Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH CÂU TIẾNG VIỆT THEO CÂU TRÚC THÔNG TIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.77 KB, 40 trang )

MỤC LỤC
PHẦN 1:MỞ ĐẦU............................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề............................................................................1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................3
3.1. Đối tượng nghiên cứu.............................................................................3
3.2. Phạm vi nghiên cứu................................................................................3
4. Mục đích nghiên cứu.....................................................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................3
5.1. Phương pháp miêu tả, phân tích.............................................................3
5.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu.............................................................3
6. Giả thuyết khoa học.......................................................................................3
7. Bố cục............................................................................................................4
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN...............5
1.1. Cấu trúc thông tin.......................................................................................5
1.1.1.Một số quan niệm về cấu trúc thông tin...............................................5
1.1.1.1. Mô hình tâm lý.................................................................................5
1.1.1.2. Mô hình giao tiếp..............................................................................6
1.1.1.3.Hai lý thuyết tiêu biểu về cấu trúc thông tin......................................6
1.2. Khái niệm cấu trúc thông tin......................................................................9
1.3. Khái niệm, đặc điểm thông tin cũ, thông tin mới.......................................9
1.3.1.Thông tin cũ..........................................................................................9
1.3.2.Thông tin mới.......................................................................................9
1.4. Tiêu điểm thông tin..................................................................................10
1.4.1. Khái niệm..........................................................................................10
1.4.2. Các loại tiêu điểm thông tin...............................................................10
1.4.2.1. Tiêu điểm thông tin mới (TĐTTM)............................................10
1.4.2.2. Tiêu điểm tương phản (TĐTP)....................................................11


1.4.3. Dấu hiệu nhận biết tiêu điểm tin........................................................14


1.4.3.1. Dựa vào hình thức trình bày của ngôn ngữ.................................14
1.4.3.2. Dựa vào ngôn điệu......................................................................14
1.4.3.3. Dựa vào từ vựng.........................................................................15
1.4.3.4. Dựa vào hình thức câu................................................................17
2.1. Mối quan hệ giữa phương pháp phân tích câu theo cấu trúc thông tin với
1 số phương pháp khác....................................................................................17
2.1.1. Mối quan hệ giữa cấu trúc thông tin với cấu trúc chủ-vị...................19
2.2.2. Mối quan hệ CTTT với cấu trúc đề- thuyết (đề ngữ- đề thuyết).......20
2.2.2.1. Phần đề trùng với phần “cho sẵn”, phần thuyết trùng với phần
“mới”20
2.2.2.2. Phần đề trùng với phần “mới”, phần thuyết trùng với phần “cho
sẵn”..........................................................................................................20
CHƯƠNG 2: MIÊU TẢ, PHÂN TÍCH CÂU THEO CẤU TRÚC THÔNG
TIN..................................................................................................................22
(KHẢO SÁT TRÊN CÂU ĐƠN)....................................................................24
1.1..Cấu trúc thông tin theo vị trí của tiêu điểm..............................................22
1.1.1.Cấu trúc thông tin lời thoại lưỡng phân cơ sở - tiêu điểm..................25
1.1.2.Cấu trúc thông tin lời thoại xen kẽ cơ sở - tiêu điểm.........................27
1.1.3. Cấu trúc thông tin lời thoại chỉ có tiêu điểm.....................................28
2.1. Cấu trúc thông tin theo chức năng của tiêu điểm.....................................29
2.1.1. Cấu trúc thông tin có tiêu điểm hỏi...................................................29
2.1.2. Cấu trúc thông tin có tiêu điểm khẳng định.......................................28
2.1.3. Cấu trúc thông tin có tiêu điểm tương phản......................................29
3.1. Cấu trúc thông tin theo hình thức của tiêu điểm......................................30
3.1.1. Cấu trúc thông tin có tiêu điểm vị từ.................................................30
3.1.2. Cấu trúc thông tin có tiêu điểm tham tố............................................31
3.1.3. Cấu trúc thông tin có tiêu điểm câu...................................................31


KÍ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CTTT

: Cấu trúc thông tin

CTTP

: Cấu trúc tương phản

CTTTM

: Cấu trúc thông tin mới

TĐM

: Tiêu điểm mới

CT Đ -T

: Cấu trúc đề - thuyết


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CÂU THEO CÂU TRÚC THÔNG TIN
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
“Cấu trúc thông tin là chỉ sự phân đoạn cấu trúc của câu theo thông tin. Đó
là sự khác biệt về vị thế thông tin trong cấu trúc câu thể hiện ở hai phương
diện là thông tin cơ sở (thông tin tiền giả định) và tiêu điểm thông tin
(TĐTT)”.

[1,tr.3]


Điều tạo nên sự khác biệt giữa cấu trúc thông tin này với cấu

trúc thông tin khác là tiêu điểm thông tin. Hay nói cách khác, khi phân tích
một cấu trúc thông tin nghĩa là chỉ ra bộ phận nào đóng vai trò là tiêu điểm
trong cấu trúc câu đó.
Trong thời gian qua, vấn đề cấu trúc thông tin được nhiều nhà ngôn ngữ
trên thế giới và cả Việt Nam chú ý nghiên cứu, tiếp cận trên nhiều lĩnh vực
như ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng…
Ở Việt Nam, lí thuyết cấu trúc thông tin là một vấn đề còn khá mới mẻ. Bởi
cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào chuyên biệt, ngoại trừ
một vài khảo cứu đề cập ở mức độ sơ lược. Hơn nữa, các quan điểm lại không
thống nhất nên chưa đem đến một tiếng nói chung. Vì thế, việc nghiên cứu
cấu trúc thông tin một cách hoàn chỉnh sẽ góp phần bổ khuyết vào bức tranh
CTTT và hứa hẹn sẽ mang lại nhiều điều lí thú, mới mẻ cho những ai yêu
thích lĩnh vực này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề cấu trúc thông tin thực chất đã được nghiên cứu từ rất sớm, vào
những năm 20. Đầu tiên phải kể đến trường phái ngôn ngữ Prague (19261953) mà đại diện là Vilem Mathesius, R.Jacobson, N.Trubetskoy và các nhà
ngôn ngữ nổi tiếng khác, là một nhánh của dòng nghiên cứu về ngữ pháp chức
năng. Với trường phái Prague công trình của họ thường gặp với tên gọi là lý
thuyết phân đoạn thực tại câu. Theo họ, cấu trúc câu chia làm hai phần là đề
1


(theme, topic) và thuyết (rheme, comment), trong đó đề là bộ phận biểu thị
“cái đã biết” hay “thông tin cũ” còn thuyết biểu thị “cái chưa biết” hay “thông
tin mới”. Từ cơ sở này, mà lý thuyết đoạn thực tại câu đã được các nhà nghiên
cứu triển khai theo nhiều hướng khác nhau.
Tiếp theo, phải kể đến Halliday - người có công lớn trong việc đưa ra thuật

ngữ đơn vị thông tin (information unit) và chỉ ra mức độ độc lập riêng cho cấu
trúc thông tin. Halliday cho rằng, cấu trúc thông tin có hai mặt: một là sự
phân chia đơn vị thông tin trong một diễn ngôn và hai là cấu trúc bên trong
của mỗi đơn vị thông tin. Ông gọi mặt đầu tiên là cấu trúc đề (Thematic
structure) và mặt thứ hai là cái được đưa ra (Giveness). Theo Halliday, đề
luôn đứng trước thuyết, vì thế chúng có liên quan mật thiết đến trật tự từ.
Wallace L.Chafe (1976) đã mở rộng quan niệm của Halliday về thông tin
“mới” và thông tin “có sẵn” sang mô hình tâm lí về ý thức người nói và người
nghe.
Việc vận dụng lý thuyết cấu trúc thông tin trong nghiên cứu ngôn ngữ cũng
được giới Việt ngữ xem xét ở nhiều bình diện:
Trần Ngọc Thêm cho rằng, xét theo sự phân đoạn thông báo, câu tiếng Việt
chia làm 2 phần rõ rệt: phần nêu (cái mà người đọc đã biết hoặc nêu giả định
đã biết), phần báo (cái mới, thông báo về phần nêu).
Theo Diệp Quang Ban, “Trong cấu trúc phân đoạn thực tại của câu, phần
đề luôn đứng trước phần thuyết và trong câu đơn hai thành phần với trật tự
chủ ngữ - vị ngữ, chủ ngữ sẽ là phần đề, vị ngữ là phần thuyết”. [3,tr.6]
Hướng nghiên cứu của Cao Xuân Hạo, Lưu Vân Lăng lại có sự phân biệt rõ
ràng giữa cấu trúc thông báo và cấu trúc đề thuyết, Cao Xuân Hạo quan niệm
cấu trúc đề thuyết với tư cách là cấu trúc cú pháp của câu “luôn chia hết cả
câu”, một phần bất kỳ hoặc hai phần cách nhau trong câu.
Vận dụng lý thuyết cấu trúc thông tin vào việc phân loại câu đơn tiếng Việt,
Nguyễn Hồng Côn đã có nhiều bài nghiên cứu như: “Các kiểu cấu trúc thông
2


tin của câu đơn tiếng Việt”, “Cấu trúc thông tin và biến thể cú pháp trong câu
tiếng Việt”.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã cho ta cái nhìn cận cảnh về
việc vận dụng lý thuyết thông tin trong ngôn ngữ. Tuy nhiên, mỗi tác giả lại

nghiên cứu trên một bình diện khác nhau, vì thế chưa đi đến một khái niệm,
quan điểm, tiếng nói chung. Khiến người đọc khó định hướng khi tiếp cận cấu
trúc thông tin.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài chúng tôi là phương pháp phân tích cấu
trúc thông tin trong câu đơn tiếng Việt.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chúng tôi là câu đơn tiếng Việt.
4. Mục đích nghiên cứu
Bài nghiên cứu của nhóm chúng tôi nhằm mục đích xác định các phương
pháp phân tích cấu trúc thông tin. So sánh, đối chiếu cấu trúc thông tin trong
câu tiếng Anh và tiếng Việt.
5.Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp miêu tả, phân tích.
Đây được xem là phương pháp chính của nhóm chúng tôi trong quá trình
nghiên cứu.
6. Giả thuyết khoa học
Trong một chừng mực nhất định, chúng tôi đưa ra một vài phát hiện về mặt
lý thuyết để bổ khuyết vào bức tranh cấu trúc ngôn ngữ được hoàn chỉnh.
Nếu thành công, đề tài sẽ là một tài liệu hữu ích trong thực tế giảng dạy và
học tiếng Việt, cho những người làm công tác báo chí, dịch thuật.
3


7. Bố cục
Ngoài phần Mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo. Đề tài nghiên cứu của
chúng tôi gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và một số vấn đề liên quan
Chương 2: Miêu tả, phân tích câu theo câu trúc thông tin (khảo sát trên câu

đơn)

4


PHẦN 2: NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
1.1 Cấu trúc thông tin
1.1.1 Một số quan niệm về cấu trúc thông tin
CTTT (information structure) xuất hiện là một lý thuyết miêu tả câu theo
bình diện ngữ dụng học bên cạnh những lý thuyết theo bình diện kết học, ngữ
nghĩa học như kết cấu chủ ngữ - vị ngữ, cấu trúc đề - thuyết, cấu trúc vị từ
tham thể, cấu trúc nghĩa của câu (nghĩa biểu niệm, nghĩa liên tưởng,…).
Trong chiều dài lịch sử nghiên cứu, CTTT được biết đến với nhiều tên
gọi, phân đoạn thực tại câu (actual divison of the sentence), phối cảnh chức
năng câu (functional sentence perspective), đóng gói thông tin (information
packaging), tổ chức theo ngữ cảnh (contextual organization) …) và được mô
tả qua nhiều thuật ngữ khác nhau như: đề (theme) – thuyết (rheme), chủ đề
(toppic) – chú giải (comment), tiêu điểm (focus) – nền (background), cho sẵn
(given) – mới (new)…Dưới đây là một số mô hình nghiên cứu cấu trúc thông
tin.
1.1.1.1 Mô hình tâm lý
Mô hình tâm lý của Von der Gabelentz và Paul Herman nghiên cứu vấn
đề CTTT theo mối quan hệ giữa trình tự ý nghĩ, một hoặc một nhóm khái
niệm kết nối trong trí óc con người với trình tự các biểu ngữ trong câu.
Gabelentz xác lập quan niệm phải phân biệt câu theo hai mức độ kết cấu khác
nhau là mức độ ngữ pháp (grammar) và mức độ tâm lý (psychology), từ đó
đưa ra 2 thuật ngữ mới là chủ ngữ tâm lý và vị ngữ tâm lý. Chủ ngữ tâm lý
được hiểu là cái mà người nghe nên nghĩ, vị ngữ tâm lý là cái điều mà người
5



nghe nên nghĩ về. Đến Herman, ông chú trọng phân biệt chủ ngữ tâm lý, vị
ngữ tâm lý với chủ ngữ, vị ngữ theo kết cấu ngữ pháp vì ông cho rằng chúng
không phải lúc nào cũng đồng nhất với nhau. Mô hình tâm lý này là lý thuyết
nền tảng để phát triển nghiên cứu cấu trúc động vốn có của câu.
1.1.1.2 Mô hình giao tiếp
Mô hình giao tiếp dựa trên chức năng giao tiếp của ngôn ngữ để xác lập
câu không chỉ được hình thành dựa trên cấu trúc cú pháp mà còn dựa trên
nhiều yếu tố khác nữa. Amman cho rằng, câu mang thông điệp, thông điệp có
tính hai mặt, được chuyển tải thông qua “đề” và “thuyết”. Tuy sớm nhận thức
được việc có nhiều yếu tố khác nhưng chưa thể gọi tên được theo chuyên
ngành ngôn ngữ học, mà đẩy nó về phạm trù của ngành tâm lý và thông tin.
Đây cũng là một trong những nỗ lực nghiên cứu và tiền đề để nghiên cứu câu
theo nhiều bình diện ngoài bình diện cú pháp có phần đông cứng.
1.1.1.3. Hai lý thuyết tiêu biểu về cấu trúc thông tin
1.1.1.3.1 Trường phái Prague:
Trường phái ngôn ngữ Prague (1926 – 1953) mà đại diện là Vilém
Mathesius, R.Jacobson, N.Trubetskoy và các nhà ngôn ngữ nổi tiếng khác, là
một nhánh của dòng nghiên cứu về Ngữ pháp chức năng (functional
structuralism). Họ chủ trương nghiên cứu câu ở cả trong hệ thống ngữ pháp
và trong quá trình giao tiếp, quan trọng là đặt được câu trong chính ngữ cảnh
mà nó xuất hiện.
Mathesius là người đầu tiên gọi tên vấn đề CTTT thành phân đoạn thực
tại của câu. Ông quay trở lại với việc nghiên cứu cách tổ chức thông tin trong
câu, phân biệt chủ ngữ ngữ pháp, vị ngữ ngữ pháp. Ông cho rằng “các yếu tố
cơ bản của phân đoạn thực tại là: điểm xuất phát/hay là cơ sở của câu nói
và hạt nhân của câu nói. Điểm xuất phát được hiểu là cái đã được biết trong
6



tình huống đó hoặc chí ít cũng có thể dễ dàng hiểu ra và người nói lấy nó làm
điểm xuất phát. Hạt nhân của câu là cái mà người nói thông báo về điểm xuất
phát của câu nói” [2, tr.26]
Trong những công trình nghiên cứu tiếp theo, ông đưa ra ý tưởng về
việc phân tích câu theo bình diện chức năng, câu cần được quan tâm “cái gì
đang được đề cập đến” (Đề) và “những điều gì được nói về nó” (Thuyết). Trật
tự tự nhiên của câu là đề - thuyết, trật tự tuyến tính thể hiện sự khách quan
trong câu nói. Đề là phần xuất phát với những thông tin đã được biết hoặc có
thể dễ dàng suy ra từ ngữ cảnh câu nói, thuyết là phần cốt lõi thông tin trong
câu với những thông tin mới chưa được đề cập trước đó hoặc chỉ dựa vào ngữ
cảnh thì chưa thể hiểu hết được.
Với lý thuyết của trường phái Prague về CTTT, chúng ta bước đầu hiểu
rõ thế nào là CTTT của câu, phân biệt cấu trúc ngữ pháp với cấu trúc thông
tin khi phân tích câu. Điểm duy nhất mà lý thuyết này còn cần phải tiếp tục
nghiên cứu là họ đang chủ quan đồng nhất cấu trúc thông tin với cấu trúc đề thuyết. Điều nay đã được Halliday khắc phục ở những nghiên cứu tiếp theo
của mình.
1.1.1.3.2 M. A. K. Halliday:
Halliday nghiên cứu CTTT câu theo hai mặt, mặt đề - thuyết (giống với
trường phái Prague), mặt thứ hai là cấu trúc bên trong của một đơn vị thông
tin, nơi mà các thành tố được đánh dấu dựa vào điểm neo diễn ngôn
(discourse anchoring) của chúng. Mặt đề - thuyết với việc phân định cái đã
biết và cái chưa biết (know/unknow), đề là thông tin mà sp1 mặc định sp2 đã
biết, thuyết là thông tin mà sp1 giả định sp2 chưa biết và cần biết.
Ở mặt thứ 2, Halliday mô tả câu dưới cấu trúc thông tin cho sẵn - thông
tin mới. Ông cho rằng phần thông tin cho sẵn là “thông tin được người nói thể
7


hiện như là có thể phục hồi được (…) nó đã được nói đến trước đó”; “nó có

thể là một cái gì đó không hoàn toàn ở quanh đó mà là một cái gì đó người
nói muốn thể hiện như là thông tin cũ để phục vụ cho mục đích tu từ; ý nghĩa
ở đây là: nó không phải là thông tin mới”. Và “thông tin được người nói thể
hiện như là không thể phục hồi được là thông tin mới (…) có thể là một cái gì
đó chưa được nói đến trước đó nhưng cũng có thể là một cái gì đó ngoài dự
kiến, cho dù trước đó có được nói đến hay không; ý nghĩa của nó là : quan
tâm đến thông tin này, nó là thông tin mới”

[3, tr.537]

. Halliday gọi trung tâm

mang tính thông tin của đơn vị thông tin là tiêu điểm thông tin (information
focus). Tiêu điểm thông tin chứa thông tin mới chưa có trong diễn ngôn. Phần
còn lại của của đơn vị thông tin là thông tin đã được đưa ra (given), chính là
thông tin đã có trong diễn ngôn, hoặc trong kiến thức chung của những đối
ngôn.
Ông phân định rõ ràng giữa cấu trúc đề - thuyết với cấu trúc cái cho sẵn cái mới. Câu trong CTTT luôn tồn tại song hành cả 2 cấu trúc nhưng chúng
chưa bao giờ là một. Hệ thống đề - thuyết, cấu tạo cú dưới dạng một thông
điệp, bao gồm : đề và thuyết. Hệ thống thông tin không thuộc cú mà thuộc
một đơn vị ngữ pháp khác biệt – đơn vị thông tin. Đơn vị thông tin là đơn vị
song song với cú và các đơn vị khác cùng cấp độ với cú (cụm, từ,hình vị) nên
nó đa dạng về mức độ như cú (có thể là lớn hơn một cú hoặc nhỏ hơn một cú).
Như vậy Halliday đã có công trong việc đưa ra thuật ngữ đơn vị thông
tin, người đầu tiên gọi tên các vấn đề CTTT là CTTT và luận giải một cách
thuyết phục về sự tồn tại độc lập của một đơn vị (đơn vị thông tin) và tương
ứng với nó là cấu trúc cho sẵn – mới. Đây là điều mà trước đó, các đại diện
của trường phái Prague chưa làm được.
Qua các mô hình, các lý thuyết tiêu biểu, chúng tôi đã có cái nhìn ban
đầu về CTTT, từ đó xác lập hướng đi cho bài tiểu luận của mình.

8


1.2 Khái niệm cấu trúc thông tin
Chúng tôi xin được theo quan niệm của Halliday, quan niệm CTTT (ở
cấp độ câu) là lý thuyết miêu tả thông tin câu theo cấu trúc cái cho sẵn – cái
mới trong một đơn vị thông tin. Cái cho sẵn và cái mới là hai thành phần
thông tin khi đặt câu trong diễn ngôn, quá trình giao tiếp của chính nó, với
cái cho sẵn là phần thông tin cũ, đã được đề cập đến trước đó trong ngữ cảnh
văn bản, người nghe có thể hình dung và phục hồi được thông tin đó, cái
mới là phần thông tin mới, với người nghe đây là phần thông tin quan trọng
trong câu mà không thể tự hình dung hay phục hồi nếu không được đề cập
đến trong câu nói. Phân tích câu theo CTTT là phân tích hai mặt thông tin
như trên để thấy mức độ linh động của câu nói và khám phá lớp thông tin
mang ý nghĩa thông điệp mà câu mang chứa trong quá trình giao tiếp.

1.3 Khái niệm, đặc điểm thông tin cũ, thông tin mới
1.3.1 Thông tin cũ
Khái niệm: Thông tin cũ, là cái cho sẵn, là tiền giả định, bao gồm cả cái
có mặt và vắng mặt trong ngôn bản/văn bản, là sự hiểu biết chung, là niềm
tin, sự qui ước hay ngầm hiểu giữa đôi bên, bên người phát tin và bên người
nhận tin. Trong diễn ngôn, thông tin cũ thường hay bị tỉnh lược.
Đặc điểm: Là thông tin xuất hiện ở thời điểm trước khi nói ra câu đó.
“Có khả năng "quy chỉ" (phoric) nhằm ám chỉ một cái gì đó đã hiện diện
trong ngôn cảnh hữu ngôn và phi ngôn. Nhờ vậy người nói và người nghe đã
biết hoặc dễ dàng liên tưởng, suy nghĩ từ những thông tin đã biết”.

[4, tr.534].

Không phải là phần trung tâm của thông tin. Ngoài ra nó không mang thông

9


tin, do đó không có giá trị thông tin. Thông tin cũ có thể là chung do môi
trường chung xung quanh mà trong đó người nói và người nghe có hoạt động
trao đổi qua lại. Nó thường được bố trí ở đầu câu, làm điểm xuất phát cho sự
trình bày và dễ dàng tạo liên kết với những câu trước, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc triển khai ý từ tin cũ đến tin mới. Bất kì thành phần nào có trọng âm
đứng sau bộ có thanh điệu cũng đều được báo hiệu là thông tin cũ.
1.3.2 Thông tin mới
Khái niệm: Thông tin mới bao gồm cái mới trong hiển ngôn và thông
tin hàm ẩn (cái biết được hay đoán định được đằng sau hiển ngôn). Trên hiển
ngôn, thông tin mới thường có trật tự tự nhiên là đứng sau thông tin cũ nhưng
cũng có khi đứng trước thông tin cũ khi: (i) trả lời cho các câu hỏi Ai? Cái gì?
vốn có chức năng là chủ ngữ trong câu; (ii) khi là yếu tố được nhấn mạnh hay
tương phản.
Đặc điểm: “Thông tin mới hoặc cái phần quan trọng nhất của thông tin
mới gọi là tiêu điểm của thông báo, có thể làm nổi bật lên bằng trọng âm,
cường điệu (sự nhấn mạnh của giọng nói hay sự trình bày các thông tin khác
thường: in nghiêng, in đậm, gạch dưới trong chữ viết...)”.

[5, tr.107]

“Bộ có thanh

điệu là điểm đinh của thông tin mới (bộ có thanh điệu: một đường nét âm
thanh (pitch contour) hay thanh điệu (tone), có thể là giáng xuống, thăng lên
hay giáng thăng pha trộn. Toàn bộ nét âm thanh được mở ra ở toàn bộ thanh
điệu, trong đó là sự chuyển động của các cấp độ âm thanh)”. Trong văn bản,
xét xử về ngữ pháp thì từ ở cuối câu thường thể hiện tin mới.


10


1.4 Tiêu điểm thông tin
1.4.1 Khái niệm
Bất kể một thông tin nào mới hay cũ đều mang tính tiêu điểm. Vậy tiêu
điểm thông tin là yếu tố được nêu bật lên bằng một hoặc một vài phương thức
ngôn từ ngữ nhất định, đối lập nó với những yếu tố có thể thay thế nó trên
trục đối vị trong biểu thức ngôn ngữ đang dùng, trong một ngữ cảnh giao tiếp
cụ thể. Có thể xác định tiêu điểm của câu thông qua con đường hỏi đáp hoặc
phân đoạn thực tại của câu dựa vào ngữ cảnh giao tiếp hay văn cảnh trong
diễn ngôn.
1.4.2 Các loại tiêu điểm thông tin
Các tác giả D. Brun (1972, 2000), P. Sgall (1986), E.Vallduvi (1992),
T.H.King (1995), M. Krifka (2007) v.v. đã phân biệt hai loại tiêu điểm: Tiêu
Điểm Thông tin Mới (TĐTTM) – New Information Focus (NIF) và Tiêu
Điểm Tương phản (TĐTP) – Contrastive Focus (CF). Các tác giả này đã chỉ
rõ rằng TĐTTM đặc trưng bởi trật tự phổ biến là cái mới đi theo sau cái cũ,
trong khi đó TĐTP chủ yếu được đánh dấu bằng ngữ điệu hoặc trọng âm câu,
và được phân bố trên bất kỳ thành tố nào của câu.
1.4.2.1 Tiêu điểm thông tin mới (TĐTTM)
TĐTTM có đặc điểm phân bố trên bề mặt của cấu trúc câu qua thành
hai phần cũ - mới rõ rệt.
Ví dụ: (1) “Chị An là thủ khoa của hai ngành học.”
Một cách tự nhiên, thông tin cũ ở phát ngôn này là “Chị An”, trùng với
phần đề và là chủ ngữ của câu, còn thông tin mới là toàn bộ phần còn lại của
câu, trùng với phần thuyết và là vị ngữ của câu. TĐTTM thường có vị trí cuối
câu.
11



Ví dụ: (2) - Hôm nay Lan đi đâu vậy?
- Hôm nay Lan đi công viên .
- Làm gì vậy?
- Đi dạo quanh quanh ấy mà.
TĐTTM thường được xác định qua hình thức hỏi đáp. Trong câu trả lời
có thể hiện diện cả phần thông tin mới lẫn thông tin cũ, tuy nhiên, thường thì
thông tin cũ hay bị tỉnh lược và do vậy trong câu trả lời chỉ còn lại toàn thông
tin mới.
Tuy nhiên, cũng có khi trật tự thông tin là mới - cũ khi TĐTTM là chủ
ngữ của câu, chẳng hạn nếu câu hỏi là : “Ai là thủ khoa của 2 ngành học?” .
TĐTTM sẽ là “Chị An”. Cũng đôi khi cái mới lại xen giữa hai bộ phận thông
tin cũ, ví như khi trả lời câu hỏi: “Chị An là thủ khoa của MẤY ngành học?”
thì TĐTTM sẽ là “Hai ngành học”.
Song cũng có khi cả câu đều nằm trong vùng TĐTTM nếu trả lời câu
hỏi: “Có chuyện gì vậy? Chuyện như thế nào? Làm sao thế”.
Có một điểm cần lưu ý là nhiều khi TĐTTM có thể đồng thời là TĐTP.
Chẳng hạn trong câu “Đó là siêu thị Big C”, thì “Big C” vừa là TĐTTM, trả
lời cho câu hỏi “siêu thị nào đây?”, cũng vừa là TĐTP, khi người nói có ý đối
lập nó với “siêu thị nhỏ”.
1.4.2.2 Tiêu điểm tương phản (TĐTP)
Những yếu tố được nhấn mạnh hay làm tương phản được gọi là tiêu
điểm tương phản (TĐTP). TĐTP có thể hiện diện cả trên phần thông tin mới
cũng như thông tin cũ. Các thông tin có tính chất nhấn mạnh, tương phản, xác
định thông tin đúng, sai, sửa thông tin, thông tin lựa chọn, cảm thán đều thuộc
loại TÐTP.
12



TĐTP mang tính chất cục bộ khi thực hiện trên một thành tố riêng lẻ bất
kỳ trong một câu nhằm nhấn mạnh hoặc tương phản với một yếu tố khác hiện
diện trong văn cảnh hay trong tình huống phát ngôn. Cũng có khi TĐTP được
thực hiện đồng thời trên những thành tố đối xứng của phần thông tin cũ và
thông tin mới trong cùng một câu, hoặc trên những vế câu khác nhau được đặt
ở thế tương phản.
1.4.2.2.1 TĐTP đơn lẻ
TĐTP đơn lẻ thực hiện trên một yếu tố bất kỳ của câu, tùy vào ý định
người nói, hoặc để nhấn mạnh một khía cạnh nào của sự tình như “váy”, “dễ
thương”, “chị”, “tặng”, “Hoa” ở ví dụ (1) dưới đây:
(1) a. Cái VÁY dễ thương đấy. / Cái váy DỄ THƯƠNG đấy.
b. CHỊ tặng váy cho Hoa. / Chị TẶNG váy cho Hoa. / Chị tặng váy
cho Hoa.
Hoặc tương phản yếu tố trong hiển ngôn với những yếu tố khác không
hiện diện trong hiển ngôn:
(2) Đó là siêu thị Big C.
(3) Ô! Bạn bữa nay trông XINH thế?!
Hay các yếu tố đồng loại cùng hiện diện trong câu, có thể thay thế nhau được:
(4) - Hôm nay ai trực nhật? HƯNG hay MY? – bạn HƯNG.
(5) - Hôm nay HƯNG trực nhật à? - Không, bạn MY.
Trong câu (2), “Big C” là yếu tố được đối lập với các yếu tố có thể xuất hiện
thay thế vị trí của nó như nhỏ, Coopmart, … trong siêu thị nhỏ, siêu thị Lotte,
…; trong câu (3) “bữa nay trông” lạ đối lập với bình thường “như mọi ngày”;

13


trong câu (4,5) Hưng đối lập với My - là yếu tố có trong hiển ngôn thay thế
nhau được.
1.4.2.2.2 TĐTP theo cặp nhóm (tương phản theo vế)

TĐTP thực hiện theo cặp nhóm được hiểu là thế đối lập giữa các yếu tố
trong cùng ngữ đoạn hay cú đoạn, hoặc giữa các ngữ đoạn hay cú đoạn với
nhau. Sự tương phản này có khi xuất hiện ngay trong ngữ cảnh giao tiếp, có
khi phải thông qua con đường suy luận. Có hai kiểu vế tương phản:
Kiểu 1: Thực hiện nhấn mạnh các yếu tố trên cả hai vế trong nội bộ câu
nhằm tương phản chúng với nhau. Ví dụ ngói đối lập với tranh trong câu (1):
(1) Tắt đèn, nhà NGÓI cũng như nhà TRANH.
Hoặc nhấn mạnh các yếu tố trên cả hai vế trong nội bộ câu nhằm tương
phản chúng với các yếu tố khác bên ngoài phát ngôn, chẳng hạn câu (2):
(2) Chỉ có GIA ĐÌNH mới THƯƠNG em thôi.
Có thể là đối lập với câu “còn HỌ thì KHÔNG”, tuy câu này không
được nói ra. Hoặc câu (3):
(3) BÀI TẬP tôi ĐÃ LÀM.
Có thể là đối lập với một ý khác không nói ra: “nhưng CHƯA NỘP”.
Kiểu 2: Đối lập những sự tình khác nhau trong các vế câu hiển ngôn,
thường được biểu hiện trong câu ghép hay câu phức hợp, biểu thị ý nghĩa
nhấn mạnh đối lập, nhấn mạnh tương phản, điều kiện, so sánh đối chiếu,
nhượng bộ…. Các yếu tố tiêu điểm được thể hiện tương phản đối xứng theo
từng cặp đồng loại theo chức năng ngữ pháp trong câu (V=vị tố; C=chủ tố,
O=bổ tố; Ngđ=ngữ đoạn; Cú=cú đoạn, Đn=đề ngữ, Tvn= tính vị ngữ, v.v.):
(1) Tôi mà NÓI thì tôi CHẾT, tôi thề đấy. (V-V)
14


(2) ANH về, TÔI cũng về // ANH mà về thì TÔI cũng về. (C-C/V-V)
(3) ANH cứ đi đi // còn TÔI tự lo liệu được. (C-C/V-V)

(4) ANH BA không ăn ớt nhưng ANH NĂM ăn được (ớt).
(C-C/(Ngđ{V/O}-Ngđ {V/O})
(5) Cô ấy không ăn ớt nhưng ăn được TIÊU. (Ngđ{V/O}-Ngđ {V/O})

(6) CHƠI thì nó giỏi lắm, còn HỌC thì (nó) dở tệ. (Đn-Đn/Tvn-Tvn)
(7) Nếu (mình) về sớm // mình sẽ đến đón cậu. (Cđ-Cđ)
(8) Mưa mặc mưa // ta cứ đi (Cđ-Cđ)
Có thể nhận thấy, ở loại TĐTP theo vế, các yếu tố tiêu điểm thông
thường đối xứng đồng nhất, nghĩa là việc tương phản nhất thiết phải được
thực hiện theo các cặp có tính chất đồng loại không những về chức năng ngữ
pháp mà còn phải đối lập tương ứng về nội dung, cân xứng trong hình thức
biểu hiện, như đã thấy trong các câu trên: “nói - chết”, “không ăn - ăn được”,
“anh – tôi”, “anh Ba – anh Năm”, “ớt – tiêu”, “giỏi lắm – dở tệ”, v.v.
1.4.3. Dấu hiệu nhận biết tiêu điểm tin
1.4.3.1. Dựa vào hình thức trình bày của ngôn ngữ
Trong ngôn ngữ nói, TĐTT được đánh dấu bằng sự nhấn mạnh của trọng
âm cường điệu thì trong ngôn ngữ viết, sự nhấn mạnh được mã hóa bằng hình
thức trình bày của ngôn ngữ.
Ví dụ: - TÔI yêu EM - EM yêu TÔI.
- BIN qua nhà HÀNG XÓM - HÀNG XÓM qua nhà BIN.

15


Thứ tự của các từ thay đổi thì nghĩa cũng thay đổi trong câu. Và tiêu
điểm thông tin sẽ thay đổi.
1.4.3.2 Dựa vào ngôn điệu
Ngữ điệu là đặc trưng của câu, trọng âm là đặc trưng của từ, hai yếu tố
này có đống vai trò quan trọng trong việc chi xuất TĐTT.
Ví dụ: (1) Anh... TÁT tôi ư?!
(2) Trời ạ... Sao tôi KHỔ thế này!
Ngữ điệu của câu (1) trọng âm là “tát”, ngữ điệu của câu (2) trọng âm là
“khổ”.
1.4.3.3 Dựa vào từ vựng

Theo kiến giải chúng tôi, về hình thức từ vựng, để nhận biết TĐTT, có
thể dựa vào từ hồi chỉ - khứ chỉ, trợ từ, phó từ.
1.4.3.3.1 Từ hồi chỉ - khứ chỉ
Từ hồi chỉ - khứ chỉ nếu xét về mặt ngữ nghĩa thì những từ này được
xem là thông tin cũ và trong phát ngôn khi có những từ này xuất hiện thì phát
ngôn đó không còn mang TTM nữa vì những sự việc được nói ra đã có ý thức
của người nghe (đã nói ra rồi).
Ví dụ: (1) Cô LẠI làm bài tập sai.
TĐTT
(2) Chú CÒN đi xe đạp.
TĐTT
Chúng ta có thể hình thành quy tắc thứ nhất về nhận diện TĐTT theo
hình thức từ vựng: Nếu trong một phát ngôn có xuất hiện hồi chỉ hoặc khứ chí
thì thành phàn theo sau từ hồi chí khứ chí chính là TĐTT.
16


1.4.3.3.2 Trợ từ
Trợ từ nhấn mạnh có tác dụng nhấn mạnh thông tin.
Ví dụ: (1) CHÍNH bà người cho tôi niềm tin
TĐTT
(2) CHÍNH họ đã ăn thịt đàn gà.
TĐTT
Trợ từ nhấn mạnh quy định kiểu hoàn cảnh sử dụng, quy định luôn các
thao tác tương ứng, các bình diện xuất phát và hướng.
Luôn cả các thao tác tương ứng, các bình diện xuất phát và hướng người
ta trong việc xử lý TĐTT. Từ đó, chúng ta có thể hình thành quy tắc thứ hai
về nhận diện TĐTT theo hình thức từ vựng: Nếu trong một phát ngôn có xuất
hiện trợ từ thì tổ hợp từ ngữ đứng sau trợ từ mà trợ từ nhấn mạnh chính là
TĐTT.

1.4.3.3.3 Phó từ
Các phó từ chỉ thời gian (đã, sẽ, đang, vừa, mới ...) chỉ sự tiếp diễn đồng
nhất (cũng, còn, cứ, lại, vẫn, đều, ...) v.v có tác dụng chỉ xuất TĐTT.
Ví dụ: (1) Nó SẼ đi học.
TĐTT
(2) Lan ĐÃ ăn sáng.
TĐTT
Chúng ta có thể hình thành quy tắc thứ ba về nhận diện TĐTT: Nếu
trong một phát ngôn có xuất hiện phó từ thì thành phần theo sau phó từ chính
là TĐTT.
17


1.4.3.4 Dựa vào hình thức câu
Hình thức ngữ pháp của câu được coi là phương tiện để định vị thông tin
cũng như là cũng như cơ sở để minh hóa TĐTT. Tùy từng hoàn cảnh và tâm
thế người giao tiếp sẽ có những cơn cấu cú pháp thích hợp lựa chọn. Với
trường hợp không được đánh dấu thường thì trạt tự cơ sở - tiêu điểm này
trùng với trật tự đề - thuyêt nên có thể dựa vào cấu trúc đề thuyết để xác định
đâu là phần cơ sở và phần TĐTT.
Trường hợp được đánh giấu về hình thức câu là tỉnh lược và đảo trật tự
cũng có tác dụng chỉ xuất TĐTT.
Ví dụ: - Đi làm rồi. (Tỉnh lược chủ ngữ)

1.5 Mối quan hệ giữa phương pháp phân tích câu theo cấu trúc thông tin
với 1 số phương pháp khác
Một câu tiếng Việt hiện nay có thể được phân tích theo nhiều phương
pháp. Phổ biến nhất là bốn phương pháp sau:
(1) Theo cấu trúc chủ - vị (ngữ pháp truyền thống)
(2) Theo cấu trúc vị từ - tham thể (ngữ pháp ngữ nghĩa)

(3) Theo cấu trúc đề - thuyết (ngữ pháp chức năng)
(4) Theo cấu trúc thông tin (cái cho sẵn - cái mới; lý thuyết phân đoạn
thực tại/ nêu báo).
Các phương pháp này được xây dựng dựa trên ba bình diện nghiên cứu
câu: kết học, nghĩa học và dụng học. Trong đó, phân tích câu theo cấu trúc
chủ - vị thuộc bình diện kết học của câu, cấu trúc vị từ - tham thể thuộc bình
diện nghĩa học, cấu trúc cái cho sẵn - cái mới thuộc bình diện dụng học.
Riêng phương pháp phân tích câu theo cấu trúc đề - thuyết thì lại được quan
niệm theo nhiều cách khác nhau.Mỗi phương pháp đều có những ưu - nhược

18


điểm riêng tồn tại trong mối quan hệ qua lại giữa các phương pháp. Lần lượt
sẽ tìm hiểu về mối quan hệ giữa CTTT với cấu trúc chủ - vị và đề - thuyết.
1.5.1 Mối quan hệ giữa cấu trúc thông tin với cấu trúc chủ-vị
Cấu trúc chủ-vị: “Đây là phương pháp lâu đời nhất của ngữ pháp
truyền thống.”

[6]

Theo bình diện kết học một câu tiếng Việt được chia làm:

thành phần chính của câu, thành phần phụ của câu, thành phần chính của từ,
thành phần biệt lập. Trong đó để câu mang nội dung thông báo trọn vẹn thì
cần hai thành phần chính đó là chủ ngữ và vị ngữ, đây là hai thành phần cốt
lõi trong câu. Chủ ngữ có mối quan hệ qua lại và quy định lẫn nhau với thành
phần vị ngữ. Chủ ngữ nêu lên đối tượng của thông báo mà nội dung nói về đối
tượng lại nằm ở vị ngữ. Vị trí thuận của chủ ngữ là đứng trước vị ngữ, tuy
nhiên cũng có lúc chủ ngữ đúng sau vị ngữ.

Ví dụ: Hôm nay, Lan // đi học muộn
TN
C
V
Cấu trúc tin có thể trùng với cấu trúc chủ - vị, có thể không?
Trường hợp cấu trúc tin trùng với cấu trúc chủ - vị là trường hợp chủ ngữ
mang tin cũ và vị ngữ mang tin mới. Chẳng hạn:
(Lan mệt mỏi). Cô ấy // đã thức suốt đêm qua.
Theo cấu trúc chủ - vị:

C

V

Theo cấu trúc nêu - báo: CC

CM

Đặc biệt với cấu trúc có chứa từ “là”, thông thường cái cho sẵn trùng
với chủ ngữ, cái mới trùng với vị ngữ.
Song, trên thực tế, có rất nhiều trường hợp ranh giới Cái cũ – Cái
mới không trùng với chủ - vị. Bởi lẽ, về nguyên tắc, thông tin mới của câu có
thể nằm ở bất kỳ thành phần nào trong câu (chủ ngữ, bổ ngữ, định ngữ, trạng

19


ngữ…). Thậm chí, có những trường hợp, phần tin mới nằm ở các hư từ vốn
không đảm nhiệm chức năng cú pháp gì trong câu. Ví dụ:
Tin mới trùng với chủ ngữ:

(1) Chính NÓ đã từ bỏ tình yêu của mình.
(2) ANH BÌNH mới là người đến trước.
(3) CẢ ANH ẤYcũng vắng mặt.
Tin mới trùng với bổ ngữ:
(1) Cô ấy nghi ngờ CẢ TÔI.
(2) Nó đọc cả BÁO.
Tin mới trùng với trạng ngữ:
- Mai anh đi à?
- NGÀY KIA tôi mới đi.
Tin mới trùng với các hư từ trong câu:
- Cậu ăn cơm chưa?
- RỒI.
Tin mới cũng có thể nằm ở các tình thái từ hoặc các quán ngữ tình thái
bởi lẽ các từ ngữ này luôn là điểm nhấn quan trọng về mặt thông tin. Do vậy,
xét về tính đúng sai, tính chân thực của phát ngôn, ta thấy có một điều khá thú
vị. So sánh:
(1) Anh ấy không đến.
(2) Có lẽ anh ấy không đến.

20


Trong câu (2), có lẽ là thành phần tình thái ngữ. Nó không phải là thành
phần quan trọng trong cấu trúc chủ - vị của câu, bỏ nó đi, câu vẫn không sai
về ngữ pháp. Nhưng nếu thực tế là anh ấy đến, thì nhận định (1) sẽ là sai, còn
(2) không bị coi là sai.
Xét về số lượng các thành phần trong câu thì cấu trúc tin luôn luôn chỉ
có hai phần (cái cho sẵn - cái mới). Còn cấu trúc chủ - vị, ngoài hai thành
phần chính (chủ ngữ, vị ngữ), trong câu còn rất nhiều các thành phần khác
(trạng ngữ, đề ngữ, tình thái ngữ…)

1.5.2 Mối quan hệ CTTT với cấu trúc đề- thuyết (đề ngữ- đề thuyết)
1.5.2.1 Phần đề trùng với phần “cho sẵn”, phần thuyết trùng với phần
“mới”
Xét về cấu trúc tin, đây là kiểu tổ chức gồm đủ hai phần được tổ chức
theo trật tự: phần “cho sẵn” đứng trước phần “mới”. Ở trường hợp này, mối
quan hệ giữa cấu trúc đề-thuyết và cấu trúc tin thể hiện ở sự tương ứng giữa
các thành tố. Cụ thể, phần đề của cấu trúc đề-thuyết biểu hiện nội dung đã cho
sẵn (thông tin cũ) còn phần thuyết biểu thị thông tin mới, chưa được nói đến
và trở thành phần “mới” trong cấu trúc tin.
Ví dụ:
(1) [Mụ Lợi tưởng thầy lang bỡn mụ, nhìn trộm thầy một cái rồi ngoảnh
mặt đi.] Mụ // thẹn.
(2) [Cái nhà lá hiện không có người thuê.] Cái nhà lá, // một hôm có
người đến hỏi thuê. [7, tr.219]
(3) [Trong buồng im phăng phắc… Người đi đường vãn dần.] Sự tĩnh
mịch của đêm khuya // ru người ta vào cõi mộng.

[8, tr.127]

Ở các ví dụ trên, các

từ ngữ “mụ”, “cái nhà lá”, “sự tĩnh mịch của đêm khuya” giữ chức năng phần
đề của CT Đ-T. Xét trong tình huống giao tiếp, trong ngữ cảnh, với dấu hiệu
chỉ dẫn (lặp từ), hay sự liên tưởng từ các câu đi trước, cho thấy chính những
21


từ ngữ ấy giữ chức năng làm phần “cho sẵn” trong CTT. Những từ ngữ còn lại
là phần thuyết của CT Đ-T, cũng chính là phần “mới” của CTT.
1.5.2.2 Phần đề trùng với phần “mới”, phần thuyết trùng với phần “cho

sẵn”
Trái với trường hợp trên, đây là kiểu cấu trúc tin có phần “mới” đứng ở
đầu phát ngôn, trước phần “cho sẵn” trong một dạng cấu trúc cũng gồm hai
phần nội dung thông tin. Các phát ngôn này có cấu trúc đề - thuyết nghịch
hướng với cấu trúc tin: đề đóng vai trò làm phần “mới” và thuyết đóng vai trò
phần “cho sẵn” của cấu trúc tin. Hay nói cách khác, đề biểu thị thông tin
“mới” còn thuyết biểu thị thông tin đã được nói đến ở những câu trước.
Ví dụ:
(6) [Đang sốt ruột mãi chưa được báo thì Tư và Tâm lên. Hai cậu mang
theo một con vịt, măng khô, một nắm thư, sách báo mới và tin tức.] Quý
nhất // là tin tức.
Ở ví dụ (6), dấu hiệu nhận diện phần “mới”, phần “cho sẵn” là nội dung
câu trước. “Tin tức” là nội dung đã được đề cập đến trong tiền văn. “Quý
nhất” là phần “mới”, là nội dung thông tin cung cấp tới người đọc. Phần
“mới” đứng trước phần “cho sẵn” nhằm mục đích nhấn mạnh thông tin cần
truyền đạt.
(7) [Ông Học chẳng ngày nào không cọ rửa sân nhà… nhưng chẳng bao
giờ nghĩ đến sự cọ rửa và giội nước cho hai đứa con lớn của ông.] Chính cái
thân ông, // ông cũng chẳng săn sóc gì nhiều.
Ở ví dụ (7), dấu hiệu nhận diện phần “mới” là tiểu từ “chính”. Trật tự sắp
xếp cùng sự trợ giúp của từ “chính” đã làm nổi bật thông tin người viết muốn
truyền đạt đến người đọc. Thông tin “ông cũng chẳng chăm sóc gì nhiều”
được cho là đã biết bởi sự liên tưởng do nội dung câu trước khơi gợi.
Như vậy, nếu trật tự thuận (Đề - Thuyết, Cho sẵn - Mới) với đề diễn đạt
phần “cho sẵn”, thuyết diễn đạt phần “mới” là kiểu tổ chức thường gặp trong
sự diễn đạt giản dị, thuận tiện, dễ tiếp nhận thì kiểu diễn đạt nghịch này lại
mang đến một giá trị mới: nội dung thông tin cần truyền đạt được nhấn mạnh.
Đặc biệt, khi bên cạnh trật tự Mới - Cho sẵn có sự xuất hiện của các yếu tố
22



×