A.Mở đầu
Trong thời đại xã hội nào, những ngời lao động sản xuất trong các ngành
sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp hay những ngời công nhân đều có
vai trò sáng tạo chân chính ra lịch sử và là những ngời giữ vai trò quyết định
sáng tạo công cụ sản xuất, gía trị thặng d và chính trị xã hội. Chủ nghĩa xã hội
khoa học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác - Lênin đã
nghiên cứu một cách toàn diện về các quy luật chính trị xã hội của quá trình
phát sinh, hình thành và phát triển của các hình thái kinh tế xã hội cộng sản
chủ nghĩa. Trong đó, chủ nghĩa xã hội khoa học đã tập chung nghiên cú những
nguyên tắc căn bản, những điều kiện, con đờng, hình thức, phơng pháp đấu
tranh của giai cấp công nhân để thực hiện chuyển biến từ chủ nghĩa t bản sang
chủ nghĩa xã hội.
Từ vai trò to lớn của giai cấp công nhân, việc khẳng định sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận lẫn thực
tiễn.
Trớc sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên
xô, nhiều ngời đã bộc lộ sự dao động và hoài nghi về sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân. Bọn cơ hội xét lại và các thế lực chống cộng có cơ hội mới để
phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, vai trò lãnh đạo của Đảng
cộng sản và chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn mới hiện nay, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đang diễn ra trên toàn thế giới, chủ nghĩa xã hội đang ở trong thời kỳ thoái
trào, thời đại ngày nay vẫn đang là thời đại quá độ từ chủ nghĩa t bản lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới còn đang có nhiều biến động, tiêu
cực thì vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đợc đặt ra
trở nên bức thiết hơn bao giờ hết, cả trên hai phơng diện: lý luận và thực tiễn.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một phạm trù cơ bản nhất của
chủ nghĩa xã hội khoa học, do đó nó đã đợc C.Mác - Ph.Ăngghen và Lênin
nghiên cứu và phát triển hết sức hoàn thiện trong trong quá trình phát triển của
lịch sử thế giới. Xét trên phơng diện lịch sử, những nhận định và lý luận của
các ông về giai cấp công nhân có tác dụng to lớn và đúng đắn.Còn đối với nớc
ta, vấn đề trên đợc Đảng ta rất chú trọng. Vì thế, sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân không chỉ thể hiện rõ trong các văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc,
1
mà đây còn là một trong những đề tài nghiên cứu khoa học của nhiều nhà lý
luận, nhà nghiên cứu lịch sử, và của nhiều thế hệ công nhân, sinh viên.
Sự tác động của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ
ảnh hởng tới sự chuyển biến của lịch sử thế giới là thay đổi từ hình thái kinh tế
này sang hình thái kinh tế khác, thay đổi từ chế độ kinh tế này sang chế độ
kinh tế khác mà còn làm thay đổi tình hình kinh tế chính trị xã hội trên toàn
thế giới, nó tác động tới quá trình sản xuất cụ thể, tới bộ mặt phát triển của thế
giới.
Nh vậy, vấn đề đặt ra là: sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là
gì? Nội dung, điều kiện khách quan quy định là gì? Trên phơng diện lý luận
và thực tiễn, nó đợc thể hiện ra sao? Và để củng cố và tăng cờng sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân cần phải tiến hành những biện pháp gì?
2
B.Nội dung
Chơng I : Luận cứ lý luận
Để giải quyết các câu hỏi trên, ta xét những luận cứ về lý luận .
I. Khái niệm giai cấp công nhân
Chính C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: Vấn đề là ở chỗ tìm hiểu xem giai
cấp vô sản thực ra là gì và phù hợp với tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô
sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử . Để chỉ giai cấp công nhân, các nhà kinh
điển dùng nhiều khái niệm nh: giai cấp vô sản, giai cấp xã hội, giai cấp công
nhân hoàn toàn chỉ dựa vào việc bán sức lao động của mình và lao động làm
thuê ở thế kỷ XIX, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai
cấp công nhân đại công nghiệp nh những cụm từ đồng nghĩa để biểu thị một
khái niệm.
Trong các thuật ngữ này, tuỳ từng điều kiện mà ta sử dụng. Tuy nhiên,
các thuật ngữ đó đều nói lên: Giai cấp công nhân- con đẻ của nền đại công
nghiệp t bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lợng sản xuất tiên tiến, cho
phơng thức sản xuất hiện đại. Ngoài các thuật ngữ trên, C.Mác và Ph.Ăngghen
còn dùng những thuật ngữ có nội dung hẹp hơn để chỉ các loại công nhân
trong các ngành khác nhau, trong các giai đoạn khác nhau của công nghiệp
nh: công nhân cơ khí là công nhân làm trong ngành cơ khí; công nhân dệt là
công nhân làm trong ngành dệt; công nhân công trờng thủ công là công nhân
làm trong các công trờng; công nhân nông nghiệp là công nhân làm trong
ngành nông nghiệp có sử dụng các trang thiết bị của công nghiệp
Mặc dù các thuật ngữ trên có nhiều tên gọi khác nhau nh thế nào đi nữa
thì theo C.Mác và Ph.Ăngghen chúng vẫn chỉ mang hai thuộc tính căn bản.
Thứ nhất, về phơng thức lao động, phơng thức sản xuất: Giai cấp công
nhân là lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính
chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao.
Thứ hai, về vị trí trong quan hệ sản xuất t bản chủ nghĩa: đó là những ng-
ời lao động không có t liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà t bản và bị
nhà t bản bóc lột về giá trị thặng d.
Trong hai tiêu trí này, C.Mác và Ph.Ăngghen tới tiêu chí một đó là công
nhân công xởng, đợc coi là bộ phận tiêu biểu cho giai cấp công nhân hiện đại.
Hai ông cho rằng: Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự
phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của nền đại
3
công nghiệp; công nhân cũng là một phát minh của thời đại mới, giống nh
máy móc cũng vậy công nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền đại công
nghiệp hiện đại.
Với tiêu chí thứ hai, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đặc biệt nhấn mạnh
vì chính điều này khiến cho ngời công nhân trở thành giai cấp đối kháng với
giai cấp t sản: giai cấp t sản, tức là t bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai
cấp công nhân hiện đại- tức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm đ-
ợc việc làm, và chỉ kiếm đợc việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm t
bản- cũng phát triển theo. Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để
kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hóa, tức là một món hàng đem bán nh bất
cứ một món hàng nào khác, vì thế họ phải chịu hết sự may rủi của cạnh tranh,
mọi sự lên xuống của thị trờng. Tiêu chí này đã nói lên một trong những đặc
trng cơ bản nhất của giai cấp công nhân dới chế độ t bản, do đó C.Mác và Ph.
Ăngghen còn gọi giai cấp công nhân là giai cấp vô sản.
Tại sao C.Mác và Ph.Ăngghen lại đặc biệt nhấn mạnh hai tiêu chí trên?
Sở dĩ nh vậy vì đây chính là hai vị trí phân biệt giai cấp công nhân với các giai
cấp khác trong xã hội. Họ phải kiếm đợc việc làm và họ phải kiếm đợc việc
làm khi họ bán đợc sức lao động.
Giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông nhân có sự khác nhau. Hai khái
niệm về hai giai cấp này khác nhau ở chỗ: Nông dân sử dụng tất cả các công
cụ sản xuất để tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh; sản phẩm của nông dân mang
tính chất cá nhân và công cụ sản xuất của họ còn thô sơ. Còn giai cấp công
nhân có khác: công cụ sản xuất hiện đại; mỗi công nhân là một mắt khâu của
công việc sản xuất; sản phẩm của họ mang tính chất xã hội.
Giai cấp công nhân cũng khác với vô sản lu manh. Đó là giai cấp công
nhân không có t liệu sản xuất, họ tồn tại đợc là nhờ bị bóc lột giá trị thặng d.
Còn giai cấp t sản, họ có nhiều t liệu sản xuất nhng lại không có sức lao động,
họ phải thuê giai cấp công nhân và bóc lột sức lao động của giai cấp công
nhân để tồn tại. Đây chính là hai mặt của một vấn đề.
Dới chế độ chủ nghĩa t bản, giai cấp công nhân lại là những ngời lao
động tự do, những ngời bán sức lao động để sống, họ là những ngời làm công
ăn lơng (hay làm thuê), là lao động trong lĩnh vực công nghiệp.
Ngày nay, với sự phát triển của chủ nghĩa t bản trong nửa sau của thế kỷ
XX, bộ mặt của giai cấp công nhân hiện đại có nhiều thay đổi khác trớc. Từ
dự kiến của C.Mác và Ph.Ăngghen, giai cấp công nhân xét về diện mạo có
nhiều biến đổi. Chính sự phát triển của lực lợng sản xuất xã hội hiện nay đã v-
4
ợt xa trình độ văn minh công nghiệp trớc đây, sự xã hội hoá và phân công lao
động xã hội mới, cơ cấu của giai cấp công nhân hiện đại; các hình thức bóc lột
giá trị thặng d đã làm cho diện mạo của giai cấp công nhân hiện đại không
còn giống với những mô tả của C.Mác trong thế kỷ XIX. Tuy thế nhng giai
cấp công nhân hiện đại vẫn tồn tại, vẫn có sứ mệnh lịch sử của mình trong xã
hội t bản hiện đại; những thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân mà C.Mác
đã phát hiện ra vẫn còn nguyên giá trị.
Hiện nay, cơ cấu ngành nghề của giai cấp công nhân đã có nhiều thay
đổi to lớn. Bên cạnh lực lợng công nhân truyền thống, xuất hiện công nhân
trình độ tự động hoá với việc áp dụng phổ biến công nghệ thông tin vào sản
xuất. Bên cạnh những ngành công nghiệp truyền thống, xuất hiện công nhân
hoạt động ở lĩnh vực dịch vụ. Thực tế, ở các nớc t bản, công nhân trong các
ngành dịch vụ này chiếm 50% đến 70% lao động.Tuy nhiên, điều này không
hề làm giảm vai trò của giai cấp công nhân trong nền kinh tế và ngay cả tỷ
trọng của giai cấp công nhân trong dân c. Bởi vì những ngời làm thuê trong
các ngành dịch vụ gắn liền với công nghiệp và hoạt động theo lối công nghiệp
vẫn là công nhân xét cả trên hai thuộc tính về giai cấp công nhân. Mặt khác,
bên cạnh trình độ thấp của giai cấp công nhân truyền thống đã xuất công nhân
có trình độ cao, có xu hớng tri thức hoá và cũng ngày càng tiếp thu thêm
đông đảo những ngời thuộc tầng lớp trí thức vào hàng ngũ của mình. Mặc dù
vậy, bản chất về giai cấp công nhân cũng không hề thay đổi. Nếu trớc kia,
công nhân bán sức lao động chân tay là chủ yếu thì nay, họ bán cả sức lao
động chân tay và lao động trí óc, giá trị ngày càng lớn và do đó càng bị bóc lột
giá trị thặng d theo chiều sâu. Giai cấp công nhân bắt đầu có sự thay đổi về tài
sản. Phần lớn, họ không còn là những ngời vô sản trần trụi với hai bàn tay
trắng, mà họ đã có một số t liệu sản xuất phụ có thể cùng gia đình làm thêm;
một số công nhân đã có cổ phần, cổ phiếu ở xí nghiệp. Tuy vậy nhng nó cũng
không làm thay đổi toàn bộ lực lợng sản xuất cơ bản nhất, quyết định nhất đối
với nền sản xuất t bản chủ nghĩa, họ vẫn bị bóc lột dới những hình thức khác
nhau.
Giai cấp công nhân hiện nay không những trong lĩnh vực công nghiệp
mà trong mọi ngành nghề khác nhau, có trình độ sản xuất khác nhau của nền
công nghiệp hiện đại. Họ là những ngời trực tiếp đứng máy, không nằm trong
dây truyền sản xuất tự động, không kiểm tra hoạt động máy móc mà đó là
những chuyên gia trực tiếp chăm lo nghiên cứu, sáng chế để không ngừng cải
tiến máy móc nhằm nâng cao chất lợng sản phẩm, năng suất lao động. Họ là
5
những ngời hoạt động ở các ngành dịch vụ trực tiếp phục vụ cho sản xuất nh
bu điện, viễn thông, giao thông vận tải, Họ còn là những ngời lao động làm
thuê trong các ngành dịch vụ đang trở thành những ngành công nghiệp thực sự
nh du lịch, ngân hàng, thông tin Đó còn là những nhân viên thừa hành làm
công ăn lơng phục vụ cho hệ thống quản lý của các công ty.
Đối với giai cấp công nhân ở thời kỳ đế quốc ta còn thấy bộ phận làm
thuê trong các doanh nghiệp t nhân. Xét về t cách giai cấp, họ còn là những
ngời làm chủ, nhng xét về góc độ cá nhân, những ngời này vẫn bị bóc lột giá
trị thặng d, do đó họ vẫn mang hai thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân.
Do vậy họ vẫn nằm trong giai cấp công nhân.
Tóm lại, căn cứ vào hai tiêu chí cơ bản của giai cấp công nhân, ta có
thể nói: những ngời lao động trong các ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ
công nghiệp là công nhân, còn những ngời làm công ăn lơng phục vụ trong
các ngành khác nh y tế, giáo giục, văn hoá, dịch vụ( không liên quan đến sản
xuất công nghiệp) là những ngời lao động nói chung, họ đang đợc thu hút
vào các tổ chức công đoàn nghề nghiệp nhng họ không phải là công nhân.
Dới chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân trở thành giai cấp nắm chính
quyền, thành giai cấp thống trị nhng không thành giai cấp bóc lột, họ có
nhiệm vụ lãnh đạo cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, đại
biểu cho toàn thể nhân dân lao động làm chủ những t liệu sản xuất cơ bản đã
đợc công hữu hoá.
Sau khi xoá bỏ đợc mọi giai cấp, giai cấp công nhân sẽ không còn nữa.
Lúc đó, công nhân sẽ nh mọi lao động đợc giải phóng, đều có điều kiện phát
triển tự do và toàn diện.
Có thể nói, những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về hai tiêu
chí cơ bản của giai cấp công nhân cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị, vẫn là
cơ sở phơng pháp luận để chúng ta nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại,
đặc biệt là để làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời
đại ngày nay. Từ hai tiêu chí trên ta có thể định nghĩa: Giai cấp công nhân là
một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình hình
thành và phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của
lực lợng sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao; là lực lợng sản xuất
cơ bản tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra
của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực lợng chủ yếu của tiến
trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa t bản lên chủ nghĩa xã hội.
6
II. Nội dung và điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân
1. Nội dung
Lịch sử phát triển của thế giới chính là lịch sử phát triển của các hình thái
kinh tế xã hội từ thấp đến cao. Trong xã hội có giai cấp, để giải quyết mâu
thuẫn giữa lực lợng sản xuất phát triển đến trình độ xã hội hoá cao với quan hệ
sản xuất cũ, giữa giai cấp thống trị với giai cấp lao động phải phát triển từ
hình thái kinh tế xã hội thấp đến cao.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân
lao động: là ngời sáng tạo chân chính ra lịch sử; là ngời có vai trò quyết định
sáng tạo công cụ sản xuất, giá trị thặng d, chính trị xã hội. Khi trong xã hội
còn tồn tại giai cấp bóc lột trong một phơng thức sản xuất với điều kiện phơng
thức sản xuất đó còn giữ vị trí tiên tiến, do đó phải đảm bảo quy luật lịch sử.
Trong sự chuyển biến của hình thái kinh tế trong xã hội, là giai cấp trung
tâm, có nhiệm vụ phải thoả mãn các điều kiện nh: là giai cấp đại diện cho một
phơng thức sản xuất tiên tiến; là giai cấp có hệ t tởng độc lập; giai cấp này
phải tiến hành thuyết phục tập hợp và tổ chức quần chúng làm cách mạng. Và
hai nhiệm vụ quan trọng là: tiến hành xoá bỏ chế độ xã hội cũ; xây dựng hình
thái kinh tế xã hội mới tiến bộ hơn.
Khi nghiên cứu về các giai cấp, tầng lớp trong hình thái kinh tế xã hội
chủ nghĩa, C.Mác và Ph.Ăngghen đã rút ra các kết luận:
Một là: giai cấp t sản trong cha đầy một thế kỷ đã tạo ra một lực lợng sản
xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn, với lực lợng sản xuất bằng tất cả các xã hội trớc
để lại, tạo ra năng xuất lao động cao hơn nhiều. Do đó giai cấp t sản đã từng
đóng vai trò tích cực trong lịch sử là tạo năng suất lao động cao.
Hai là: khi lực lợng sản xuất đạt tới trình độ xã hội hoá cao, xuất hiện
mâu thuẫn về quan hệ sản xuất t bản chủ nghĩa mà tập trung là sở hữu t bản
chủ nghĩa, kìm hãm sự phát triển của lực lợng sản xuất. Khi lực lợng sản xuất
phát triển, quan hệ sản xuất nh cũ thì xuất hiện giai cấp mới để giải phóng
quan hệ sản xuất cũ, đó chính là giai cấp công nhân.
Ba là: việc giai cấp công nhân đứng lên đấu tranh để giải phóng giai cấp,
điều đó không có nghĩa chỉ giải phóng giai cấp mà tập trung giải phóng xã hội
và giải phóng con ngời vì giai cấp công nhân có lợi ích phù hợp với nhân dân
lao động, với dân tộc và với nhân loại.
Từ những kết luận của C.Mác và Ph.Ăngghen và những khẳng định về
giai cấp công nhân hiện đại là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để, có khả
năng tổ chức và lãnh đạo toàn thể nhân dân lao động tiến hành cuộc cải biến
7
cách mạng, từ hình thái kinh tế xã hội t bản sang hình thái kinh tế xã hội cộng
sản chủ nghĩa, giải phóng nhân loại khỏi ách áp bức, bất công và mọi hình
thức bóc lột. Hay nói cách khác, nội dung tổng quát sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân là: xoá bỏ chế độ t bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ ngời bóc lột
ngời, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại
khỏi sự áp bức bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản văn
minh.
Ph.Ăngghen viết: Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy- đó là sứ
mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại . Còn Lênin đã chỉ rõ: Điểm chủ
yếu trong học thuyết của C.Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới
của giai cấp vô sản là ngời xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Nội dung thực chất của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ở đây
chính là:
Trong lĩnh vực kinh tế: giai cấp công nhân tiến hành xoá bỏ chế độ t hữu
t nhân t liệu sản xuất, xây dựng chế độ công hữu t liệu sản xuất, nâng cao
năng suất lao động thoả mãn từng bớc nhu cầu phát triển của nhân dân. Sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong lĩnh vực này chỉ rõ mục tiêu cuối
cùng của giai cấp công nhân, thoả mãn nhu cầu ngày càng đầy đủ hơn: làm
theo năng lực, hởng theo nhu cầu. Do đó nó cần phải đợc thực hiện một cách
lâu dài, gian khổ, trải qua từng bớc cụ thể. Xoá bỏ chế độ chiếm hữu t nhân t
liệu sản xuất; xây dựng chế độ công hữu là quá trình phù hợp nhng phải dần
dần từ từ.
Tại sao phải xoá bỏ chế độ t hữu? Sở dĩ nh vậy vì đây là cơ sở của chế độ
ngời bóc lột ngời; biểu hiện cao nhất của chế độ chiếm hữu t nhân t liệu sản
xuất là sở hữu t bản chủ nghĩa do đó phải xoá bỏ chế độ t hữu; sau khi xoá bỏ
chế độ t hữu thì mới thiết lập chế độ công hữu t liệu sản xuất, phù hợp với
trình độ phát triển của lực lợng sản xuất, phù hợp với yêu cầu sản xuất; đây
cũng là cơ sở kinh tế cho sự tồn tại chế độ xã hội mới vì thế cũng rất cần phải
xoá bỏ chế độ t hữu này. Chính C.Mác đã nói: những ngời cộng sản có thể
tóm tắt lực lợng của mình bằng một công thức là xoá bỏ chế độ t hữu.
Trong lĩnh vực chính trị: giai cấp công nhân phải trở thành giai cấp thống
trị trong xã hội. Đó là phải đập tan chính quyền t sản; xây dựng chính quyền
nhà nớc(nền chuyên chính vô sản): thực chất là để đảm bảo quyền lực chính
trị thuộc về nhân dân, giữ vai trò quan trọng là công cụ xây dựng xã hội mới,
là kiểu nhà nớc: nhà nớc nửa nhà nớc và nhà nớc tự tiêu vong.
8
Trong lĩnh vực xã hội đó là: phải tiến hành xoá bỏ giai cấp bóc lột; phải
tiến hành xoá bỏ giai cấp nói chung, tạo ra sự bình đẳng trong quan hệ giữa
ngời với ngời. ở đây xoá bỏ giai cấp bóc lột với t cách là giai cấp chứ không
xoá bỏ các cá nhân vì họ có thể là những cá nhân có ích trong xã hội mới.
Có thể nói nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân bao gồm bốn
sự nghiệp. Đó là sự nghiệp giải phóng giai cấp; sự nghiệp giải phóng xã hội,
dân tộc; sự nghiệp giải phóng ngời lao động; và sự nghiệp giải phóng con ng-
ời. Đây chính là nấc thang phát triển trong sự phát triển của hình thái kinh tế
xã hội. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân phải đợc thực hiện trên toàn
thế giới.Và để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một quá
trình lâu dài, gian khổ, phức tạp, nên những ngời cộng sản phải kiên trì, không
nóng vội, nó phải đợc tiến hành hai giai đoạn: tập trung lực lợng để giành
chính quyền và tập trung lực lợng để xây dựng chế độ xã hội mới.
Trong giai đoạn đầu, giai cấp công nhân và chính đảng của mình tiến
hành cuộc đấu tranh giành chính quyền của cách mạng vô sản. Các bớc đấu
tranh đó gồm: thiết lập một chính đảng cộng sản, đề ra cơng lĩnh chính trị, đ-
ờng lối chiến lợc, sách lợc, mục tiêu, phơng hớng, biện pháp, giải pháp;liên
minh giai cấp công nhân, nông dân, xác định giai cấp công nhân là giai cấp
lãnh đạo cách mạng; tạo tình thế nh điều kiện khách quan trên thế giới và
trong nớcKhi cách mạng vô sản thắng lợi sẽ đập tan nhà nớc t sản, xây dựng
nhà nớc chuyên chính vô sản; xoá bỏ phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa
(bản chất là chế độ t hữu t nhân về t liệu sản xuất); kế thừa có chọn lọc tri thức
văn hoá truyền thống dân tộc và tri thức văn hoá thời đại.
Trong giai đoạn hai, khi đã giành đợc chính quyền thời kỳ quá độ xây
dựng chủ nghĩa xã hội: Đảng cộng sản và giai cấp công nhân phải tiếp tục đấu
tranh giai cấp trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, với mục đích là giữ
vững chính quyền cách mạng (xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ
nghĩa):Về chính trị, quyền lực nhà nớc thể hiện ý chí của dân. Nhà nớc vô sản
có hệ thống chính trị gồm Đảng cộng sản, nhà nớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và các tổ chức chính trị, nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Trong công tác đối nội và đối ngoại sẽ sử dụng bạo lực
trấn áp thù trong giặc ngoài. Về kinh tế, mục đích là đạt đợc năng suất lao
động cao, nguyên tắc phân phối là làm theo năng lực, hởng theo lao động; sử
dụng các thành phần kinh tế, các hình thức sở hữu: sở hữu toàn dân (sở hữu
nhà nớc), sở hữu tập thể, sở hữu cá thể, sở hữu t bản nhà nớc, sở hữu t nhân.
Do đó cần nắm vững cơ chế Đảng cộng sản lãnh đạo, nhà nớc pháp quyền xã
9
hội chủ nghĩa quản lý, nhân dân lao động làm chủ dựa trên pháp luật của nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa (nguyên tắc tập trung dân chủ). Về văn hoá t tởng:
kế thừa có chọn lọc tri thức văn hoá truyền thống dân tộc, kết hợp với tri thức
văn hoá của nhân loại (khoa học kỹ thuật công nghệ của nền kinh tế tri thức),
và định hớng xã hội là định hớng t tởng cá nhân. Về quân sự, xây dựng chiến
lợc quốc phòng toàn dân và an ninh quốc gia. Về ngoại giao, phát triển quan
hệ song phơng, đặt vấn đề dân tộc và lợi ích là trên hết Vì vậy đờng lối đặt ra
phải phù hợp với quy luật khách quan, hợp lòng dân, chống thù trong giặc
ngoài và mọi âm mu diễn biến hoà bình của đế quốc.
2. Những điều kiện khách quan
Học thuyết C.Mác và Ph.Ăngghen về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân là luận chứng khoa học về địa vị kinh tế xã hội và vai trò lịch sử của giai
cấp công nhân, về mục tiêu và con đờng để giai cấp đó hoàn thành sứ mệnh
lịch sử của mình. Học thuyết đã chứng minh sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân đợc quy định bởi những điều kiện kinh tế, xã hội khách quan.
a.Về địa vị kinh tế xã hội:
Dới chủ nghĩa t bản, giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công
nghiệp t bản chủ nghĩa, nó ra đời và phát triển cùng với sự hình thành phát
triển của nền đại công nghiệp t bản chủ nghĩa, đợc nền sản xuất công nghiệp
hiện đại rèn rũa tổ chức lại thành một lực lợng xã hội hùng mạnh. Đại công
nghiệp càng phát triển, tập trung làm phá sản những ngời sản xuất hàng hoá
nhỏ, bổ xung lực lợng cho giai cấp công nhân. Mặt khác, đại công nghiệp phát
triển tiếp tục bổ xung lực lợng cho giai cấp công nhân, thu hút lực lợng lao
động từ nhiều ngành, nhiều nghề khác nhau tạo nên tập đoàn hùng mạnh. Bản
thân sự phát triển nền đại công nghiệp cũng yêu cầu cao với từng ngời lao
động, tập thể lao động về tác phong lao động, kỷ luật lao động
Dới chủ nghĩa t bản, giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất
trong các bộ phận tiêu biểu cấu thành của lực lợng sản xuất của xã hội t bản.
Họ đại diện cho lực lợng sản xuất tiên tiến nhất với trình độ xã hội hoá ngày
càng cao. Nhng chủ nghĩa t bản lại đợc xây dựng trên nền tảng của chế độ
chiếm hữu t nhân về t lệu sản xuất mà giai cấp t sản là đại diện. Bởi thế, ở ph-
ơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa luôn luôn tồn tại mâu thuẫn giữa lực lợng
sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao (mà giai cấp công nhân là đại
diện) với quan hệ sản xuất có tính chất chiếm hữu t nhân (mà giai cấp t sản là
đại diện). Đây là mâu thuẫn cơ bản vốn có và không thể khắc phục đợc nếu
không xoá bỏ đợc chế độ t bản. Biểu hiện về mặt chính trị, xã hội của mâu
10
thuẫn cơ bản đó là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp t sản. Sự vận
động phát triển của những mâu thuẫn tất yếu trên dẫn đến cách mạng xã hội
chủ nghĩa, dẫn tới sự sụp đổ của chủ nghĩa t bản và thắng lợi của chủ nghĩa xã
hội. Nh vậy giai cấp công nhân gắn liền với nền lao động sản xuất vật chất, đi
liền sự phát triển của công nghiệp ngày càng hiện đại kể cả khi xuất hiện nền
kinh tế tri thức.
Do không có t liệu sản xuất, giai cấp công nhân phải bán sức lao
động làm thuê, bị nhà t bản chiếm đoạt giá trị thặng d, bị lệ thuộc hoàn toàn
vào quá trình phân phối các kết quả lao động của chính họ. Trong nền sản xuất
t bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân bị toàn bộ giai cấp t sản bóc lột, là giai
cấp trực tiếp đối kháng với giai cấp t sản, không có quyền trong tổ chức, điều
hành lao động, phân phối sản phẩm lao động. Do đó giai cấp công nhân không
đợc làm chủ trong xã hội t bản chủ nghĩa. Họ bị bần cùng hoá so với giai cấp
t sản (bị bóc lột trong quá trình sản xuất, ngoài quá trình sản xuất và bị bóc lột
theo chiều sâu).
Giai cấp công nhân hiện nay ở các nớc t bản có đời sống vật chất cao
vẫn bị bóc lột, bần cùng hoá theo đúng nghĩa của nó. Công nhân có cổ phần,
tức là đã ra nhập vào quá trình sản xuất, điều hành sản xuất đó là công nhân t
bản nhân dân nhng con số này vẫn còn rất khiêm tốn. Còn ở các nớc t bản phá
triển, công nhân bị bóc lột cao hơn rất nhiều, từ 200% tới 300% và sự chênh
lệch giàu nghèo cũng khá cao. Trong tất cả các giai cấp đang đối lập với giai
cấp t sản thì chỉ có giai cấp công nhân là thực sự cách mạng vì nó là sản phẩm
của nền đại công nghiệp, đại diện cho lực lợng sản xuất với trình độ xã hội
hoá ngày càng cao, và nó lao động trong nền đại công nghiệp với trình độ
công nghệ ngày càng hiện đại và sản xuất ra tuyệt đại của cải cho xã hội.
Từ địa vị giai cấp công nhân và giai cấp công nhân có lợi ích cơ bản
thống nhất với lợi ích của đông đảo nhân dân lao động đã tạo điều kiện cho
giai cấp công nhân đoàn kết với giai cấp khác, đi đầu trong công cuộc đấu
tranh để thực hiện quá trình giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Họ có khả
năng đoàn kết giai cấp khác (tất cả giai cấp vô sản) vì giai cấp công nhân: có
cùng lợi ích cơ bản, thống nhất nhau do bị bóc lột giá trị thặng d; cùng tồn tại
trong một môi trờng sản xuất nh nhau có tính chất công nghiệp thậm chí dịch
vụ; có cùng t bản trong nớc và quốc tế bóc lột; có cùng mục tiêu, sứ mệnh lịch
sử tiêu diệt t sản, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
b.Về đặc điểm chính trị, xã hội:
11
Do những đặc điểm về kinh tế chính trị xã hội của giai cấp công nhân:
từ địa vị kinh tế xã hội của giai cấp công nhân, điều đó cũng quy định những
đặc điểm xã hội chính trị của giai cấp công nhân, do vậy giai cấp công nhân
có vai trò sứ mệnh cao cả. Những đặc điểm đó là:
Giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất: Giai cấp công nhân là đại
diện cho phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa phơng thức sản xuất tiên tiến
nhất và là lực lợng sản xuất có trình độ xã hội hoá cao.
Giai cấp công nhân luôn đi đầu trong các cuộc cách mạng và làm cách
mạng cho đến khi thắng lợi. Lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân đối lập với
lợi ích cơ bản của giai cấp t sản, nhng phù hợp với lợi ích, khát vọng giải
phóng của nhân dân lao động. Do đó giai cấp công nhân càng có đủ điều kiện,
khả năng trở thành lực lợng tổ chức lãnh đạo các giai cấp và tầng lớp lao động
khác trong công cuộc xoá bỏ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa t bản, xây dựng
thành công xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để, tính triệt
để đó đợc thể hiện trong các lĩnh vực kinh tế xã hội: Về kinh tế, lợi ích của
giai cấp công nhân đối lập với lợi ích của giai cấp t sản, họ là những ngời
không có t liệu sản xuất, làm thuê cho các nhà t bản và bị áp bức bóc lột nặng
nề. Vì thế, họ phải đứng thực hiện cuộc cách mạng vô sản thành công, đa họ
từ địa vị của ngời làm thuê trở thành ngời làm chủ bản thân, và làm chủ xã
hội. Về xã hội, khi làm cách mạng, giai cấp công nhân đa cách mạng đến
thành công, đập tan nhà nớc t sản, thiết lập nhà nớc chuyên chính vô sản
nhà nớc của giai cấp vô sản. Tính triệt để cách mạng của giai cấp công nhân
còn đợc thể hiện ở chỗ nó đợc vũ trang bởi hệ t tởng tiên tiến là học thuyết
Mác Lênin đợc đội ngũ tiên phong của nó là Đảng cộng sản lãnh đạo.
Giai cấp công nhân là giai cấp có tính tổ chức kỷ luật cao: Điều kiện sản
xuất tập trung và trình độ kỹ thuật ngày càng hiện đại, cơ cấu tổ chức sản xuất
chặt chẽ đã tôi luyện cho giai cấp công nhân hiện đại tính tổ chức và kỷ luật
cao, tác phong công nghiệp; trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp t sản
thống trị, giai cấp công nhân phải đoàn kết lại, tổ chức chặt chẽ và có tính
cách mạng cao vì cách mạng đòi hỏi đúng thời điểm, thời cơ thuận lợi mới có
thể thành công.
Giai cấp công nhân là giai cấp có bản chất quốc tế: Gắn với nền công
nghiệp hiện đại, chẳng những giai cấp công nhân có trình độ xã hội hoá ngày
càng cao ở mỗi nớc mà còn có mối quan hệ quốc tế ngày càng tăng. Giai cấp
12
công nhân ở các nớc t bản nói chung đều có địa vị kinh tế xã hội giống nhau.
Vì vậy họ có mục tiêu đấu tranh chung là xoá bỏ chế độ áp bức bóc lột t bản
chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, không còn tình trạng ngời áp
bức bóc lột ngời. Mặt khác, giai cấp t sản cũng là một lực lợng quốc tế và để
duy trì địa vị thống trị của mình, giai cấp t sản luôn thực hiện sự liên minh
trên phạm vi quốc tế để chống lại cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và
các dân tộc bị áp bức. Do đó muốn hoàn thành sự nghiệp giải phóng, giai cấp
công nhân phải đoàn kết lại, đấu tranh trên phạm vi toàn quốc tế. Bản chất
quốc tế đó thể hiện trớc hết ở việc giai cấp công nhân lãnh đạo nhân dân, dân
tộc mình hoàn thành nhiệm vụ tự giải phóng. Lợi ích quốc tế của giai cấp
công nhân không tách rời mà gắn bó mật thiết với lợi ích chân chính của dân
tộc mà giai cấp công nhân làm đại diện.
Lịch sử thế giới đã chứng minh những kết luận của C.Mác, Ph.
Ăngghen và Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là hoàn toàn
đúng đắn. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm hoàn thành
sứ mệnh lịch sử của mình không phải diễn ra một cách bằng phẳng, thuận
buồm xuôi gió. Bên cạnh những điều kiện khách quan quy định, sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân còn có nhiều quan điểm nhằm phê phán giai cấp
công nhân cùng với sứ mệnh lịch sử của họ:
Thứ nhất, ngày nay, kẻ thù của chủ nghĩa xã hội và một số ngời cơ hội
xét lại đang phủ nhận thuyết Mác Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân. Theo họ giai cấp công nhân ngày càng teo đi, đã tan biến vào
các giai cấp, tầng lớp xã hội khác: địa vị kinh tế xã hội của giai cấp công nhân
đã thay đổi nhiều, phần đông trong giai cấp này đã trung lu hoáNhng thực tế
đã chứng minh đó là ý kiến hoàn toàn sai lầm, vì giai cấp công nhân hiện nay
có sự biến đổi về số lợng, dịch chuyển vào các giai cấp khác, nhng chất lợng
không thay đổi. Quá trình tái sản xuất t bản chủ nghĩa dù có hiện đại hoá đến
đâu, những hình thức của nó có thay đổi thế nào đi chăng nữa thì nó vẫn
không ngừng tái sinh ra quan hệ t bản chủ nghĩa.
Thứ hai, mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất trong lòng
chế độ t bản chủ nghĩa đang diễn ra hết sức gay gắt. Giai cấp t sản đã và đang
tìm mọi cách để điều chỉnh các quan hệ t bản chủ nghĩa nhằm cứu vãn chế độ
thống trị của chúng. Chúng có thể đạt đợc một số thành tựu và kết quả nào đấy
nhng vẫn không sao khắc phục đợc mâu thuẫn cơ bản của xã hội t bản. Dù nơi
này hay nơi khác, nền kinh tế t bản chủ nghĩa vẫn có khả năng phát triển, nh-
ng phải thờng xuyên đơng đầu với các cuộc khủng hoảng nặng nề, với nhiều
13
cơn suy thoái và nạn thất nghiệp thờng xuyên không tránh khỏi của hàng chục
triệu ngời. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân tuy đang đứng trớc
những thử thách nặng nề, nhng bức tranh toàn cảnh của sự phát triển lực lợng
sản xuất thế giới vẫn đang chuẩn bị những tiền đề khách quan cho giai cấp
công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình dù có trải qua những bớc thăng
trầm, quanh co, nhng nó vẫn tiếp tục diễn ra theo quy luật khách quan của lịch
sử.
Thứ ba, hiện nay, giai cấp công nhân đã, đang và sẽ phấn đấu trở thành
lực lợng lãnh đạo xã hội, nắm quyền lực nhà nớc bằng nhiều con đờng khác
nhau. Bởi lẽ đây là lực lợng duy nhất đại diện cho lực lợng sản xuất hiện đại,
cho phơng thức sản xuất tiên tiến. Giai cấp công nhân là ngời đại diện cho lợi
ích và quyền lực của nhân dân, của nhân loại tiến bộ.
Thứ t, phải chăng, hiện nay trong các nớc t bản phát triển, giai cấp công
nhân không còn bị bóc lột nh trớc, đã trung lu hoá và có cổ phần trong xí
nghiệp, cho nên giai cấp công nhân không có tinh thần cách mạng nh trớc,
không còn có thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa t bản. Chủ nghĩa Mác- Lênin không quan niệm một giai cấp có khả
năng lãnh đạo cách mạng vì nó nghèo khổ nhất. Mu toan đem sự nghèo khổ
để luận giải sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự xuyên tạc trắng trợn
những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin. Sự thực, ở những nớc t bản phát
triển, đời sống của một bộ phận không nhỏ trong giai cấp công nhân đã đợc
cải thiện. Một bộ phận công nhân đã có mức sống cao hơn. Song điều đó
không có nghĩa là công nhân ở các nớc đó không bị bóc lột hoặc bị bóc lột
không đáng kể. Một số công nhân có cổ phần, cổ phiếu trong công ty nhng
điều đó không hề làm thay đổi một sự thật là toàn bộ t liệu sản xuất t bản chủ
nghĩa vẫn nằm trong tay giai cấp t sản. Do đó giai cấp công nhân về cơ bản
vẫn bị bóc lột giá trị thặng d, và bị bóc lột nhiều hơn trớc.Vì vậy mà giai cấp t
sản chỉ bớt một phần lợi nhuận (chính là việc cho công nhân mua cổ phần, cổ
phiếu) để cải thiện đời sống công nhân. Và thực tế thì đời sống của giai cấp
công nhân ở các nớc t bản phát triển vẫn còn nhiều tình trạng nghèo khổ, thất
nghiệp, thiếu nhà ở, mù chữ, đời sống bấp bênh.
Thứ năm, cũng có quan điểm cho rằng, luận điểm của Mác về sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân trớc đây có thể đúng nhng không có đúng trong
thời đại ngày nay. Theo họ thì thời đại ngày nay là thời đại của nền văn minh
trí tuệ, của kinh tế tri thức, do đó tri thức mới là lực lợng tiên phong, có vai
trò lãnh đạo cách mạng. Tất nhiên, trí thức có vai trò quan trọng trong mọi
14
thời đại.Trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới, vai trò trí thức ngày càng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Song, trí thức không thể đóng vai trò lãnh đạo thay
thế vai trò lãnh đạo thay thế giai cấp công nhân. Bởi lẽ: Trong xã hội trí thức
chỉ là một tầng lớp đặc biệt và không thuần nhất. Trí thức cha bao giờ và
không bao giờ là một giai cấp. Nó không đại biểu cho một phơng thức sản
xuất nào, không là một lực lợng kinh tế, chính trị độc lập trớc các giai cấp và
tầng lớp xã hội khác. Do đó, không có hệ t tởng riêng, không thể là ngời lãnh
đạo cách mạng. Mặt khác, tri thức không có lợi ích đối kháng trực tiếp với giai
cấp t sản. Dới chế độ t bản, trí thức cũng làm thuê nhng đợc giai cấp t sản đào
tạo và một bộ phận đợc u đãi.Trí thức không phải là tầng lớp có tinh thần cách
mạng triệt để nh giai cấp công nhân. Thực tế lịch sử cho thấy cha bao giờ có
tầng lớp trí thức nào có thể thay thế một giai cấp để lãnh đạo cách mạng.Trí
thức bao giờ cũng là trí thức của một giai cấp nhất định và thờng là của giai
cấp thống trị xã hội.
Từ sự phân tích về địa vị kinh tế xã hội và những đặc điểm xã hội chính
trị của giai cấp công nhân, chính đó là những cơ sở khách quan để khẳng định
giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử là đấu tranh để thủ tiêu chế độ t bản
chủ nghĩa và từng bớc xây dựng thành công xã hội mới xã hội xã hội chủ
nghĩa và chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới.
Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử đó, giai cấp công nhân phải tự tổ chức ra
chính Đảng của mình, tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, thiết lập
chuyên chính vô sản, thực hiện quá trình cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội
mới xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
III. Vai trò của Đảng cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân
Để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, Đảng cộng sản là
nhân tố quyết định trớc tiên.
Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp t sản, trải qua
nhiều giai đoạn từ thấp đến cao, từ tự phát đến tự giác. Yếu tố có ý nghĩa
quyết định sự chuyển biến về chất là sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào
phong trào công nhân. Sự thâm nhập đó dẫn đến sự hình thành chính Đảng của
giai cấp công nhân. Sau khi ra đời, Đảng cộng sản với vai trò là ngời tiếp tục
sự nghiệp kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân trên quy mô lớn
hơn nhằm giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống giai cấp t sản, đã xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
15
Trong cuộc đấu tranh chống giai cấp t sản, chỉ khi nào giai cấp công
nhân tự tổ chức ra chính Đảng của mình để lãnh đạo thì cuộc đấu tranh mới có
thể đảm bảo giành đợc thắng lợi trọn vẹn.
Đảng cộng sản là bộ phận không thể tách rời của giai cấp công nhân.Mục
đích và lợi ích của Đảng và của giai cấp công nhân là thống nhất. Không có
Đảng cộng sản hạt nhân chính trị của phong trào công nhân, bản thân giai
cấp công nhân không thể trở thành lực lợng chính trị độc lập, cũng không thể
trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng.
Đảng cộng sản là ngời đại diện chân chính cho lợi ích của giai cấp công
nhân và lợi ích dân tộc. Trong phạm vi một nớc đồng thời cũng vì lợi ích
chung của phong trào cộng sản và quốc tế. Chính vì vậy, giai cấp công nhân
dới sự lãnh đạo của Đảng đã tạo ra đợc cơ sở thống nhất t tởng và hành động,
phát huy t cách là ngời lãnh đạo trong đấu tranh chống áp bức bóc lột xây
dựng xã hội mới.
Sức mạnh để chiến thắng giai cấp t sản và mọi kẻ thù khác, không phải
chỉ là ở số lợng và ở tinh thần chiến đấu của giai cấp công nhân mà chủ yếu là
ở trình độ tổ chức và giác ngộ chính trị của nó. Điều đó đợc thể hiện tập trung
ở chính Đảng- một tổ chức bao gồm những ngời u tú nhất, giác ngộ chính trị
xã hội cao, có tinh thần đấu tranh kiên quyết nhất của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Vì vậy Đảng cộng sản luôn là đội tiên phong chính trị của
giai cấp công nhân và của toàn xã hội.Đảng có nhiệm vụ sáng tạo chủ nghĩa
Mác Lênin, phân tích đúng đắn hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong mỗi giai
đoạn cách mạng, đề ra mục tiêu, phơng hớng, đờng lối, chính sách đúng, phù
hợp với yêu phát triển khách quan của đất nớc. Đồng thời Đảng giáo dục, tổ
chức, lãnh đạo giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân thực hiện công cuộc
xoá bỏ chế độ xã hội cũ, xây dựng thành công chế độ xã hội mới xã hội chủ
nghĩa tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
16
Cách mạng xã hội chủ nghĩa với
việc hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân
Trong quá trình giai cấp công nhân muốn hoàn thành sứ mệnh lịch sử của
mình, phải thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Từ cách mạng xã hội sang cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách
mạng nhằm thay thế chế độ t bản chủ nghĩa đã lỗi thời bằng chế độ xã hội chủ
nghĩa khi điều kiện vật chất và tinh thần cho sự thay đổi đó đã ở mức độ nhất
định, khi đã hoàn thành tình thế cách mạng.Bản chất của cách mạng xã hội
chủ nghĩa là cuộc cách mạng tiến hành tất cả cuộc cách mạng xã hội, mang
tính chất toàn diện, triệt để, lâu dài. Thể hiện: xoá bỏ tận gốc chế độ ngời bóc
lột ngời, xoá bỏ phân chia giai cấp áp bức giai cấp và bóc lột giai cấp; vì đợc
tiến hành trên tất cả các lĩnh vực xã hội từ cơ sở hạ tầng tới kiến trúc thợng
tầng, từ sinh hoạt vật chất đế sinh hoạt tinh thần, nên đây là cuộc cách mạng
lôi cuốn đợc đông đảo quần chúng nhân dân, đem lại quyền lợi cho số đông
nhân dân lao động, nh Lênin đã từng nói: cách mạng xã hội chủ nghĩa là
ngày hội quần chúng; đây là cuộc cách mạng mang tính chất lâu dài, gian
khổ và phức tạp vì nó mới và cha có trong lịch sử, do đó phải vừa làm, vừa rút
kinh nghiệm, vừa bổ xung
C.Mác và Ph.Ăngghen coi cách mạng xã hội chủ nghĩa là một quá trình
liên tục và nhấn mạnh quá trình liên tục, nhng đợc chia làm hai giai đoạn:
giành chính quyền và chuyển lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hai ông đã đặt
hy vọng nhiều vào điều kiện nổ ra của cách mạng xã hội chủ nghĩa: nổ ra ở
những nớc t bản phát triển và thắng lợi đồng loạt ở các nớc t bản phát triển.
Với những nớc chậm phát triển theo C.Mác và Ph.Ăngghen khi nghiên cứu về
vấn đề này coi đó là một bộ phận của cách mạng vô sản. Nếu cách mạng xã
hội nổ ra ở những nớc này thì giai cấp công nhân cần làm : phải biết kết hợp
giữa phong trào công nhân với phong trào nông dân, đồng thời kết hợp với lực
lợng t sản để chống phong kiến (tức là lật đổ hình thái kinh tế xã hội cũ và
thay thế vào đó là hình thái kinh tế xã hội mới cao hơn) bằng đấu tranh giai
cấp hay cách mạng xã hội chủ nghĩa; trong khi kết hợp t sản đánh phong kiến,
giai cấp công nhân phải ủng hộ mọi phong trào dân chủ, đồng thời độc lập về
mặt đờng lối, phải hớng tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa; giai cấp công nhân
phải lôi kéo đợc lực lợng và phát triển lực lợng; trong khi đi với giai cấp t sản
đánh chế độ phong kiến, giai cấp công nhân phải độc lập đờng lối, chỉ có thể
liên minh tạm thời với giai cấp phong kiến.
17
Còn với Lênin, ông đã phân tích điều kiện cụ thể nớc Nga và đa ra
quan điểm phát triển t tởng C.Mác và Ph.Ăngghen. Những quan điểm đó là:
Thứ nhất:cách mạng dân chủ t sản phải do giai cấp công nhân lãnh đạo
do giai cấp công nhân vì yếu tố thời đại chi phối nh giai cấp t sản đã mất vai
trò lãnh đạo, chủ nghĩa t bản đã chuyển sang chủ nghĩa đế quốc làm kìm hãm
sự phát triển của lịch sử ; mặt khác, giai cấp công nhân đã trởng thành, là
điểm hoàn toàn mới so với C.Mác và Ph.Ăngghen.
Thứ hai: lực lợng cách mạng gồm các giai cấp ,tầng lớp khác trong xã
giai cấp tiên tiến nhất vì mục tiêu của họ gắn liền với việc thủ tiêu một cách
triệt để chế độ phong kiến. Giai cấp vừa và nhỏ có tinh thần dân chủ, là lực l-
ợng lừng khừng cấu kết phong kiến chống cách mạng, hạn chế tiêu cực, phát
triển tích cực.
Thứ ba: cách mạng dân chủ t sản phải đợc tiến hành cụ thể rồi tiến ngay
vào cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai cuộc cách mạng có mối liên hệ biện
chứng, không có bức tờng thành nào ngăn cách.
Có thể nói cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng sâu sắc và
toàn diện trên mọi lĩnh vực.
Trên lĩnh vực chính trị: cách mạng xã hội chủ nghĩa làm Đảng cộng sản
lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động đập tan chính quyền cũ để thành lập
chính quyền của dân, do dân và vì dân, da nhân dân lên vị trí làm chủ. Sau khi
có chính quyền, chính quyền nhà nớc vô sản cần tập trung xây dựng đời sống
chính trị, khẳng định và mở rộng quyền lực nhân dân, khắc phục hạn chế về
dân chủ, nâng cao ý thức dân chủ cho nhân dân.
Trên lĩnh vực kinh tế: cách mạng xã hội chủ nghĩa xoá bỏ chế độ công
hữu t nhân t liệu sản xuất cao nhất là sở hữu t bản chủ nghĩa, nhằm mục tiêu
đa ngời lao động làm chủ trong quá trình sản xuất; xoá bỏ hình thức sở hữu t
bản chủ nghĩa, thành lập công hữu t liệu sản xuấtđa ngời lao động lên vị trí
làm chủ; tạo điều kiện để kết hợp giữa t liệu sản xuất và ngời lao động; cải
thiện điều kiện làm việc của ngời lao động và điều kiện sinh hoạt vật chất của
họ; tập trung phát triển lực lợng sản xuất, tăng nhanh năng xuất lao động.
Trên lĩnh vực văn hóa: tạo sự chuyển biến trong phơng thức và nội dung
sinh hoạt t tởng để ảnh hởng tới sự phát triển; kế thừa, nâng cao, phát triển giá
trị truyền thống văn hoá dân tộc; tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; xây dựng
nền văn hoá mới theo lập trờng của giai cấp công nhân là giải phóng con ngời
về mặt tinh thần.
18
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là đấu tranh xoá bỏ xã hội t
bản và từng bớc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa công sản
trên phạm vi toàn thế giới. Quá trình đó chỉ đợc thực hiện thông qua cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa và cách mạng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử
vì: nguyên nhân sâu xa dẫn đến cách mạng xã hội chủ nghĩa là mâu thuẫn vốn
có trong lòng xã hội t bản, đó là mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực lợng sản
xuất đến trình độ xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm
hữu t nhân t liệu sản xuất, mà quan hệ sản xuất này đã trở nên lỗi thời, kìm
hãm sự phát triển của lực lợng sản xuất. Biểu hiện về mặt chính trị xã hội của
mâu thuẫn cơ bản đó là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp t sản-
đây là mâu thuẫn đối kháng và không thể điều hòa, mâu thuẫn này trực tiếp
dẫn đế cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Khi chủ nghĩa t bản bớc sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc thì một
mặt những mâu thuẫn trên phát triển càng gay gắt, đồng thời xuất hiện thêm
những mâu thuẫn mới đó là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với các nớc
thuộc địa, phụ thuộc, giữa đế quốc với đế quốc. Tất cả những mâu thuẫn đó
càng đẩy nhanh tới sự chín muồi của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Lênin đã
chỉ rõ: chủ nghĩâ đế quốc là đêm trớc, là phòng chờ của cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Tuy nhiên cách mạng xã hội chủ nghĩa không phải diễn ra một
cách tự phát, mà nó là kết quả của quá trình đấu tranh giai cấp lâu dài, gian
khổ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống lại sự thống trị của
giai cấp t sản. Cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ diễn ra ở những nơi có tình thế
cách mạng. Tình thế cách mạng là biểu hiện của sự chín muồi của những điều
kiện khách quan. Có tình thế cách mạng vẫn cha đủ mà cần phải có những
nhân tố chủ quan, bao gồm sự lãnh đạo của Đảng tiên phong và tinh thần,
hành động cách mạng của quần chúng. Nh vậy, đỉnh điểm của sự chín muồi
của những nhân tố khách quan và chủ quan sẽ đa đến thời cơ cách mạng. Giai
cáp công nhân thông qua Đảng tiên phong của mình chọn đúng thời cơ phát
động quần chúng đứng lên dùng bao lực cách mạng để lật đổ ách thống trị của
giai cấp t sản và các thế lực phản động giành lấy chính quyền nhà nớc, thiết
lập chuyên chính vô sản, mở đờng cho công cuộc cải tạo xã hội cũ và xây
dựng xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Do đó cách mạng xã hội chủ nghĩa là cả một quá trình bao gồm việc
lật đổ chính quyền nhà nớc của giai cấp t sản, thiết lập chuyên chính vô sản và
dùng chuyên chính vô sản để cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới trên tất
19
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là quy luật phổ biến của quá trình thực
hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Nh vậy, giai cấp công nhân sau khi tiến hành thành công cách mạng
xã hội chủ nghĩa tức là sẽ hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Chính vì vậy
mà cách mạng xã hội chủ nghĩa chính là nội dung hành động quan trọng nhất
trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Chỉ khi cách mạng xã hội
chủ nghĩa thành công thì giai cấp công nhân mới hoàn thành sứ mệnh lịch sử
của mình
V. Những biện pháp để củng cố, tăng cờng sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân
Với một Đảng cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
chính là sự lãnh đạo của giai cấp. Đảng với giai cấp là thống nhất, nhng Đảng
có trình độ lý luận và tổ chức cao nhất để lãnh đạo cả giai cấp và dân tộc.
Đảng đem lại giác ngộ cho toàn giai cấp, sức mạnh đoàn kết, nghị lực cách
mạng, trí tuệ và hành động cách mạng của toàn bộ giai cấp, trên cơ sở lôi cuốn
tất cả các tầng lớp nhân dân lao động khác và cả dân tộc đứng lên hành động
theo đờng lối của Đảng nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Vì vậy,
để tăng cờng và củng cố sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thì chính giai cấp
công nhân phải thành lập ra chính Đảng của mình. Trong đó, giai cấp công
nhân và chính từng cá nhân mỗi công nhân cần phải thờng xuyên vơn lên, tr-
ởng thành về các mặt: t tởng, chính trị, lập trờng giai cấp, văn hoá, khoa học
kỹ thuật, tay nghềMặt khác, giai cấp công nhân cần phải liên minh với các
giai cấp, tầng lớp khác trong việc xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng và
xã hội văn minh. Ngày nay, trong tiến trình phát triển của lịch sử thế giới ngày
càng có nhiều biến động. Vì vậy giai cấp công nhân cần không ngừng giác
ngộ lý luận cách mạng, nâng cao cảnh giác trong mọi tình huống; đồng thời
cần tổ chức các công tác đối nội và đối ngoại một cách hợp lý, vừa mở rộng
quan hệ quốc tế, vừa giao lu với các tinh hoa văn hoá nhân loại phục vụ xây
dựng xã hội mới. Giai cấp công nhân cũng phải có sự đoàn kết nhất trí cao
trong quá trình lãnh đạo của mình, tạo sự thống nhất giữa các giai cấp trong xã
hội. Bên cạnh đó, giai cấp công nhân cũng cần phải khắc phục mọi khó khăn
trong mọi tình hình, không ngừng nâng cao năng lực cả về chuyên môn lẫn
văn hoá xã hội.
20
Chơng II. Luận cứ thực tiễn
Để minh chứng cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, ta sẽ xét trên
tình hình thực tế của nớc ta.
Gia cấp công nhân Việt Nam là một trong những bộ phận của giai cấp
công nhân quốc tế, nhng do điều kiện ra đời và hoàn cảnh lịch sử nớc ta nên
nó còn mang những đặc điểm riêng. Đó là:
Thứ nhất: giai cấp công nhân Việt Nam còn non trẻ, ra đời từ những năm
đầu của thế kỷ XX ở một nớc nửa thuộc địa phong kiến. Đó là giai cấp thuần
nhất về t tởng, sớm tập trung về lực lợng, không có tầng lớp công nhân quý
tộc, sớm tổ chức đợc chính Đảng của mình. Giai cấp công nhân Việt Nam đợc
kế thừa truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc, hơn nữa nó lại bị ba tầng
áp bức nặng nề nên có tinh thần cách mạng.
Thứ hai: giai cấp công nhân Việt Nam có mối liên hệ khăng khít, thờng
xuyên, chặt chẽ với giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức.
Thứ ba: giai cấp công nhân Việt Nam sớm tiếp thu ánh sáng cách mạng
tháng Mời Nga của chủ nghĩa Mác- Lênin, không bị chi phối bởi chủ nghĩa cơ
hội, sớm gắn bó với phong trào công nhân Quốc tế.
Những đặc điểm trên đây của giai cấp công nhân Việt Nam đã có ảnh h-
ởng to lớn tới việc thực hiện sứ mệnh lịch sử to lớn của nó. Bởi vì:
Do đặc điểm tập trung, sớm thống nhất cả về t tởng, tổ chức, sớm tổ chức
đợc chính Đảng của mình, sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lênin nên nó đã
nhanh chóng trở thành lực lợng chính trị tiên phong của dân tộc, đã xây dựng
đợc cơng lĩnh chính trị và đờng lối cách mạng đúng đắn ngay từ buổi đầu, vì
vậy luôn giữ vững vai trò độc quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Do có quan hệ mật thiết và gắn bó với giai cấp công nhân và tầng lớp trí
thức nên giai cấp công nhân Việt Nam sớm tập hợp, đoàn kết và không ngừng
phát huy sức mạnh của cả dân tộc trên nền tảng liên minh Công- Nông- Trí
thức.
Do gắn bó với phong trào công nhân quốc tế và sớm tiếp thu t tởng Mác-
lênin nên giai cấp công nhân Việt Nam đã sớm kết hợp và giải quyết đúng đắn
vấn đề dân tộc và giai cấp, kết hợp đợc sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời
đại.
Do không bị ảnh hởng của chủ nghĩa cơ hội Quốc tế III nên giai cấp công
nhân Việt Nam luôn giữ vững đợc tinh thần thống nhất về t tởng, đoàn kết về
21
tổ chức, vững vàng về chính trị, kiên cờng và triệt để trong phong trào đấu
tranh cách mạng.
Chính vì những lẽ trên nên giai cấp công nhân Việt Nam thông qua chính
Đảng của mình đã lãnh đạo nhân dân ta hoàn thành triệt để cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân, đa cả nớc từng bớc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính quá
trình thực hiện sứ mệnh lịch sử đó đối với dân tộc cũng là sự đóng góp vào
phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân toàn thế giới.
Tuy nhiên do sinh ra và trởng thành ở nớc nông nghiệp lạc hậu. Bị áp bức
bóc lột nặng nề nên giai cấp công nhân Việt Nam còn có những hạn chế nh:
trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghề nghiệp cha cao, tác
phong, tập quán, thói quen, tâm lý còn ảnh hởng nặng nề của ngời sản xuất
nhỏ. Hiện nay theo thống kê, số lợng công nhân nớc ta có 10,2 triệu trên tổng
số 80 triệu dân, trong đó có 1,8 triệu công nhân trong doanh nghiệp nhà nớc.
Còn trình độ học vấn có: 62% có trình độ trung học phổ thông; 28% có trình
độ phổ thông cơ sở; 5% có trình độ tiểu học và 0,32% không biết chữ. Chính
những hạn chế đó cũng ảnh hởng không nhỏ đến sự nghiệp cách mạng của
giai cấp công nhân. Ngày nay giai cấp công nhân Việt Nam đang lãnh đạo
nhân dân ta tiến lên sự nghiệp đổi mới đất nớc, công nghiệp hoá và hiện đại
hóa đất nớc và thực hiện mục tiêu dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, văn
minh. Điều đó đòi hỏi giai cấp công nhân Việt Nam cần khắc phục nhanh
chóng những hạn chế của mình, phát triển giai cấp công nhân cả về số lợng,
chất lợng, không ngừng nâng cao trình độ t duy, trình độ tổ chức hoạt động
thực tiễn chỉ có nh vậy mới đáp ứng đợc đòi hỏi của thực tiễn, mới hoàn
thành đợc sứ mệnh đối với dân tộc.
Với những đặc điểm nh trên nên sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân Việt Nam cũng có những nội dung khác so với sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân trên thế giới nói chung. Sứ mệnh lịch sử đó đợc thể hiện trong
từng giai đoạn khác nhau của lịch sử.
Trong giai đoạn trớc khi giành độc lập cả nớc, giai cấp công nhân cùng
với toàn dân tộc đứng lên làm cuộc cách mạng dân chủ nhân dân, thông qua
đội ngũ tiên phong của mình để giành chính quyền, thiết lập chính quyền nhân
dân. Trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân Việt
Nam từng bớc lãnh đạo quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, từng bớc tiến
hành xoá bỏ chế độ ngời bóc lột ngời, giải phóng quần chúng nhân dân lao
động khỏi tình trạng áp bức bất công, xây dựng cơ sở vật chất ban đầu của chủ
nghĩa xã hội, phát triển y tế, văn hoá giáo dục
22
Trong giai đoạn hiện nay, trong công cuộc xây dựng đất nớc quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, đội ngũ công nhân Việt Nam bao gồm những ngời lao động
chân tay và lao động trí óc hoạt động sản xuất trong các ngành công nghiệp và
dịch vụ công nghiệp thuộc các doanh nghiệp Nhà nớc, hợp tác xã hay thuộc
khu vực t nhân, hợp tác liên doanh với nớc ngoài. Họ hình thành một giai cấp
công nhân thống nhất đại diện cho phơng thức sản xuất tiên tiến, thông qua
Đảng cộng sản Việt Nam đợc vũ trang bằng chủ nghĩa Mác Lênin và t tởng
Hồ Chí Minh đang lãnh đạo công cuộc đổi mới và phát triển đất nớc. Chính vì
thế, để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân Việt Nam phải
đợc phát triển về số lợng và chất lợng, vơn lên khắc phục những hạn chế, từng
bớc đáp ứng những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nớc. Đại biểu đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam đặc biệt
chú trọng phơng hớng xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nớc theo định hớng xã hội chủ
nghĩa. Đại hội chỉ rõ: Đối với giai cấp công nhân, coi trọng phát triển về số l-
ợng và chất lợng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và
nghề nghiệp, thực hiện tri thức hoá công nhân, nâng cao năng lực ứng dụng
và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lợng và hiệu quả ngày
càng cao, xứng đáng là một lực lợng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hóa đất nớc và vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới
23
C.Kết luận
Tóm lại, từ các phân tích trên về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân cả về lý luận lẫn thực tiễn cho ta thấy một điều không thể phủ nhận rằng:
giai cấp công nhân là một giai cấp tiên tiến, có vai trò to lớn trong lịch sử phát
triển của thế giới, là một lực lợng xã hội tiên phong trong công cuộc cải tạo
khoa học công nghệ vào sản xuất của xã hội. Hiểu đợc rõ về giai cấp công
nhân, đặc biệt là hiểu đợc sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một vấn
đề hết sức quan trọng trong nhận thức của mỗi chúng ta, giúp ta có những
nhận thức đúng đắn đối với các giai cấp trong xã hội nói chung và giai cấp
công nhân nói riêng. Qua đó, mỗi cá nhân trong xã hội cần không ngừng nâng
cao ý thức trách nhiệm về giai cấp, về nhận thức xã hội để nâng cao tri thức
văn hóa của mình.
Mặt khác, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một nội dung quan
trọng đối với giai cấp công nhân nên nó rất cần đợc xã hội và nhất là Đảng
cộng sản chú trọng, tạo điều kiện hoàn thành một cách tốt nhất.
24
Mục lục
Chơng I : Luận cứ lý luận 3
I. Khái niệm giai cấp công nhân 3
Chính C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: Vấn đề là ở chỗ tìm hiểu xem giai
cấp vô sản thực ra là gì và phù hợp với tồn tại ấy của bản thân nó, giai
cấp vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử . Để chỉ giai cấp công nhân,
các nhà kinh điển dùng nhiều khái niệm nh: giai cấp vô sản, giai cấp xã
hội, giai cấp công nhân hoàn toàn chỉ dựa vào việc bán sức lao động
của mình và lao động làm thuê ở thế kỷ XIX, giai cấp vô sản hiện đại,
giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp nh
những cụm từ đồng nghĩa để biểu thị một khái niệm 3
II. Nội dung và điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân 7
Chơng II. Luận cứ thực tiễn 21
C.Kết luận 24
25