai lầm. Vì tri thức và kỹ nămg là những mặt biểu hiện quan
trọng của một con người cá tính. Qua những tri thức, hiểu biết của họ về đời sống
xã hội và những kỹ năng, kỹ xảo họ vận dụng trong các mối quan hệ giao tiếp hay
trong các tình huống ứng xử đã bộc lộ được những nét tính cách đặc trưng của họ
để phân biệt với những người khác. Những người không có tri thức và kỹ năng thì
họ không thể hoặc rất hạn chế trong việc thể hiện cá tính của mình, do đó mà người
khác không thể nhìn nhận đúng bản chất của họ và gọi họ là người có cá tính. Qua
đó cho ta thấy được tầm quan trọng của việc giáo dục người học trên phương diện
cung cấp và giáo dục về tri thức, kỹ năng.

14


2.2 Một số nguyên tắc xây dựng con người cá tính trong giáo dục Ngữ văn
Giáo dục là một quá trình có mục đích được tổ chức một cách có kế hoạch định,
có phương pháp nhằm hình thành và phát triển nhân cách con người phù hợp với

những yêu cầu của xã hội trong giai đoạn phát triển của nó. Như vậy, có thể nói
rằng, những tác động của quá trình giáo dục đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách không phải mang tính tự phát, trái lại, mang tính tự giác rõ rệt. Giáo dục
Ngữ văn cũng là bộ môn giảng dạy tuân theo quá trình này, để đào tạo những
người công dân tương lai có nhân cách tốt đẹp, đặc biệt trong đó là con người công
dân mang đậm cá tính thì giáo dục Ngữ văn cần phải được thực hiện và tuân thủ
theo những nguyên tắc giáo dục phù hợp)
2.2.1. Tính đa dạng và thống nhất của sản phẩm giáo dục Ngữ văn
Giáo dục đóng một vai trò quan trọng không thể thiếu trong việc giáo dục nhân
cách con người “Giáo dục là sự dẫn dắt của thế hệ đi trước với thế hệ đi sau, một
sự dẫn dắt theo mục đích, có kế hoạch, có phương pháp. Giáo dục là con đường
ngắn nhất giúp các thế hệ trẻ phát triển bỏ qua những mò mẫm, vấp váp không cần
thiết trong cuộc đời mỗi con người.” (Giáo trình giáo dục học, tr. 17)
Việc hướng đến từng nhân cách, cá tính riêng trong quá trình dạy học Ngữ văn
đã góp phần tạo nên tính đa dạng trong cộng đồng. Bởi mỗi cá thể là một cá tính,
trong mối quan hệ với cộng đồng, những bản sắc riêng ấy sẽ tạo nên cái đa dạng
của xã hội. Ngữ văn ở trường phổ thông không được dạy học như một bộ môn
khoa học nhằm trang bị cho học sinh hệ thống các khái niệm khoa học. Tất cả các
năng lực và phẩm chất trên ấy đều được phát triển thông qua các hoạt động dạy
học, xoay quanh bốn lĩnh vực giao tiếp cơ bản: đọc, viết, nói và nghe. Các kiến
thức lí thuyết về tiếng Việt, lịch sử văn học, lí luận văn học và tập làm văn chủ yếu
được dùng như là phương tiện tiến hành các hoạt động dạy học đó.
Dạy học Ngữ văn cần phải tuân theo những giá trị chung của xã hội khi thực
hiện mục tiêu tạo nên sản phẩm con người cá nhân. Điều đó có nghĩa là cá nhân
15


với những bản sắc riêng, duy nhất, không giống ai sẽ tạo nên một tính cách lập dị
nếu không có mối liên hệ với các giá trị chung của cộng đồng xã hội. Vì thế, hoạt
động giáo dục Ngữ văn trước hết phải xác định rõ các giá trị chung này. Các giá trị

đạo đức học, mỹ học, triết học phải gắn liền với từng giai đoạn lịch sử xã hội cụ
thể. Trên nền tảng đó, sự đa dạng mới thực sự đem lại ý nghĩa phong phú trong đời
sống xã hội. Chẳng hạn, trong xã hội phát triển hiện nay với xu hướng toàn cầu hóa
giáo dục Ngữ văn phải đáp ứng được nhu cầu xã hội nghĩa là tạo nên những con
người năng động, sáng tạo dựa trên tri thức, kỹ năng sống của bản thân. Xã hội
càng ngày càng phát triển thì môi trường việc làm càng đặt ra tiêu chuẩn cao, dẫn
đến sự cạnh tranh khốc liệt giữa các cá nhân. Giáo dục ngày nay với chức năng
hướng nghiệp phải thúc đẩy những năng lực riêng biệt ở mỗi cá nhân, để khi kết
thúc quá trình giáo dục, các cá nhân có thể vững vàng với khả năng của mình, cọ
xát với môi trường bên ngoài. Mỗi một bước tiến của mỗi cá nhân đều giúp cho đất
nước ngày càng phát triển.
Như vậy, có thể nói rằng, hoạt động giáo dục Ngữ văn, khi xây dựng những con
người mang cá tính thì đồng thời phải xác định rõ giá trị chung của xã hội qua từng
thời kì. Bởi mỗi thời kì là những yêu cầu, đặc điểm khác nhau. Các giá trị đạo đức,
thẩm mĩ trong quá trình dạy phải đáp ứng yêu cầu của xã hội để trên nền tảng ấy,
sự đa dạng mới thật sự đem lại ý nghĩa trong đời sống xã hội.
2.2.2. Dạy học Ngữ văn hướng về tính đa dạng với các cá thể độc đáo
Trong cuộc sống xã hội ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng đến
chóng mặt, xã hội luôn đặt ra cho con người những thách thách, khó khăn. Bản
thân mỗi người cần phải bản lĩnh, có năng lực riêng nhất định mới có thể vượt qua,
đáp ứng được sự phát triển của thời đại. Giáo dục nói chung và dạy học Ngữ văn
nói riêng ở một chừng mực nào đó đều giúp học sinh phát triển, thích nghi với các
điều kiện xã hội lịch sử mới nhằm xử lí các mối quan hệ giữa quyền lợi và trách
nhiệm, giữa lợi ích riêng và lợi ích chung, về ý nghĩa cuộc sống thật sự và lối sống
16


chạy theo vật chất tầm thường, …
Hoạt động dạy học Ngữ văn sẽ loại bỏ đi những cái cũ, phát triển những giá trị
thẩm mĩ mới. Chính vì thế mà nền giáo dục nước ta nói chung đang từng bước đổi

mới sao cho phù hợp với yêu cầu xã hội. Dạy học Ngữ văn cần đề cao những nhân
cách cao thượng như lòng trắc ẩn, biết cảm thương với các số phận bất hạnh, bị đối
xử tàn bạo... bằng cách thông qua một số tác phẩm văn học cụ thể trong nhà trường
như “Chuyện người con gái Nam Xương”, “Chiếc thuyền ngoài xa”, “Truyện
Kiều”...Việc được học tập những tác phẩm văn học giàu tính nhân văn đó sẽ có
nhiều tác động tích cực trong nhận thức của mỗi cá nhân người học, bằng những
cách tiếp nhận, cảm thụ khác nhau mà người học đã tự nhận thức về thế giới quan,
về con người và cuộc sống điều đó có những cách ứng xử riêng biệt mà theo họ đó
là những hành vi nên làm và mang giá trị tốt đẹp trong cuộc sống. Như vậy điểm
hay của người giáo dục là đã biết khơi dậy những khả năng tiềm ẩn đa dạng của
mỗi người, đồng thời hỗ trợ và bổ túc những điều cần thiết, gợi ý những sáng kiến
và đưa ra những phương pháp, cách thức, để mỗi người tự do lựa chọn và điều
chỉnh cho phù hợp với khả năng và tính cách của mình. Eward Gibbon cho thấy
rằng: “Mọi người đều hấp thụ được hai thứ giáo dục: một thứ do người khác tạo ra,
còn một thứ quan trọng hơn nhiều là do chính mình tự tạo cho mình”.
Từ đó, học sinh không chỉ tích lũy những kiến thức cần thiết mà còn có cả tình
cảm, cảm xúc; không chỉ noi gương các hình tượng đẹp mà còn biết nêu gương đẹp
trong mắt người khác. Từ đó, nhờ vào văn chương nhân cách của các em ngày
càng hoàn thiện, phát triển theo một chiều hướng tích cực. Dạy học ngữ văn tạo
không chỉ cung cấp cho các em kiến thức mà là tạo lập từng nhân cách mỗi học
sinh. Dạy học ngữ văn tạo cho bao nhiêu nhân cách học sinh là bấy nhiêu cá tính
độc đáo. Như vậy giáo dục Ngữ văn khi đó sẽ hướng tới từng cá thể, có bản sắc
riêng, hoàn thiện tốt nhất năng lực của riêng mình, thay vì tạo ra những con người
giống hệt nhau trong nhận thức và cá tính.
17


Mỗi con người với tư cách là một cá thể trong cộng đồng, chịu sự chi phối, tác
động của đời sống xã hội. Mỗi cá nhân là sự độc lập, riêng lẻ nhưng khi xét trong
cộng đồng, nó lại có mỗi quan hệ mật thiết. Chính vì thế mà trong quá trình dạy

Văn học, người dạy phải hướng về con người cộng đồng với tính đa dạng để tạo
nên những cá thể mang cá tính.
2.2.3 Người học cần được tôn trọng, khuyến khích tự do suy tư, tự do biểu
đạt từ những gì mình cảm thụ được qua giờ học
Một trong những nguyên tắc cần phải tuân thủ trong giáo dục nói chung và dạy
học Ngữ văn nói riêng là sự tôn trọng người học trong mọi phương diện. Ngoài tôn
trọng nhân cách, lắng nghe ý kiến của các em thì người học Ngữ văn đòi hỏi cần
phải được tôn trọng, khuyến khích tự do trong suy nghĩ, biểu đạt những gì mà mình
cảm thụ được qua giờ học. Như quan điểm của nhà báo Kim Dung/Kỳ Duyên về
mục tiêu và triết lý hãy đi theo hướng “Giáo dục đứa trẻ trở thành chính nó”. Bản
thân con người từ khi là đứa trẻ đã có bản ngã riêng, nhưng giáo dục phải làm sao
giúp đứa trẻ đó khi trưởng thành, vừa có kiến thức của nhà trường trang bị, vừa
phát triển nhân cách, và có tính cách, cá tính riêng. Tính cách này là “sản phẩm”
của giáo dục ở nhà trường, trong gia đình, và ngoài xã hội. Quan điểm này nhấn
mạnh rằng đường hướng giáo dục nào cũng phải để cho những người được giáo
dục có cơ hội và điều kiện để thể hiện chính mình. Mọi hình thức áp đặt, nhồi nhét,
nắn đúc, thúc ép, rập khuôn, đều là xúc phạm và gây tai hại, làm mất đi tính cách
giáo dục. Vai trò của người giáo dục là giúp họ trở nên chính họ, chứ không trở nên
giống mình tức là là phải tôn trọng những nét cá tính này, nhiệm vụ của giáo dục
không phải là cố gắng thay thế những nét cá tính trong nhân cách người học mà là
bằng những phương pháp giáo dục phù hợp để phát huy tính tích cực của cá tính
đó, làm cho những nét cá tính đó phát triển và ngày càng được thể hiện một cách
rõ ràng. Không ai được quyền ép buộc người khác trở nên một loại người hay một
18


kiểu người theo một thứ khuôn thước đã định sẵn, cho dù là cha mẹ.
Mỗi cá nhân là một cá thể riêng biệt, có những tính cách, năng lực riêng biệt
khác nhau vì thế không thể áp đặt suy nghĩ của giáo viên vào suy nghĩ của các em.
Để hiểu được các em, biết các em đang nghĩ gì, mỗi giáo viên cần phải tôn trọng ý

kiến, lắng nghe ý kiến của các em. Trong quá trình dạy học Ngữ văn, người dạy
cần phải tạo nên tính công bằng, bình đẳng. Không thiên vị cũng như không áp đặt,
có cách nhìn không thiện cảm đối với các em. Có như vây, dạy học Ngữ văn mới
trở thành một môn khoa học mang tính nhân văn.
Trong quá trình học, có sự tương tác qua lại giữa giáo viên và học sinh mới đạt
được hiệu quả chất lượng cao. Khi các em suy tư, tự do biểu đạt những gì các em
nghĩ thì vấn đề đó các em sẽ hiểu sâu hơn. Nói cách khác, mỗi học sinh là mỗi cách
hiểu khác nhau, điều đó tạo nên sự đa dạng về kiến thức trong tiết học. Cùng một
vấn đề, giáo viên chỉ là người hướng dẫn, định hướng cho các em. Và mỗi em học
sinh sẽ có mỗi cách hiểu khác nhau, cách nhìn nhận vấn đề của các em cũng sẽ
khác nhau. Từ đó, tạo nên sự đa dạng trong quá trình tiếp nhận cũng như hình
thành và phát triển cá tính cho các em, tính nhân văn trong hoạt động dạy học Ngữ
văn.
2.3. Vai trò của giáo dục Ngữ văn trong việc hình thành con người công dân
mang đậm cá tính
Ngữ văn là môn học mang tính nhân văn bởi “Văn học là nhân học”. Đây là
một môn học mang tính đặc thù, khác với những môn khoa học khác. Với môn học
này, học sinh không chỉ lĩnh hội những kiến thức cần thiết trong chuẩn chương
trình các cấp mà ngoài ra, hoạt động dạy học Ngữ văn còn giúp học sinh phát triển
những năng lực, phẩm chất cần thiết mang tính tổng quát góp phần thực hiện mục
tiêu giáo dục của nhà trường phổ thông nói chung. Bao gồm những năng lực như
năng lực tư duy, sáng tạo và tưởng tượng, năng lực hợp tác tác, tự học…
19


Tuy nhiên, điều cần nói ở đây là ngoài những năng lực ấy dạy học Ngữ văn còn
phát triển năng lực sử dụng ngôn ngữ và năng lực thẩm mĩ, chủ yếu liên quan đến
cảm thụ văn học. Những năng lực ấy là cơ sở để phân biệt Ngữ văn với các môn
khoa học khác khác với học Toán, Lí, Hóa…, trong đó năng lực sử dụng ngôn ngữ
để giao tiếp và tư duy đóng vai trò hết sức quan trọng trong học tập của các em,

giúp các em nâng cao chất lượng cuộc sống. Đồng thời giúp học sinh phát triển các
năng lực tổng quát và đặc thù, môn Ngữ văn có sứ mạng giáo dục tình cảm và nhân
cách cho người học. Như vậy, trong quá trình dạy học, người giáo viên cần phải
vận dụng những năng lực cần thiết của một người giáo viên để giúp các em phát
triển từng năng lực đó. Để từ đó hướng đến việc hình thành, phát triển từng cá tính,
nhân cách riêng cho từng học sinh. Bởi mỗi cá nhân là mỗi nhân cách khác nhau,
nhân cách ấy còn phụ thuộc vào yếu tố khác nhau như di truyền, hoàn cảnh – môi
trường sống,...trong đó giáo dục là một yếu tố không thể bỏ qua.
Sự tác động theo một quá trình (Giáo viên => tác phẩm văn học => người học
=> con người cá tính ), trong quá trình tác động ấy, giáo viên là người quan trong
nhất. Để hình thành được con người cá tính, giáo viên cần phải vận dụng một số kỹ
năng cần thiết để thông qua tác phẩm văn chương, phát triển một số năng lực cho
người học như năng lực thẩm mĩ, năng lực ngôn ngữ, năng lực tự học, giải quyết
vấn đề… Mỗi năng lực đều tạo nên những giá trị, cá tính, đặc điểm riêng cho học
sinh. Chẳng hạn, với năng lực thẩm mĩ các em phát hiện được cái đẹp, cảm thụ và
đánh giá nó. Giúp bồi dưỡng cho các em cả về mặt cảm xúc, lí trí đối với cái đẹp.
Đồng thời, người giáo viên còn có nhiệm vụ phát hiện, định hướng và bồi
dưỡng nhân cách cho học sinh. Trong quá trình học văn, nhân cách các em được
bộc lộ, sẽ có một số em phát triển theo hướng tích cực và người lại. Nhiệm vụ của
người giáo viên là quan sát tinh tế, lắng nghe các em nhiều hơn để hiểu được
những nhân cách đang tồn tại trong chính bản than các em. Tại sao giáo dục có khi
lại tạo ra những con người công dân tích cực cũng có khi có những người là tệ nạn
20


của xã hội, có phải là vì trong quá trình giáo dục, các em không được định hướng
một cách đúng đắn. Giáo dục Ngữ văn cũng thế, đòi hỏi người dạy văn phải có tâm
huyết với nghề, dạy văn là dạy người, giúp cho con người ngày một hoàn thiện
nhân cách. Hơn thế nữa văn học ngày nay còn tác động trực tiếp đến tâm tư tình
cảm của con người nó làm cho cuộc sống của chúng ta có ý nghĩa hơn, lạc quan,

yêu đời hơn.
Dạy văn không chỉ nhằm gây rung động cảm xúc , rung động là con đường đảm
bảo hiệu quả dạy văn nhưng rung động (và các xúc cảm thẩm mĩ khác), không phải
là mục đích duy nhất mà văn chương và dạy văn chương hướng đến. Mục đích của
dạy văn là tạo được sự phát triển cân đối, toàn diện về cả trí tuệ tâm hồn, thẩm mĩ
và những hiểu biết để xây dựng những nhân cách xã hội chủ nghĩa cho học sinh.
Từ đó, tạo ra những con người cá thể mang tính cá nhân nhưng có quan hệ thống
nhất với cộng đồng. Như Lenin nói: “nếu không tích lũy những kiến thức của nhân
loại thì người cộng sản chỉ là những người nói khoác. Văn như một môn học phải
vũ trang, nhất thiết phải vũ trang cho học sinh những kiến thức cơ bản có hệ thống,
vững chắc được quy định trong chương trình.
Như vậy, giáo dục Ngữ văn đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành,
phát triển những con người công dân cho xã hội – những con người mang đậm tính
dân tộc, cá tính của từng thời đại.
2.4. Mối quan hệ giữa con người công dân mang đậm cá tính và cộng đồng
Nếu như văn hóa phương Tây đề cao giá trị cá nhân thì văn hóa phương Đông
lại chú trọng đến giá trị cộng đồng. Sở dĩ, người Việt chú trọng đến giá trị cộng
đồng là bởi: Xét từ trong phương thức sinh tồn, yêu cầu đoàn kết chống thiên tai,
yêu cầu đoàn kết chống giặc ngoại xâm của dân tộc; còn từ trong phương thức tổ
chức xã hội truyền thống căn bản dựa trên cộng đồng gia đình làng, xã. Giá trị
cộng đồng hình thành và phát triển mang “đặc trưng màu sắc nhân văn chủ nghĩa”,
21


thiên về duy tình. Điều đó được phản ánh từ trong ca dao, tục ngữ:
“Một bồ cái lí không bằng một tí cái tình”
“Cả bè hơn cây nứa”
“Lá lành đùm lá rách”
Hay:
“Một cây làm chẳng nên non

Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
Người Việt luôn tìm đến sự hài hòa, mềm dẻo, vui vẻ, bảo đảm sự đoàn kết nhất
trí giữa những thành viên trong cùng một cộng đồng. Đặc biệt, trong giáo dục thì
cần phải hướng tới đào tạo con người hiện đại có cá tính, khuyến khích con người
tự khẳng định mình, con người có chủ kiến, lý tưởng, lập trường.
Trong giao tiếp và và cuộc sống biết thể hiện những thái độ dứt khoát, quan
điểm rõ ràng và cái tôi đặc biệt của mình để xây dựng đời sống tinh thần ngày một
tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, con người công dân mang đậm cá tính cần tránh một thái
độ bảo thủ, duy lí, chủ quan trong nhận thức và hành động của mình, con người cá
tính cần biết kết hợp hài hòa giữa việc khẳng định bản thân với những chuẩn mực,
quy tắc mà cộng đồng đưa ra, họ cần biết bao dung, biết giao tiếp và hợp tác, biết
làm việc có hiệu quả, có tư duy cởi mở với cái mới, thích dấn thân, không ngại
đương đầu với thách thức, khó khăn, sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm vì mục đích
lớn và nhất là lương thiện, trung thực và có đầu óc sáng tạo, là những đức tính tối
cần thiết trong đời sống xã hội hiện đại mà đúng như quan điểm của Chủ tịch thu
Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh đến điểm quan trọng và thiết yếu trong nội dung
đạo đức mới của con người Việt Nam hiện nay là chống chủ nghĩa cá nhân. Đây là
một trong những nội dung đạo đức cách mạng mà Người đã nói trước đây “đạo đức
mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngẩng lên trời”. “Đạo đức
mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải là danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung
của Đảng, của dân tộc, của loài người” hay quan điểm của bà Phạm Thị Lệ Nhân,
22


Hiệu trưởng Trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai, Q.3, TPHCM: "Cái tôi" phải
gắn với tập thể. Theo tôi, thể hiện cá tính riêng biệt là tốt, nhưng tốt hơn nếu biết
gắn “cái tôi” với số đông, với tập thể.
Tóm lại, không có cái cộng đồng, nếu không có cái cá nhân, cũng như không có
cá nhân, nếu không có cái cộng đồng, cái xã hội. Cái cá nhân nằm trong cái cộng
đồng, cái cộng đồng nằm trong cái cá nhân. Cái cá nhân hình thành và phát triển

nhờ cái cộng đồng, cái cộng đồng tồn tại và duy trì nhờ cái cá nhân. Đó sẽ là một
nhận thức đúng đắn trong việc hình thành và phát triển con người công dân mang
đậm cá tính
Điểm hay của người thầy là biết khơi dậy những khả năng tiềm ẩn đa dạng của
mỗi người, đồng thời hỗ trợ và bổ túc những điều cần thiết, gợi ý những sáng kiến
và đưa ra những phương pháp, cách thức, để mỗi người tự do lựa chọn và điều
chỉnh cho phù hợp với khả năng và tính cách của mình. Eward Gibbon cho thấy
rằng: “Mọi người đều hấp thụ được hai thứ giáo dục: một thứ do người khác tạo ra,
còn một thứ quan trọng hơn nhiều là do chính mình tự tạo cho mình”.

23


KẾT LUẬN
Giáo dục nói chung và giáo dục Ngữ văn nói riêng luôn từng ngày phát triển và đổi
mới để nhằm đạt đến mục tiêu truyền đạt tri thức và giáo dục nhân cách đạo đức
cho người học. Trong đó, hình thành và phát triển con người công dân mang đậm
cá tính là một yêu cầu cấp thiết và quan trọng nhằm đáp ứng được những kì vọng
cũng như yêu cầu của xã hội đặt ra. Tạo ra những sản phẩm giáo dục có chất
lượng, có đặc trưng và hội tụ đầy đủ những yếu tố của một người công dân hiện
đại, vừa mang những nét cá tính riêng và vừa có sự gắn kết, hòa nhập với cộng
đồng là một nhiệm vụ mà giáo dục luôn quan tâm và đặt lên hàng đầu. Để hoàn
thành nhiệm vụ đó, đòi hỏi giáo dục, đặc biệt là giáo dục Ngữ văn, một bộ môn
gần gũi và tác động trực tiếp đến nhân cách, phẩm chất người học cần có những
phương pháp, nguyên tắc phù hợp để tạo nên chất lượng cao của đầu ra cho nền
giáo dục, hướng đến sản phẩm cuối cùng là đào tạo một thế hệ trẻ phát triển toàn
diện và đặc biệt mang đậm cá tính.

24



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. />2. Đề cương bài giảng: Giáo dục học đại cương, Bùi Văn Vân, Trường Đại học Sư
phạm Đà Nẵng, 2016
3. Nguyễn Đăng Châu, Giáo trình Lí luận dạy học Ngữ văn, Nxb ĐH Sư Phạm Đà
Nẵng, 2016,tr.9

25


×